Cảm Ơn Ký Ức

Chương 7



Phải cắt tóc!

Justin thổi bay những sợi tóc phủ lòa xòa trước mắt và nhìn trừng trừng bóng mình trong gương. Mãi cho đến khi hình ảnh này đập vào mắt, anh vẫn thấy mình đang xách hành lý, đi về lại London, miệng huýt một khúc nhạc vui nhộn – khúc nhạc về một người đàn ông vừa … ly dị lần đầu được nằm bên người phụ nữ khác vợ mình.
Vâng, với anh, thật ra đây là lần thứ hai cơ, nhưng lại là lần đầu tiên khiến anh hồi tưởng lại với cảm giác tự hào. Vậy mà bây giờ, đứng trước tấm gương dài, đủ phản chiếu anh từ trên xuống dưới. Tiếng huýt sáo của anh chựng lại.
Trong đó là hình ảnh anh đầy khốn khổ, bờm xờm bù xù khác hẳn niềm vui hiện tại.
Anh chỉnh lại điệu bộ của mình, hóp má, gập cánh tay lại theo kiểu khoe cơ bắp. Thề rằng nếu bây giờ mà bóng mây đen của chuyện li dị được tan biến, anh sẽ lấy lại “phong độ” với vóc dáng cũ. Bốn mươi ba tuổi, anh khá đẹp trai và anh biết thế, dù rằng không hề tỏ ra kiêu ngạo. Đánh giá của riêng anh về ngoại hình chỉ đơn thuần là nhìn nhận mọi thứ một cách logic như khi nếm thử một cốc rượu vang ngon. Theo kiểu đơn giản là nho được trồng ở nơi phù hợp, trong những điều kiện phù hợp. Những sự chăm sóc và quan tâm phù hợp trộn lẫn với việc giẫm đạp đúng cách để chà nát nho ra. Vậy là thành rượu ngon. Anh đánh giá ngoại hình của mình cũng bằng những cảm xúc thông thường đơn giản và dễ hiểu như thế, rằng anh được sinh ra với gen di truyền tốt, nét mặt cân đối, mọi thứ ở đúng vị trí phù hợp. Thế là ổn rồi.
Với chiều cao gần một mét tám mươi, anh cao ráo, bờ vai rộng vững chãi.
Tóc dày màu nâu hạt dẻ, mặc dù cũng có chỗ lốm đốm bạc. Nhưng anh chẳng quan tâm về điều ấy. Anh bắt đầu có tóc bạc từ hồi mới hai mươi tuổi và luôn cảm thấy rằng những sợi tóc bạc khiến anh trông khác biệt so với mọi người.
Chỉ có một ít sợi thôi, nhưng chính tóc bạc làm anh sợ quy luật tự nhiên của tạo hóa, cái quy luật như biến những sợi tóc muối tiêu của anh thành gai nhọn, đâm thủng quả bóng giả tạo của cuộc đời. Qui luật tự nhiên rồi cũng sẽ đến với anh, làm lưng anh còng xuống, mang bộ dạng của những kẻ lang thang bần hàn thế kỷ mười sáu, và nhanh chóng nhuộm trắng mái tóc anh bằng loại thuốc nhuộm như thể là một thứ nước quý hiếm từ suối nguồn cuộc sống bất tử.
Với Justin, tiến bước và thay đổi là những gì anh mong muốn. Anh không phải mẫu người có thể tạm dừng lại, không phải mẫu người dễ bị mắc kẹt giữa cuộc đời. Nhưng anh không muốn quy luật của tạo hóa ứng với cuộc sống hôn nhân của mình. Jennifer rời bỏ anh hai năm nay vì điều ấy, mặc dù tất nhiên không phải chỉ vì điều ấy thôi mà còn vô số nguyên nhân rạn nứt to lớn khác nữa. Quá nhiều thứ, thật sự anh ước anh có thể rút cây bút và tờ giấy ghi chú ra, viết một danh sách hết những điều đó trong khi vợ anh hò hét hàng tràng đả kích bực dọc.
