“Được rồi, hôm nay, tớ tập trung tất cả mọi người lại đây là vì …”.
“Có ai đó chết”.
“Không, Kate!”, tôi thở dài.
“Hừm, vậy mà cậu nói giống như …”, Kate nhấm nhẳng trong khi Frankie và tôi nhăn nhó vì cái tính tự nhiên quá đáng toàn hại Kate thành ra xử sự không khéo chút nào.
“Này, thế London của cậu thế nào rồi?”. Frankie hỏi.
Tôi ngồi bên chiếc bàn trong phòng khách sạn của mình, điện thoại trong tay, kết nối với chiếc điện thoại mở loa lớn ở nhà Kate đầu dây bên kia. Tôi đã mất cả buổi sáng dạo vòng quanh London với bố, chụp những tấm hình ông đứng lúng túng, vụng về ngay đằng trước những thứ đặc trưng cho nước Anh, như những chiếc xe buýt màu đỏ, những thùng thư, những con ngựa của cảnh sát, những quán rượu, cung điện Buckingham, và một người hoàn toàn không biết cách ăn mặc là nam hay nữ.
Kệ tôi ngồi một mình, bố vẫn nằm trên giường xem phần còn lại của chương trình tivi, vừa nhấm nháp cốc rượu mạnh, món kem chua và cả những lát khoai tây Pringles không hành.
“TUYỆT QUÁ!”, ông hét lên với chương trình tivi. Tôi chia sẻ những thông tin mới nhất. Bên kia đầu dây, Kate và Frankie tranh nhau nói quanh chiếc điện thoại được bật loa ngoài.
“Con cậu nôn trớ vào tớ đây này!”, Frankie hét toáng lên.
“Nôn trớ đâu mà nôn trớ, thằng bé chỉ chảy nước bọt tí tẹo …”.
“Không phải. Thế này mới là chảy nước bọt …”.
Im lặng.
“Frankie, cậu gớm quá đi!”.
“Thôi … Thôi … Trời đất các cậu, ngừng lại được chưa?”.
“Xin lỗi, Joyce. Nhưng tớ không thể tiếp tục cuộc nói chuyện cho đến khi nó được đưa ra khỏi đây. Cái sinh vật này cứ bò chung quanh, cắn cái này cái kia, leo lên cái này cái kia. Phì nước bọt. Rồi tùm lum thứ khác nữa. Tớ không tập trung được. Christian giúp được không nhỉ?”.
Tôi cố gắng để khỏi bật cười.
“Tại sao cậu gọi con tớ là nó. Rồi còn sinh vật này kia nữa. Và câu trả lời cho cậu luôn là không. Christian đang bận”.
“Anh ấy đang coi đá banh mà …!”.
“Thì coi đá banh chính là bận đấy. Anh ấy không thích bị làm phiền. Nhất là với cậu. Luôn như thế”.
Lại một khoảng im lặng.
“Lại đây, nhóc”. Ở đầu dây bên kia, tiếng Frankie nói một cách khó khăn.
“Tên thằng bé là Sam. Cậu là mẹ đỡ đầu của thằng bé đấy, ngay cả trong trường hợp cậu quên béng mất điều đó”.
“Không, tớ không quên điều đó. Tớ chỉ quên tên nó thôi”. Giọng cô bạn căng thẳng, như thể cô đang phải nhấc một vật nặng khủng khiếp lên. “Này … này …
Cậu cho nó ăn cái gì thế?”.
Sam kêu thét lên.
Frankie khịt mũi.
“Frankie, thôi đưa thằng bé đây cho tớ. Tớ mang cu cậu vô với anh Christian vậy”.
“Phù … Xong rồi, Joyce”. Frankie bắt đầu ngay khi Kate đi ra. “Tớ đã nghiên cứu cẩn thận những thông tin mà cậu cho tớ ngày hôm qua. Tớ có mang mấy tờ giấy theo cùng … Chờ chút nhé”.
Tôi nghe tiếng lật giấy sột soạt.
