Cảm Ơn Ký Ức

Chương 33



Justin đi bộ ngang qua ga đến của phi trường Dublin buổi sáng thứ Ba.

Chiếc điện thoại di động trên tai. Anh bấm gọi và lại nghe lần nữa giọng của Bea trong hợp thư thoại. Anh thở dài trước tiếng “bíp” buồn chán, chán cả cách xử sự trẻ con của cô bé.
“Chào con, con yêu. Bố đây. Một lần nữa. Con nghe này, bố biết là con giận bố, và vào tuổi con thì mọi thứ rất là … ồ, đầy kịch tính. Nhưng chỉ cần con lắng nghe những điều bố nói, thì chắc hẳn là, đứa con ngốc nghếch của bố phải đồng ý với bố và cảm ơn bố về chuyện đó khi con về già.
Bố chỉ muốn những điều tốt nhất cho con và bố sẽ không gác máy cho đến khi nào bố thuyết phục được con …”.
Đột nhiên, anh ngắt máy.
Phía sau rào chắn của khu vực ga đến, là một người đàn ông trong bộ vest sẫm màu, đang cầm một tấm bảng trắng lớn với họ tên Justin viết đầy đủ bằng chữ in hoa. Bên dưới đó là hai chữ đầy kỳ diệu, “CẢM ƠN”.
Những chữ ấy chiếm hết sự chú ý của anh khi anh nhìn những tấm bảng, những tờ báo, những mẩu quảng cáo, rao vặt trên radio, trên tivi suốt cả ngày.
Bất cứ khi nào nghe những chữ ấy thốt ra từ miệng người qua đường, anh đều dành gấp đôi sự chú ý, theo sát họ như thề bị thôi miên, như thể họ đang chứa đựng những lời giải mã đặc biệt chỉ dành riêng cho anh. Những chữ ấy trôi bồng bềnh trong không khí như mùi hương tươi mới của cỏ mới cắt ngày hè, chúng mang theo cùng với chúng một cảm xúc, một nơi chốn, một khoảng thời gian trong năm, một sự hạnh phúc, một sự đón chào thay đổi, một sự di chuyển.
Chúng chở đến cho anh nghe những bài hát đặc biệt, quen thuộc từ những ngày thanh niên trai trẻ, khi luyến tiếc về quá khứ như những cơn thủy triều, quét vào và đẩy anh trên cát đẩy anh vào những khi anh ít mong đợi nhất, đôi khi là lúc anh ít muốn nhất nữa.
Những chữ ấy luôn luôn trong đầu anh, cảm ơn, cảm ơn, cảm ơn. Anh càng nghe chúng nhiều và càng đọc đi đọc lại những mẩu giấy gửi tới nhiều, thì chúng càng trở nên xa lạ, như thể anh thấy một chuỗi những ký tự kỳ lạ này lần đầu tiên trong đời, như thể là những nốt nhạc, thật quen thuộc, thật đơn giản, nhưng được sắp xếp theo một cách thức khác, trở thành những thanh âm trong trẻo đến vô cùng.
Không còn chút ý nghĩ nào khác về chuyện của Bea, anh gập điện thoại cất vào và bước đến bên người đàn ông đang cầm tấm bảng.
“Xin chào”.
“Ông Hitchcock ạ?”. Người đàn ông cao một mét tám mươi, đôi chân mày quá rậm và dày đến nỗi Justin chỉ vừa vặn thấy được đôi mắt ông.
“Vâng”, anh đáp với vẻ nghi ngờ. “Chiếc xe này dành để đón một người tên là Justin Hitchcock à?”.
Người đàn ông kiểm tra kỹ lại mảnh giấy trong túi áo của mình. “Vâng, đúng thế thưa ông. Vẫn đúng là ông phải không ạ, hay có gì thay đổi?”.
“Vâng”, anh nói rất chậm, như chìm trong vẻ trầm mặc suy tư. “Là tôi”.
“Dường như ông có vẻ gì đó không chắc chắn”, người tài xế nói, hạ thấp tấm bảng xuống. “Ông định đi đâu sáng nay ạ?”.