Khi những đêm cô đơn đầu tiên đến, Justin đã từng cầm chai thuốc nhuộm tóc trong tay và tự hỏi nếu anh nhượng bộ triết lý cứng nhắc của mình, anh có thể làm mọi thứ ổn hơn không? Liệu anh có thể thức dậy vào buổi sớm mai và Jennifer lại ở trên giường? Liệu vết sẹo nhỏ trên cằm anh có lành lại như lúc chưa hề bị chiếc nhẫn cưới cào trúng? Liệu danh sách những điều cô ấy ghét khủng khiếp về anh có thể trở thành những điều cô ấy yêu? Anh tỉnh hẳn sau đó và đổ hết chai thuốc nhuộm vào bốn rửa chén trong căn hộ đang thuê, làm lớp thép không rỉ đen ánh lên. Nó như một lời nhắc nhở anh mỗi ngày về quyết định sẽ sống thật là mình, cho đến khi anh chuyển đến London để sống gần con gái hơn, gần cả sự căm phẫn của người vợ cũ.
Mặc dù lướng vướng với những sợi tóc dài trước trán che ngang mắt, anh vẫn mang dáng dấp của một người đàn ông đáng làm người khác phải “ngoái nhìn”. Rắn rỏi hơn, trẻ hơn, có lẽ ít những nếp nhăn quanh mắt hơn. Nhưng lỗi khác, như vòng eo “phình ra”, một phần vì tuổi già và một phần khác do chính anh tạo nên, bởi anh đã tập thói quen uống bia, tìm kiếm cảm giác được an ủi trong men bia suốt thời gian làm thủ tục ly hôn thay vì đi bộ hoặc chạy bộ như thường lệ.
Cảnh tượng đêm hôm trước lặp lại trước mắt anh khi lên giường ngủ – nơi anh và Sarah cuối cùng cũng hiểu nhau một cách tường tận. Cả ngày anh cảm thấy mình giống như một người đàn ông khổng lồ trong khu nội trú sinh viên và việc anh tạm dừng bài giảng về những bức họa của người Hà Lan, người Flemish để nói về chuyện tình cảm của mình như chỉ mới xảy ra cách đây vài giây. Những sinh viên năm nhất đang trong cuộc vui hàng năm được tổ chức vì mục đích từ thiện. Sau buổi tiệc bia bọt đêm trước, chỉ một phần ba sinh viên đến lớp. Và anh cho rằng những người có mặt cũng chẳng chú ý gì nếu anh nói sâu, chi tiết về chuyện riêng tư.
Tuần lễ Hiến máu vì Cuộc sống đã kết thúc, Justin thở phào nhẹ nhõm biết chừng nào về điều ấy. Sarah rời khỏi trường cao đẳng, trở về lại với công việc chính của cô. Chỉ đến tháng này, khi quay lại Dublin, anh mới tình cờ chạm mặt cô ấy ở một quán bar, nơi anh mới biết rằng cô thường xuyên đến. Và rồi họ lại đi. Anh không chắc mình sẽ còn gặp lại cô ấy lần nữa không mặc dù túi áo Jacket bên trong của anh vẫn còn lưu một mẫu giấy nhỏ ở nơi rất an toàn ghi số điện thoại của cô ấy.
Anh phải thừa nhận rằng mặc dù đêm trước là một đêm thật vui có khá nhiều rượu Château Olivier, nhưng anh vẫn luôn cảm thấy thất vọng mặc dù đó là một nơi lý tưởng ở Bordeaux, trong một bar nhạc sống trên đường về phòng khách sạn của mình. Anh cảm thấy như bỏ lỡ cơ hội bộc lộ tình cảm. Anh lấy được sự mạnh dạn sau vài cốc rượu tại quầy bar nhỏ trong khách sạn trước khi gọi để gặp cô, nhưng lúc anh đến thì đã không còn đủ tỉnh tảo để nói chuyện nghiêm túc.
Vì Chúa, Justin, có người đàn ông nào mà nói chuyện. Mặc dù câu chuyện chán phèo như thế này không?
Mặc dù câu chuyện kết thúc trên giường nhưng anh cảm thấy Sarah thật sự quan tâm đến cuộc nói chuyện. Anh cảm thấy có điều gì đấy cô muốn nói với anh và có lẽ cô đã nói. Anh đã nhìn thấy điều đó từ đôi mắt buồn buồn xanh lơ khi đôi môi của anh và cô làm nên những nụ hồng mở ra – khép lại. Những chai rượu whisky Jameson đã làm anh không nghe được những gì cô nói, mà còn hát vang lên át các cả những câu chữ của cô, giống như một đứa trẻ nóng nảy dỗi hờn.