“Cái gì thế?”:
Tiếng Kate hỏi, khi vừa quay trở lại.
“Cứ như Joyce nhảy vào trong đầu óc của anh chàng người Mỹ kia. Và thế là bằng cách nào đó không biết, cô bạn của chúng ta có được ký ức của anh ấy, những khả năng của anh ấy, cả sự thông minh của anh ấy. Frankie đáp.
“Hả?”. Tiếng Kate cứ như đang xem phim kinh dị.
“Tớ phát hiện ra tên của anh ấy là Justin Hitchcock”. Tôi nói đầy phấn khích.
“Bằng cách nào?” Kate hỏi.
“Họ của anh ấy tất nhiên là trùng với họ con gái. Tớ tìm ra thông tin về cô bé trong cuốn chương trình ba lê tối qua. Và tên anh ấy … Ừm, tớ đã nghe cái tên đó trong mơ”.
Im lặng.
Tôi đảo mắt qua lại để tưởng tượng ra hai đứa bạn mình lúc này trông như thế nào.
“Có chuyện khỉ gió gì đang diễn ra ở đây thế?”, Kate hỏi, giọng xáo trộn và hoang mang.
“Tìm thông tin về anh ta trên Google thử xem, Kate”. Frankie đề nghị. “Xem thử xem liệu cái tên đó có tồn tại không”.
“Anh ấy tồn tại. Tin tớ đi”, tôi nói đầy chắc chắn.
“Không, cưng ạ …. Cậu thấy đấy, những cái câu chuyện này của cậu … Chúng tớ nói thật là chúng tớ lo ngại cậu có vấn đề gì đấy không bình thường. Phải kiểm tra trước khi thật sự tin vào những điều cậu nói. Để chúng tớ tìm đã nhé.
Rồi chúng ta sẽ tiếp tục dựa trên những thông tin đó …”.
Tôi chống cằm, ngồi đợi.
“Trong khi Kate làm điều đó … Tớ có vài ý về việc chia sẽ ký ức …”.
“Cái gì?”. Kate lại gào lên phát hoảng lần nữa. “Chia sẻ ký ức? Cả hai cậu đều có vấn đề thần kinh à?”.
“Không, chỉ có tớ thôi”, tôi nói đầy mỏi mệt, gục đầu lên bàn.
“Nghe này, Joyce. Tớ đã lên mạng, tìm kiếm thông tin về tình trạng của cậu.
Tớ phát hiện ra lằng cậu không phải là người duy nhất trên thế giới này có cảm giác như thế …”.
Tôi ngồi bật dậy ngay, lắng nghe chăm chú.
“Tớ đã vào khá nhiều trang web, xem các bài phỏng vấn một số người.
Những người này thừa nhận không hiểu bằng cách nào, họ có được những ký ức của người khác. Một số người còn có cả những kỹ năng, khẩu vị tương tự như người khác”.
“Này, hai cậu thôi đi. Tớ biết những chuyện này đã được dàn dựng sẵn.
Đừng có dọa tớ nữa, Frankie”. Tiếng của Kate vang bên kia đầu dây.
“Không phải dàn dựng sẵn đâu …”, tôi khẳng định với Kate.
“Thế sao cậu nói với tớ rằng tự dưng cậu có được kỹ năng của ai đó khác, nghe như là ma thuật”.
“Tự dưng cậu ấy nói được tiếng Latin, tiếng Pháp và tiếng Ý”, Frankie giải thích.
“Còn khẩu vị ….?”, Kate vẫn chưa bị thuyết phục.
“Bây giờ cậu ấy thích ăn thịt”. Frankie lại nói.
“Nhưng tại sao cậu lại nghĩ rằng đó là kỹ năng, khẩu vị của người khác …?
Tại sao cậu không nghĩ rằng Joyce đã tự học tiếng Latin, tiếng Pháp, tiếng Ý và cũng chính Joyce quyết định ăn thịt, giống như mọi người bình thường? Sao cậu cứ phải nghĩ rằng đó là những kỹ năng và khẩu vị mà cậu ấy TỰ NHIÊN có được từ ai đó khác?”.