“Anh không biết à?”.
“Tôi biết thưa ông. Nhưng lần trước, tôi đã để một người vào xe với vẻ hơi không chắc lắm như ông. Và rồi … Ông không tin được đâu, tôi đã đưa một nhà hoạt động xã hội chuyên bảo vệ động vật thẳng đến cuộc họp IMFHA”.
Không biết nghĩa chữ viết tắt đó là gì, Justin hỏi lại:
“Có gì tệ lắm à?”.
“Vâng. Tệ lắm. Vì ngày hôm đó, vị Chủ tịch của một tập đoàn lớn tại Ailen bị kẹt lại sân bay vì không có xe đón. Trong khi đó, cái tên tài xế mất trí tôi đây lại đón một người khác để đưa đến buổi họp quan trọng. Một kinh nghiệm nhớ đời cho tôi khiến tôi luôn phải hỏi lại những người hơi không chắc chắn”.
“Ừm, thế thì có lẽ trong buổi họp hôm ấy, những thành viên dự họp sẽ bắt chước kêu ố ồ như những con vật thuộc loại quý hiếm cần bảo vệ ….”, Justin đùa.
Anh nghếch cằm lên, tự tin, trong khi người tài xế vẫn nhìn anh lạnh tanh, không biểu lộ chút cảm xúc nào.
Máu dồn lên làm khuôn mặt Justin nóng bừng.
“Được rồi tôi đi đến Phòng Triển Lãm Quốc Gia”. Ngừng. “Tôi sẽ đến đó, nói chuyện về một tác phẩm hội họa. Mọi người chắc hẳn sẽ nghe tôi chăm chú.
Anh biết không, người vợ cũ của tôi đã từng là một trong số những khán giả nóng nhiệt của tôi đấy, và tôi từng chạy ào đón cô ấy với một cây cọ vẽ trong tay”, anh cười thành tiếng. Người tài xế đáp lại bằng một ánh nhìn trăn trối khác.
“Thật ra … Tôi đã không hề mong chờ rằng có ai đó đón mình”, Justin càu nhàu bước theo gót người tài xế, ra khỏi phi trường vào một ngày tháng Mười xám xịt.
“Không ai ở Phòng Triển Lảm thông báo cho tôi biết rằng anh đến đón”, anh hỏi dò người tài xế trong khi họ vội vã băng qua lối đi dành cho khách bộ hành.
“Tôi cũng không hề biết về việc đi đón này, cho đến tận khá trễ tối hôm qua, tôi mới nhận được một cuộc gọi. Tôi cứ nghĩ rằng đấy là đi đến chỗ đám tang của bà dì bên vợ hôm nay”. Ông lục lọi trong túi để lấy vé đậu xe hơi và đẩy nó vào trong một chiếc máy tự động để in ngày giờ đậu xe.
“Ồ, tôi rất tiếc khi nghe điều đó”, Justin ngừng lau nhũng giọt nước mưa rơi lất phất trên vai chiếc áo khoác màu nâu của mình, nhìn người tài xế với một vẻ sẻ chia chân thành thật sự.
“Tôi ghét những đám tang”.
“Vâng, không phải mình ông nghĩ như thế đâu”.
Người tài xế ngừng bước đi, quay lại nhìn Justin với một ánh nhìn nghiêm túc đến mức nghiêm trọng trên gương mặt. “Ông đã từng … trong đám tang nào chưa? Ý tôi là người thân”.
Justin không chắc đây là một câu hỏi nghiêm túc hay một câu gợi chuyện cho vui. Nhưng anh nhận ra người tài xế không hề hé miệng dù chỉ là cho một nụ cười rất nhẹ. Anh mường tượng lại đám tang của bố, khi anh mới chín tuổi đầu. Hai gia đình đứng lẫn lộn cùng nhau trong khuôn viên khu nghĩa trang, tất cả đều mặc từ đầu đến chân đúng một màu đen tuyền.