Khi kết thúc bài giảng cho chuyên đề thứ hai trong hai tháng. Justin ném những bộ quần áo của anh vào trong túi, hạnh phúc khi ngoái nhìn lại sau lưng căn phòng khốn khổ mùi ẩm mốc. Chiều thứ sáu là thời gian để quay lại London, quay lại với cô con gái của anh, với cậu em trai tên Al, với cô em dâu Doris, từ Chicago đến thăm. Anh rời khách sạn, bước ra ngoài trên những con đường rải sỏi của khu Temple Bar và vào trong chiếc taxi đang chờ anh sẵn.
“Đến sân bay nhé!”.
“Anh đến đây du lịch à?”, người tài xế đột nhiên hỏi.
“Không”, Justin nhìn ra ngoài cửa sổ, hi vọng đến đây là kết thúc cuộc nói chuyện.
“Anh làm việc à?”, Người tài xế khởi động máy.
“Vâng”.
“Anh làm việc ở đâu thế?”.
“Trường cao đẳng”.
“Trường nào nhỉ?”.
Justin thở dài, “Trinity”.
“Anh làm công việc bảo trì trong trường học?”. Đôi mắt xanh nhảy một cách khôi hài với anh trong gương.
“Tôi là giảng viên môn Nghệ thuật và Kiến trúc”, anh nói đầy vẻ phòng thủ, khoanh hai tay lại và thổi những sợi tóc đang lòa xòa trước trán ra khỏi mắt.
“Kiến trúc sư hả? Tôi từng là một người làm nghề xây dựng đấy”.
Justin không đáp lại và hi vọng cuộc nói chuyện sẽ kết thức ở đó.
“Anh đi nghỉ ở đâu? Nghỉ hè à?”.
“Không”.
“Vậy anh đi đâu?”.
“Tôi sống ở London”. Và số an sinh xã hội của tôi ở Mỹ là …
“Và anh làm việc ở đây?”.
“Vâng”.
“Anh không sống ở đây sao?”.
“Không”.
“Sao thế?”.
“Bởi vì tôi là một giáo viên thỉnh giảng ở đây. Một người bạn đồng nghiệp cũ của tôi mời tôi đến giảng một chuyên đề trong vòng một tháng”.
“À …”, người tài xế mỉm cười với anh trong gương như thể anh đang cố tình trêu chọc ông ấy. Thế ở London anh làm gì?”, đôi mắt của ông ta cật vấn anh.
Mình sẽ là một kẻ giết người hàng loạt, nhắm đến “con mồi” là những tài xế taxi tò mò tọc mạch.
“Rất nhiều thứ khác ở đây”, Justin thở dài và chịu thua khi thấy người tài xế đang chờ đợi anh nói tiếp. “Tôi là biên tập viên của tờ Phê bình Nghệ thuật và Kiến trúc, tờ báo quốc tế duy nhất thật sự về nghệ thuật và kiến trúc được xuất bản”, anh nói một cách tự hào. “Tôi bắt đầu làm việc đó cách đây mười năm và cho đến nay, chúng tôi vẫn không có đối thủ. Tờ báo có số lượng xuất bản cao nhất loại ấy”.
Hai mươi ngàn người đặt mua thôi, mình đang nói dối.
Không có phản ứng nào trở lại.
“Tôi cũng là ủy viên ban quản trị”.
Người tài xế cau mày. “Anh phải đụng chạm đến cơ thể người chết à?”.
Justin nhăn cả mặt lại đầy vẻ bối rối. “Cái gì? Không!”. Sau đó anh thêm vào một câu không cần thiết và cũng chẳng liên quan. “Tôi cũng là cộng tác viên thường xuyên và cho một tiết mục hỏi đáp trên đài BBC về chủ đề nghệ thuật và văn hóa”.
Chỉ hai mươi lần trong năm năm và chưa bao giờ trong nhóm được mời thường xuyên, Justin. Ồ, im đi!