Im lặng.
“Nghe này, Kate. Tớ đồng ý với cậu rằng chuyện thay đổi từ việc ăn kiêng sang ăn bình thường có thể là quyết định của chính Joyce. Nhưng còn chuyện học ba ngoại ngữ thì …”.
“Và tớ có những giấc mơ về những khoảnh khắc tuổi thơ của Justin Hitchcock nữa”.
Vài phút trôi qua.
“Nghe này … Tớ tìm được cái này”. Frankie nói, “Những gì cậu đã trải qua là hoàn toàn bình thường … à, không hoàn toàn bình thường, nhưng vẫn có những người khác … ờ …”.
“Cũng kỳ quái như thế?”, Kate gợi ý.
“Những trường hợp này cũng rơi vào tình huống tương tự cậu. Chỉ có điều là, tất cả họ đều từng thay tim … Cậu thì chẳng thay gì cả nên chúng ta lướt qua xem cái khác vậy”.
Thình thịch. Thình thịch. Trống ngực tôi rộn lên trở lại.
“Gượm đã”. Kate ngắt lời. “Có một người trong này nói rằng họ bị người ngoài hành tinh bắt cóc”.
“Ngừng đọc cái đó đi nào, Kate”. Frankie nhăn nhó. “Tớ đâu có đề cập gì đến người phụ nữ đó đâu”.
“Nghe tớ này”, tôi cắt ngang cuộc tranh cãi của hai cô bạn. “Anh ấy từng hiến máu. Trùng khoảng thời gian tớ vào bệnh viện”.
“Vậy thì sao?”. Kate hỏi.
“Cậu ấy được truyền máu”. Frankie giải thích. “Không khác lắm với cái giả thiết mà tớ vừa đề cập”.
Tất cả chúng tôi đều im lặng.
Kate phá tan bầu không khí ngột ngạt. “Tớ vẫn không hiểu được. Ai đó giải thích đi”.
“Ừ, nó cũng giống những trường hợp thay tim mà Frankie nói ban nãy, phải không?”. Tôi mềm mỏng. “Máu cũng đến từ tim”.
Kate thở hổn hển. “Nó đi thẳng từ trái tim anh ấy sang trái tim cậu”.
“Ồ, thế bây giờ có thấy sự truyền máu lãng mạn chưa nào!”, Frankie bình luận thêm. “Để tớ nói cho các cậu nghe những gì tớ tìm được trên mạng. Một số báo cáo về những người được thay tim cho rằng, bệnh nhân thay tim không chỉ nhận quả tim mà còn thừa hưởng luôn cả một số tính cách đã có từ người hiến tặng. Họ làm những nghiên cứu với gia đình bệnh nhân, và nhận ra rằng không ít người thay đổi, có cuộc sống mới sau khi được thay tim. Các nhà khoa học giải thích rằng, trong trái tim có những tế bào “thông minh” có khả năng ghi nhớ ký ức”.
“Thế nghĩa là nếu trái tim vẫn giữ được sự thông minh ấy thì khi máu – thứ được bơm trực tiếp từ trái tim – truyền từ người này sang người khác, nó có thể mang theo cả những ký ức đó luôn?”, Kate hỏi. “Ví dụ như tình yêu của anh ấy với … món thịt và các ngôn ngữ”, cô thêm vào với chút ít chua chát trong giọng nói.
Không ai muốn nói “vâng” cho câu hỏi ấy. Cả ba chúng tôi đều muốn nói “không”.
“Joyce này, thế cậu thử tìm xem ai đã hiến máu cho cậu được không”. Kate nói sau một hồi lâu.
“Không được”. Tiếng của Frankie. “Những thông tin như thể luôn được giữ bí mật. Với lại, không phải tất cả máu cậu ấy được truyền đều là của anh ấy.