Gia đình bố anh đổ về từ Ailen, mang theo với họ những cơn mưa … những cơn mưa trái mùa bất thường giữa mùa hè nóng bức ở Chicago. Mọi người đứng bên nhau dưới những chiếc dù. Anh đứng gần sát người cô ruột Emelda, người một tay cầm dù, tay kia ôm chặt lấy vai anh. Al và mẹ anh thì đứng kế đó, dưới một cây dù khác. Al hãy còn bé lắm. Cậu bé mang theo một chiếc bật lửa, chơi với chiếc bật lửa suốt trong quãng thời gian đức cha cầu nguyện và nhắc lại những điều về cuộc đời của bố. Điều đó khiến Justin khó chịu. Sự thật là, tất cả mọi người, tất cả mọi vật đều khiến Justin thấy khó chịu trong ngày hôm ấy.
Anh ghét bàn tay của cô Emelda cứ để trên vai anh, mặc dù anh biết rằng đó chỉ là một động tác đầy chia sẻ. Anh thấy tay cô sao mà nặng, sao mà chặt quá, như thể cô cứ giữ anh phải đứng nguyên đó, e sợ anh cũng sẽ bỏ cô mà đi, e sợ anh cũng đào một cái lỗ thật to trên nền đất và chui vào đấy như bố anh đã làm.
Anh được cô đón sáng nay. Cô mặc cho anh bộ vest trẻ em đẹp nhất, trong khi mẹ anh cứ thì thầm gì đấy bằng một giọng nhỏ đến mức anh chưa bao giờ nghe. Rồi cô giả vờ làm một nhà tiên tri đoán những điều bí mật …
“Cô biết cháu muốn gì … Chú lính bé nhỏ dũng cảm”, cô nói bằng chất giọng đặc sệt Ai- len của mình. Rồi cô lục lọi trong cái giỏ xách to quá khổ để lôi ra một chú lính bằng nhựa đang giơ tay chào, nhanh chóng gỡ miếng giấy nhỏ dán giá tiền ra, và đặt chú lính nhựa vào tay anh.
Justin nhìn chằm chằm chú lính nhỏ trong tay mình. Chú lính bồng một khẩu súng nhựa trong tay, vẫy kiểu chào mừng. Ngay lập tức, anh cảm thấy như mình không còn tin vào chú lính nhỏ đó nữa. Anh nhận ra mình không còn là cậu nhóc chín tuổi. Không còn là một Justin với niềm khao khát có chú lính nhựa đó. Anh không còn chờ đợi món quà là chú lính nhựa được bố hứa mua cho trong ngày sinh nhật.
Nhưng dù sao, anh cũng đón nhận món quà ẩn chứa đầy sự quan tâm sâu sắc của người cô, với một nụ cười rất nhẹ. Sau đó, khi anh đứng bên cạnh cô Emelda bên lỗ huyệt, có lẽ cô đọc được ý nghĩ của anh nên đã níu rất chặt vai anh, cứ như anh sẽ nhảy vào cái lỗ đen ngòm chết tiệt kia. Quả thật, anh đã nghĩ rằng hình như cả thế giới bị chôn theo dưới ấy. Nếu anh trốn thoát bàn tay mạnh mẽ của người cô ruột, nhảy xuống cái hố ấy thì sao nhỉ? Có thể sẽ chẳng ai bắt được anh. Có thể đất sẽ phủ lên trên, những thảm cỏ sẽ bao quanh. Anh và bố sẽ lại có thể bên nhau.
Anh tự hỏi liệu như thế có được không. Anh sẽ có bố, một mình anh thôi, không phải “chia sẻ” bố với mẹ hay Al.
Rồi hai bố con lại có thể cùng chơi, cùng cười với nhau, dù là chơi hay cười trong bóng tối. Có thể bố không thích ánh sáng. Ông muốn ánh sáng biến đi mất cả … Có thể những tia nắng mặt trời nóng bỏng làm bố khó chịu. Có thể bố muốn ở trong bóng râm … Trong khi mẹ và anh, và bé Al chạy chơi bên ngoài …
Mẹ sẽ mỗi ngày một ngăm đen, trong khi bố thì mỗi ngày một nhợt nhạt hơn …
Có thể đó là những điều bố muốn.