Người tài xế đang dò xét Justin, từ kính chiếu hậu. “Anh có lên tivi bao giờ chưa?”, ông nheo mắt. “Tôi không nhận ra anh”.
“Ừm, ông có xem chương trình đó không?”.
“Không”.
Ừm, ra thế đấy.
Justin đảo mắt. Anh ném áo khoác đi, mở một cái nút khác của áo sơ mi và hạ thấp cửa sổ. Tóc anh đang dính bệt vào trán. Vẫn như thế. Một vài tuần đã trôi qua và anh vẫn chưa đến tiệm hớt tóc. Anh thổi những sợi tóc lòa xòa ra khỏi mắt.
Họ dừng lại trước đèn đỏ và Justin nhìn sang bên trái. Một tiệm hớt tóc!
“Này, anh không phiền tấp sang trái trong vài phút chứ?”.
“Nghe này. Conor, đừng lo lắng quá về việc đó. Anh thôi xin lỗi đi!”. Tôi nói trong điện thoại một cách mệt mỏi. Anh ta làm tôi kiệt sức. Mỗi từ mỗi chữ của anh ta làm tôi kiệt sức”. Bố đang ở đây với em. Bố con em đang đi taxi về nhà với nhau, mặc dù em khỏe đến mức cảm thấy có thể tự ngồi trong xe của em và lái xe một mình”.
Bên ngoài bệnh viện, bố đang giữ cửa xe mở sẵn cho tôi và tôi bước vào taxi. Cuối cùng tôi cũng đang về nhà, nhưng tôi không cảm thấy nhẹ nhõm như tôi đã hi vọng trước đó. Chẳng có gì ngoài cảm giác sợ. Tôi sợ gặp những người tôi biết và phải giải thích cho họ chuyện gì đã xảy ra, hết lần này đến lần khác.
Tôi sợ đi vào trong nhà và phải có đối mặt với căn phòng dành cho trẻ sơ sinh đã được trang trí xong một nữa; phải thay thế nó với một cái giường dự phòng và lấp đầy tủ bằng những túi xách, những đôi giày ê hề của chính tôi mà tôi sẽ chẳng bao giờ mang hay xách. Tôi sợ phải đi làm thay vì rời khỏi công việc như dự tính của mình. Tôi sợ nhìn thấy Conor. Tôi sợ quay trở về với cuộc hôn nhân không còn tình yêu và cũng chẳng còn đứa trẻ nào để làm chúng tôi quên bớt đi.
Tôi sợ sống mỗi ngày của phần còn lại trong cuộc đời tôi với chuyện Conor cứ đều đều gọi điện thoại bảo rằng muốn ở đây với tôi, trong khi dường như chuyện mong muốn anh ấy đừng về nhà lại là câu thần chú mỗi ngày tôi cầu nguyện. Tôi biết lẽ ra, theo cảm xúc thông thường thì phải là tôi muốn chồng tôi hối hả trở về nhà với tôi – thật sự anh ấy muốn hối hả chạy về nhà với tôi – nhưng có quá nhiều chữ “nhưng” trong cuộc hôn nhân của chúng tôi và tai nạn lần này không phải là sự cố lặp đi lặp lại bình thường.
Lối xử sự của tôi thật lạ lùng. Đó là lối xử sự có thể khiến những người chín chắn trưởng thành thấy rằng tôi thật không ổn, vì tôi không muốn có ai ở bên mình. Tôi cứ bị xáo trộn cả thể xác lẫn tinh thần. Tôi muốn ở một mình với nỗi đau của riêng mình. Tôi muốn tự làm dịu nỗi đau đớn tiếc nuối của mình bằng những từ ngữ cảm thông, nhưng lời giải thích giản dị. Tôi muốn mình được phép vô lý, được phép tự thương xót mình, được phép tự vấn. Những cay đắng mất mát rồi sẽ qua đi trong vài ngày, trời ơi … và tôi muốn được một mình để làm điều ấy.
Có điều gì đó không bình thường trong cuộc hôn nhân của chúng tôi.