Anh ấy chỉ hiến tặng có một đơn vị máu thôi. Sau đó, máu sẽ được phân tích ra đủ các thành phần như hồng cầu, bạch cầu gì đó. Những gì Joyce nhận được có thể chỉ là một phần máu của anh ấy. Nó có thể bị pha trộn với máu được hiến tặng của những người khác nữa”.
“Máu của anh ấy vẫn chảy trong người tớ”. Tôi nói, “Không quan trọng là bao nhiêu đâu, các cậu”.
“Bọn tớ tìm ra thông tin về cái tên Justin Hitchcock trên Google rồi”. Kate lấp đầy khoảng trống.
Tim tôi đập loạn xạ. Nói cho tôi biết đi nào. Hãy nói rằng không phải tôi đã tưởng tượng và dựng nên nó. Hãy nói rằng anh ấy tồn tại.
“Đây này. Justin Hitchcock … Một người làm nón ở Massachusetts. Hừm, ít nhất thì cũng trùng chi tiết anh ta là người Mỹ”.
“Trời … Cậu có cái gì khác không? Đọc tiếp đi!”. Tôi giục. “Một Justin Hitchcock khác, trong lĩnh vực quân đội … Năm 1774. Ôi trời ơi, cách cậu đến mấy trăm năm đấy”.
“Gượm đã …”, Frankie ngắt ngang, không muốn tôi mất hi vọng. “Có một Justin Hitchcock khác ở đây … Làm việc tại New York”.
“Không”. Tôi nói một cách bực dọc. “Tớ biết là anh ấy có tồn tại mà. Thật là kỳ lạ. Các cậu thêm vào tên trường Cao đẳng Trinity xem. Anh ấy từng có một buổi nói chuyện ở đó”.
Lách cách. Lách cách. Lách cách.
“Không. Không có cái tên Justin Hitchcock nào với trường Cao đẳng Trinity”.
“Cậu có chắc cậu đã nói chuyện với con gái anh ta không?”, Kate hỏi.
“Vâng”. Tôi nghiến chặt hàm răng.
“Để tớ thêm vào các từ khóa khác nhé … Nghệ thuật, kiến trúc, tiếng Anh, tiếng Latin, tiếng Ý …”. Frankie nói trong khi vẫn tiếp tục gõ lách cách trên bàn phím ở đầu dây bên kia.
“A ha! Có đây rồi. Justin Hitchcock. Giảng viên được mời thỉnh giảng tại trường Cao đẳng Trinity, Dublin. Cán bộ giảng dạy bộ môn Nghệ thuật và Khoa học Nhân Văn. Khoa Nghệ thuật và Kiến trúc. Tốt nghiệp đại học tại Chicago.
Bằng cao học, ở Chicago. Quan tâm đặc biệt đến Lịch sử nước ý thời Phục hưng và nghệ thuật điêu khắc Barốc, những bức họa châu Âu giai đoạn 1600- 1900.
Đồng tác giả cuốn sách Thời đại vàng son của hội họa Hà Lan:
Vermeer, Metsu và Terborch. Anh ta cũng đã từng viết trên 50 bài báo khác nhau trên các tạp chí … Vân vân và vân vân …”.
“Anh ấy … có thật!”. Kate nói, mặc dù nghe giọng cô ấy như không tin được chính mình.
Cảm thấy tự tin hơn, tôi tiếp:
“Thử tìm tên anh ấy với từ khóa Phòng Triển Lãm Quốc Gia London xem”.
“Tại sao?”.
“Tớ có một linh cảm …”.
“Cậu và những linh cảm của cậu …”, Kate tiếp tục đọc.
“Anh ấy là ủy viên ban quản trị khu vực Nghệ thuật Âu châu tại Phòng Triển Lãm Quốc Gia, London. Ôi trời ơi … Joyce, anh ấy làm việc ở London hả? Tớ phải đến xem anh ấy thế nào”.
“Chính là anh ấy …”. Tôi nói, tự tin. “Nếu anh ấy là người hiến màu cho tớ, điều đó có ý nghĩa quan trọng với tớ”.