Khi chiếc quan tài được hạ xuống trong lỗ huyệt đen, mẹ anh đã khóc ngất lên khiến Al cũng khóc theo. Justin biết rằng không phải Al khóc vì đã mất đi người bố. Em trai anh đang khóc vì hoảng sợ trước những hành động của mẹ.
Tiếng khóc của cậu bé làm vỡ tan trái tim những người đến dự. Mẹ anh khóc nức nở, bà nội cũng sụt sùi theo. Ngay cả chú Seamus em trai của bố, người mọi ngày luôn luôn giữ nụ cười trên môi, bây giờ cũng mím chặt đôi môi run run.
Justin nghĩ rằng có lẽ có ai đó khác đang ngự trị bên trong con người chú Seamus, chỉ chực bùng ra khóc òa lên nếu như chú Seamus cho phép.
Mọi người lẽ ra đừng nên bắt đầu khóc. Bởi vì khi họ bắt đầu …
Justin thấy như mình muốn hét to lên với tất cả mọi người, bảo họ ngừng cái việc khóc lóc ngốc nghếch đi, rằng Al không phải đang khóc vì bố mất. Anh muốn nói với họ rằng Al hầu như không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Rằng em trai anh tập trung suốt buổi vào chiếc bật lửa, chỉ thỉnh thoảng mới ngước lên nhìn Justin với gương mặt ngơ ngác, đầy những câu hỏi mà cậu bé không bao giờ hiểu được.
Có mấy người đàn ông mặc đồng phục mang quan tài của bố đặt vào vị trí.
Những người đàn ông ấy … Không phải là các chú các bác hay những người bạn của bố anh. Họ không khóc như những người khác, nhưng họ cũng không hề mỉm cười. Họ không trông chán ngắt nhưng cũng không hề thú vị. Nhìn họ, thấy giống như họ đã dự hàng trăm lần những đám tang tương tự thế này. Họ chẳng quan tâm lắm đến chuyện lại có ai đó qua đời, cũng chẳng quan tâm đến chuyện lại mang người quá cố lần nữa và chôn cất lần nữa.
Anh nhìn những người đàn ông, không một nụ cười, ném những nắm đầy sỏi đất lên trên chiếc quan tài, tạo ra những thanh âm lốc cốc khi sỏi chạm vào mặt ván gỗ. Anh tự hỏi có khi nào những thanh âm ấy sẽ đánh thức giấc ngủ mùa hè của bố không. Anh không khóc như những người khác, bởi vì anh cảm thấy gần như chắc chắn rằng chỉ là cuối cùng bố muốn trốn khỏi ánh sáng thôi.
Bố sẽ chẳng bao giờ phải ngồi một mình trong bóng râm nữa.
Justin nhận ra rằng người tài xế đang nhìn anh chăm chú.
“Không”. Justin trả lời rất khẽ, tằng hắng giọng và điều chỉnh ánh mắt của mình trở về với thế giới của ba mươi lăm năm sau. Thời gian như vừa mới tạo nên một chuyến du lịch cho ký ức của anh, để quay về quá khứ.
“Xe chúng ta kia rồi!”. Người tài xế bấm nút điều khiển tự động trên chiếc chìa khóa của mình làm đèn của chiếc xe Mercedes sáng lên.
Justin há hốc mồm.
“Anh có biết ai đã tổ chức, sắp xếp việc đưa đón này không?”.
“Không”. Người tài xế giữ cửa mở để anh bước vào. “Tôi chỉ nhận những yêu cầu từ sếp của tôi. Có điều hơi bất thường là tôi nhận được mẩu giấy “Cảm ơn” kèm theo. Có gì không ổn với ông à?”.
“Vâng, nhưng … cũng không hoàn toàn là vậy. Anh có thể tìm hiểu sếp anh giúp tôi là ai chi trả cho việc đưa đón này không?”. Justin ngồi vào ghế sau của chiếc xe hơi, đặt chiếc cặp lên sàn xe, bên dưới chân mình.
“Tôi sẽ thử”.
“Thật tuyệt! Cảm ơn anh!”.
Mình sắp tìm ra sự thật rồi.
Justin ngả người thư giãn trên chiếc ghế da sang trọng, duỗi chân thẳng ra hoàn toàn và nhắm mắt lại, mỉm cười.
“À xin tự giới thiệu, tên tôi là Thomas …”. Người lái xe lịch sự.
“Tôi sẵn sàng phục vụ ông suốt cả ngay, vì thế nếu ông muốn đi đến bất kỳ đâu, chỉ cần cho tôi biết”.
“Suốt cả ngày á?”. Justin suýt sặc với chai nước mát lạnh đang cầm trên tay.
Anh đã cứu sống cuộc đời một người giàu có. Chắc thế! Ôi trời. Lẽ ra anh nên đề cập với Bea điều gì đó nhiều hơn những chiếc bánh nướng xốp và bảo phục vụ hàng ngày chứ nhỉ. Gì đây? Một căn biệt thự ở miền Nam nước Pháp chẳng hạn. Thật ngốc là anh đã chẳng nghĩ ra điều đó.
“Không phải công ty của ông đã sắp xếp chiếc xe này cho ông à?”. Thomas hỏi.
“Không”. Justin lắc đầu. “Hoàn toàn không”.
“Có lẽ một bà tiên trong truyện cổ tích nào đó đã đặt xe cho ông mà ông không biết”. Thomas đùa.
“Nào, thế thì phải xem chiếc xe này làm bằng quả bí ngô hay bằng gì …”.
Justin cười phá lên, hòa vào câu pha trò.
“Sẽ không kiểm tra được trong tình hình giao thông này đâu thưa ông”.
Thomas hòa vào dòng xe cộ đông đúc, dường như càng đông đúc và càng tệ hơn trong một buổi sáng mịt mù mây xám và lất phất mưa.
Justin bấm một nút nhỏ trên xe, điều chỉnh để làm ấm tự động ghế ngồi của mình. Anh tháo giày ra khỏi chân, hoàn toàn cảm thấy thư giãn, ấm áp và thoải mái. Ngoài kia, anh có thể nhận ra nhiều gương mặt mệt mỏi, chán chường ẩn hiện sau cửa kính của những chiếc xe buýt. Họ đầy vẻ buồn ngủ sau những ô cửa kính mờ sương.
“Sau khi đến Phòng Triển Lãm, nếu không phiền, anh đưa giúp tôi đến đường D’Olier nhé! Tôi cần thăm một người … ở trung tâm hiến máu”.
“Không có vấn đề gì, thưa ông”.
Cơn gió tháng Mười thổi phần phật, cuốn phăng những chiếc lá ra khỏi cành cây. Những chiếc lá, giống hệt như nhiều người trong buổi sáng mùa thu này, hoàn toàn chưa sẵn sàng để ra khỏi nhà.
Tôi ngắm những chiếc lá xoay tròn, khiêu vũ điệu đặc biệt của chúng trong không gian trước khi rơi xuống nền đất. Tôi nhặt chúng lên, và rồi chúng lại chầm chậm xoay tròn trên tay tôi.
“Xe đến rồi kìa …”, tôi nói với Kate.
Chúng tôi đứng trên lối đi chính vào Phòng Triển Lãm Quốc Gia, sau bãi đậu xe, mắt đăm đăm chờ đợi.
“Cậu đã trả tiền thuê chiếc xe đó?”, Kate hỏi, “Đúng là không hiểu nổi”.
“Nói với tớ chuyện gì cậu hiểu nổi ấy! Thật ra, tớ trả có một nửa thôi. Đấy là xe từ công ty một người bà con của Frankie. Này, nhớ giả vờ cậu không biết anh ấy nếu anh ấy nhìn qua phía chúng ta nhé!”.
“Tớ có biết anh ấy đâu”.
“Vậy được lắm!”.
“Joyce, tớ chưa bao giờ nhìn thấy người đàn ông này trong đời tớ”.
“Ừ, tớ nói rồi mà. Vậy thì càng tốt”.