“Chúng ta sẽ phải tìm ra cách gì đó …”. Kate đề nghị.
“Đó là anh ấy”, tôi lặp lại, như đang trên mây.
“Thế bây giờ cậu định làm gì tiếp theo?”.
Tôi mỉm cười thật nhẹ và liếc nhìn đồng hồ lần nữa. “Điều gì khiến các cậu nghĩ rằng tớ chưa chuẩn bị gì cả và chưa biết phải làm gì cả?”.
Justin vừa cầm điện thoại vừa đi đi lại lại trong văn phòng làm việc nhớ tại Phòng Triển Lãm Quốc Gia.
“Không, không, Simon. Tôi nói những bức chân dung của các danh họa người Hà Lan cơ …”, anh cười. “Tôi từng viết một cuốn sách về đề tài đó. Vì thế, những thứ ấy tôi còn hơn là thân thuộc nữa …”.
Hừm, mình mới viết xong nửa cuốn và đã ngừng lại cách đây hai năm rồi.
“Cuộc triển lãm sẽ bao gồm sáu mươi tác phẩm, tất cả những bức họa trong giai đoạn 1600 đến năm 1680”.
Có tiếng gõ cửa.
“Xin chờ một chút”, anh nói vọng ra.
Nhưng anh chưa dứt câu thì cánh cửa đã mở và người đồng nghiệp của anh, Roberta bước vào. Mặc dù còn trẻ, mới độ tuổi ba mươi, nhưng lưng cô gái đã hơi gù. Cách ăn mặc của cô ấy như thể cô đang sống ở một thập kỷ trước. Cô hiền lành và rụt rè, chỉ hay luôn miệng xin lỗi về mọi thứ, xin lỗi tất cả mọi người như thể sự xuất hiện của cô là một điều gì xúc phạm.
“Xin lỗi, Justin”, cô thì thầm, cầm một chiếc làn mây nhỏ trong tay. “Tôi không biết anh đang nghe điện thoại. Xin lỗi. Cái này tiếp tân nhờ chuyển cho anh. Tôi chỉ cầm nó vào đây thôi. Xin lỗi”.
Cô quay đi, không gây ra tiếng động nào, cứ như đang rón rén bước trên đầu ngón chân. Cánh cửa được khẽ khàng đóng lại sau lưng.
Anh chỉ gật đầu nhẹ nhàng một cái với cô rồi quay trở lại với cuộc nói chuyện qua điện thoại. Tiếp tục những gì ban nãy đang nói dở.
“Vâng, Simon. Nếu có bất kỳ vấn đề nào khác anh cần biết, vui lòng liên lạc với tôi ở đây, tại văn phòng”.
Anh dập máy. Bàn tay chợt ngập ngừng một thoáng. Cái giỏ gì thế nhỉ?
Không biết mình có cần gọi cho bộ phận bảo vệ trước khi mở ra không. Bên dưới tay cầm khá dày, chiếc làn mây được phủ kín bởi một tấm vải ca rô. Anh bước lùi lại một bước, nhấc tấm vải phủ lên từ từ, thật chậm, trong tư thế sẵn sàng … nhảy ra xa nếu có bất cứ điều gì không ổn …
Một tá bánh xốp nướng được xếp ngay ngắn trong làn, bày ra trước mắt anh!
Tim anh rộn lên từng nhịp thình thịch, thình thịch. Anh quay nhìn quanh phòng, biết chắc rằng không có ai khác ngoài mình, nhưng anh vẫn có một cảm giác không thoải mái khi nhận món quà bất ngờ này. Anh lục lọi chiếc làn mây.
Có một tấm thiệp nhỏ trong đó. Hai bàn tay anh bất giác run run. Anh từ từ rút cánh thiệp ra khỏi chiếc phong bì. Ngay chính giữa, chỉ có một dòng chữ viết tay ngay ngắn, nét chữ rất đẹp …
“Cám ơn …”.