“Cậu sẽ còn làm thế này bao lâu nữa Joyce? Chúng ta chẳng biết gì về người đàn ông của cậu ngoại trừ việc anh ta đã hiến máu cả”.
“Tớ biết”.
“Chúng ta không biết gì mà”.
“Không, tớ biết thật đấy. Tớ có thể. Nghe rất buồn cười nhưng là sự thật!”.
Kate nhìn tôi đầy vẻ nghi ngờ. Trong ánh mắt cô ấy còn pha cả những tia tội nghiệp như thể tôi có vấn đề về tâm thần nữa. Điều đó khiến máu tôi muốn sôi lên.
“Kate, cậu không nhận ra tớ có thể làm nhiều điều mà trước đây tớ không thể à?”.
“Tớ vẫn chịu, không tin được là người đàn ông mang tên Justin Hitchcock là nguyên nhân tạo nên những điều ấy. Cậu nhớ một bộ phim chúng ta từng xem không? Người đàn ông trong phim đột nhiên trở nên thông thái chỉ sau một đêm …”.
“Ông ta bị một cái bướu trong não và bằng cách nào đó mà nó tạo nên cho ông ta những khả năng đặc biệt chứ gì …”. Tôi cắt ngang.
Chiếc xe Mercedes lướt qua cổng, vào thẳng Phòng Triển Lãm. Người tài xế bước ra khỏi xe, mở cửa cho Justin. Anh nổi bật với chiếc cặp da trong tay, rạng rỡ từ đầu đến chân. Tôi thật hạnh phúc khi nhận ra những gì mình cố gắng làm cho anh đã được sử dụng hoàn hảo.
Anh vẫn tỏa ra sự lôi cuốn kỳ lạ ấy, sự lôi cuốn tôi cảm nhận mỗi ngày kể từ lần đầu tiên tôi dán mắt vào anh ở tiệm làm tóc. Anh nhìn quanh khu Triển Lãm, nhìn quanh bãi đậu xe, mỉm cười. Nụ cười ấy là nguyên nhân khiến dạ dày của tôi thắt lại một cái. Rồi cái nữa. Cái nữa.
Những chiếc lá chung quanh tôi lại bị cuốn tròn theo một điệu luân vũ mới.
Cơn gió xào xạc thoảng qua. Tôi không chắc là tôi tưởng tượng, hay thật sự chính cơn gió ấy mang đến cho tôi mùi nước hoa nhẹ nhàng từ anh. Hệt với mùi hương anh đã dùng khi tôi gặp anh trong tiệm làm tóc lần đầu.
“Anh ấy đẹp trai thế”, Kate thì thầm, “Tớ ủng hộ kế hoạch lén theo dõi anh ấy của cậu một trăm phần trăm, Joyce”.
“Đây đâu phải là kế hoạch lén theo dõi”, tôi xì một cái, “Và thêm một điều nữa là tớ sẽ vẫn làm điều đó, cho dù anh ấy không đẹp trai chăng nữa”.
“Tớ có thể vào nghe buổi nói chuyện của anh ấy không?”, Kate hỏi.
“Không!”.
“Trời đất, sao không? Anh ấy chưa bao giờ gặp tớ, anh ấy sẽ không nhận ra tớ đâu. Thôi nào, xin cậu đấy, Joyce! Tớ là bạn thân của cậu. Với lại tớ chỉ vào để nghe anh ta nói và xem anh ta thế nào, có gì “bất thường” như cậu nói không thôi …”.
“Thế Sam thì sao? Cậu bỏ thằng bé cho ai trông?”.
“Cậu có muốn chăm sóc và chơi đùa với nó tí tẹo không?”.
Tôi trợn mắt.
“Ồ, thôi quên đi!”, cô bạn nói nhanh. “Tớ sẽ mang thằng bé theo với tớ. Tớ sẽ ngồi ở dưới cuối phòng và sẽ rời đó ngay nếu thằng bé quấy khóc”.
“Không. Không. Được mà. Tớ có thể trông chừng thằng bé cho cậu”. Tôi nuốt nước bọt khó nhọc và dán thêm một nụ cười lên mặt.
“Cậu chắc không?”, trông Kate như thể không tin được.
“Tớ sẽ không ở trong đấy đến tận cuối giờ đâu. Tớ chỉ muốn nhìn xem anh ta như thế nào thôi”.
“Ừ, tớ ổn mà. Đi đi …”. Tôi nhẹ nhàng đẩy bạn. “Vào trong đó tận hưởng đi.
Tớ và bé Sam sẽ ổn, không phải sao?”.
Sam đút ngón tay vào miệng thay cho câu trả lời.
“Tớ hứa là tớ sẽ không đi lâu đâu”. Kate cúi xuống chiếc xe đẩy, hôn cậu nhóc một cái rồi hối hả băng qua đường vào trong Phòng Triển Lãm.
“Giờ thì …”, tôi nhìn quanh đầy căng thẳng. “Chỉ còn cháu và cô thôi, Sean”.
Cậu nhóc nhìn tôi với đôi mắt xanh to tròn. Và, ngay lập tức mắt tôi rưng rưng nước.
Tôi nhìn quanh để chắc rằng không ai khác vừa nghe câu nói lỡ lời ấy. Ừ, tôi định gọi cậu bé là Sam, chứ không phải Sean – tên đứa con đã mất của tôi.
Justin bước lên bục dành cho người phát biểu ở Phòng Triển Lãm Quốc Gia.
Căn phòng đầy ắp những gương mặt chăm chú. Tự dưng, anh biến thành hạt nhân trung tâm. Lại thêm một người đến trễ. Một phụ nữ trẻ. Cô bước vào phòng, ra dấu xin lỗi và nhanh chóng tìm ngay cho mình một chỗ giữa đám đông.
“Xin chào, các quý ông quý bà. Cảm ơn rất nhiều khi các vị đã đến đây trong một buổi sáng trời mưa âm u thế này. Hôm nay, tôi sẽ trình bày với quý vị một số điều về bức họa này. Bức họa. Người Phụ Nữ Viết Thư, của tác giả Terborch, một họa sĩ danh tiếng người Hà Lan vào thế kỷ mười bảy. Bức tranh này, vâng … Xin hãy ngắm kỹ. Bức tranh này không chỉ là một bức tranh. Tôi rất thích kiểu viết thư tay, đặc biệt trong thời đại rất hiếm nhận được những lá thư tay như bây giờ. Các lá thư tay hầu như biến mất”. Anh ngừng lại.
Hầu như biến mất chứ không phải hoàn toàn biến mất. Một ai đó đã gửi cho mình những mẩu thư tay.
Anh ra giữa bục, bước một bước xuống những khán giả và nhìn khắp lượt đám đông, một thoáng nghi ngại hiện trên gương mặt. Đôi mắt anh nheo nheo thăm dò khán giả. Anh nhìn từng dãy người, đoán rằng có một ai đó ở đây chính là người đã gửi đến những mẩu giấy bí mật. Một ai đó ho, kéo anh khỏi dòng suy nghĩ miên man. Anh quay trở lại với những khán giả của mình, thoáng chút bối rối nhưng bắt nhịp ngay được với ý mà anh vừa ngưng lại.
“Vào một thời đại như bây giờ, khi những lá thư tay hầu như biến mất, bức họa này chính là sự nhắc nhở về một thời đại vàng son, khi mọi người bày tỏ cảm xúc với nhau mỗi ngày. Tác giả Terborch không phải là họa sĩ duy nhất chịu trách nhiệm ghi khắc lại những hình ảnh này. Tôi không thể đi xa hơn trong chủ đề hôm nay mà không nhắc đôi chút đến những tác giả khác như Vermeer, Metsu … những họa sĩ đã cho ra đời các bức tranh về con người, trong tư thế đang đọc, viết, nhận và mở những lá thư. Tất cả những điều này, tôi đã có viết trong một cuốn sách, mang tên Thời đại vàng son của những danh họa Hà Lan:
Vermeer, Metsu và Terborch”.
Anh để ý người phụ nữ đến hơi trễ một chút sau khi anh bắt đầu nói. Và một phụ nữ trẻ khác đứng sau cô ấy, tự hỏi họ có cảm nhận được hết những gì anh trình bày không. Tự dưng anh muốn bật cười, cười chính mình vì những giả định mình đưa ra. Thứ nhất, người được anh cứu sống ấy hẳn đang ở trong phòng này. Thứ hai, đó hẳn là một người phụ nữ. Thứ ba, cô ấy rất cuốn hút.
Điều gì khiến anh nghĩ như thế? Anh không rõ.
Tôi đẩy chiếc xe nôi của bé Sam đi trong quảng trường Merrion. Khu quảng trường được bao bọc bởi những cây to, đầy màu sắc. Màu vàng cam, màu đỏ rực của tán lá mùa thu trải khắp nơi. Cả trên mặt đất. Tôi chọn một chiếc ghế dài, giữa lối đi yên tĩnh và quay chiếc xe đẩy của Sam lại để bé có thể đối mặt với tôi.
Tôi ngắm Sam, trong lúc cậu bé nhướn cổ nhìn theo những chiếc lá còn sót lại, quyết không chịu rời cành, ở tít trên cao. Cậu bé đưa ngón tay bé tí chỉ lên trời, trọ trẹ những âm thanh không thành tiếng.
“Cây”, tôi phát âm rành rọt, khiến cậu bé mỉm cười.
Khung cảnh ấy cũng tạo nên một cảm giác thon thót trong dạ dày, khiến tôi phải ngưng lại hít một hơi sâu. “Sam, cô nói với cháu chuyện này nhé …”, tôi dịu dàng.
Nụ cười của cậu nhóc càng rạng rỡ hơn. “Cô phải xin lỗi một chuyện …”, tôi tằng hắng giọng. “Cô đã không chú ý nhiều đến cháu trước đây, phải vậy không? Nguyên nhân là vì …”, tôi ngập ngừng, chờ cho đến khi một người đàn ông đi ngang qua chúng tôi đi khuất.
“Nguyên nhân là vì …”, tôi hạ giọng mình khẽ hơn, “Cô không chịu đựng nổi mỗi khi nhìn ngắm cháu …”. Tôi ngừng lại khi thấy nụ cười của cậu bé nở to hớn hở.
“Ồ, đây …!”. Tôi cúi người, nhấc chiếc chăn của cậu bé ra và ấn nút để nới lỏng một chút dây bảo vệ an toàn. “Đến đây một chút với cô nhé!”. Tôi nhấc cậu bé khỏi chiếc xe đẩy để bé ngồi trong lòng mình.
Cơ thể cậu bé ấm áp biết bao. Tôi ôm bé thật chặt. Tôi hít thở từng hơi trên đầu bé. Mái tóc mềm mượt như nhung. Những bàn tay, bàn chân mũm mĩm và mềm mại. Tôi muốn ôm cậu bé chặt hơn nữa.
“Nguyên nhân là vì …”, tôi nói thật khẽ, thì thầm trên đầu bé. “Tim cô vỡ tan mỗi khi cô nhìn thấy cháu, mỗi khi cô vuốt ve cháu … Mỗi lần nhìn thấy cháu, cô lại nhớ tới điều thiêng liêng mà cô đã đánh mất”.
Cậu bé ngước nhìn tôi, bập bẹ trả lời.
“Cô đã từng rất e sợ mỗi khi nhìn cháu, biết không?”. Tôi hôn lên mũi cậu bé. “Mọi việc khó khăn quá với cô …”, mắt tôi đầy nước và tôi đành để cho những giọt nước mắt rơi ra. “Cô ước ao có một cậu bé, hay một cô bé … giống như cháu. Khi cháu mỉm cười, mọi người sẽ reo lên, ô nhìn này … Cháu là hình ảnh đẹp nhất của mẹ. Phải chi mà có một đứa trẻ, một đứa trẻ cũng có đôi mắt của cô, cái mũi của cô …”.
“Ba- ba”, cậu bé bập bẹ.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.