Conor là một kỹ sư. Anh ra nước ngoài làm việc nhiều tháng liền trước khi trở về nhà một tháng, rồi sau đó lại đi tiếp. Tôi có một công việc của riêng mình và lần đầu tiên khi anh xa nhà, tôi cáu kỉnh bực bội, cứ ước anh trở lại. Nhưng tất nhiên mọi thứ thay đổi theo thời gian. Bây giờ, tôi lại cáu kỉnh bực bội khi anh kéo dài cả tháng trời ở nhà. Một cảm giác hiển hiện rất rõ ràng là tôi không hề thấy cô đơn nữa.
Conor đã làm công việc này cách đây nhiều năm, nên rất khó khăn để anh rời bỏ nó chuyển sang một việc gì đó khác. Trước kia, tôi từng tranh thủ đi thăm anh ấy bất cứ khi nào tôi có thể nhưng thật không dễ để cứ xin nghỉ phép hoài.
Những chuyến đi thăm ngắn dần, thưa dần, sau đó là dừng hẳn.
Tôi đã luôn nghĩ rằng cuộc hôn nhân của chúng tôi sẽ còn ổn chừng nào chúng tôi còn cùng cố gắng. Nhưng sau đó tôi nhận ra bản thân mình đang phải cố gắng để mà thực hiện cái việc “cố gắng” đó. Tôi đào sâu dưới cái lớp phức tạp mà chúng tôi đã tạo nên trong chừng ấy năm để bắt đầu một mối quan hệ mới. Mối quan hệ mới đó là gì? Tôi tự hỏi, chúng tôi sẽ làm cách nào để hồi sinh lại mọi thứ? Có thứ gì trên đời đủ khiến hai con người có thể hứa với nhau rằng sẽ trải qua mỗi ngày trong phần còn lại của cuộc đời mình luôn ở bên nhau? À, tôi đã tìm ra nó. Đó chính là cái từ được gọi là “tình yêu”. Một từ ngắn gọn đơn giản. Nếu nó không chứa đựng ý nghĩa nhiều đến thế, có lẽ cuộc hôn nhân của chúng tôi đã hoàn mỹ lắm rồi.
Tâm trí của tôi cứ lang thang tận đâu đâu trong thời gian tôi nằm trên giường ở bệnh viện. Cũng có khi, nó bị chặn lại trong lúc lang thang, giống như lúc vào một căn phòng và quên mất vào để làm gì. Tôi đứng chết lặng một mình. Đó là những khoảnh khắc tâm trí tôi tê cóng đi, khi nhìn thấy những bức tường màu hồng, tôi chẳng nghĩ được cái gì khác ngoại trừ sự thật là tôi đang nhìn chằm chằm vào một bức tường mào hồng.
Tâm trí của tôi bị bao bọc trong cảm giác tê liệt quá mức, nhưng cũng có những trường hợp trong lúc đang lang thang nghĩ đâu đâu, tôi đào sâu vào ký ức của mình năm tôi lên sáu. Lúc đó tôi đã được bà ngoại Betty tặng cho một bộ ấm trà tuyệt đẹp mà tôi cực kỳ thích. Bà giữ nó bên nhà của bà để cho tôi chơi mỗi khi bà gọi tôi đến chơi những ngày thứ Bảy, và suốt buổi chiều, khi bà ngoại uống trà với những bà bạn thì tôi sẽ mặc một trong những chiếc áo đầm đẹp nhất của mẹ tôi khi mẹ còn bé và dùng buổi trà chiều với dì Jemima.
Những chiếc váy chẳng bao giờ thật vừa nhưng tôi luôn mặc chúng. Dì Jemima và tôi cũng chẳng bao giờ dùng trà nhưng hai chúng tôi đều lịch sự giả vờ cho đến khi bố mẹ đến và đón tôi về vào cuối ngày. Tôi đã kể câu chuyện này với Conor cách đây vài năm và anh cười ha hả, cười đến nỗi bỏ lỡ mất một chi tiết chính.
Đó là một điểm dễ dàng bị lỡ mất tôi sẽ không bắt anh ta có trách nhiệm về chuyện đó nhưng tâm trí tôi lại đang hét lên với anh ấy khi anh ấy không hiểu vấn đề, răng tôi ngày càng phát hiện rõ ràng con người không bao giờ thật sự mệt mỏi với việc chơi đùa và ăn mặc, dù nhiều năm đã trôi qua. Những lời nói dối giữa chúng tôi bây giờ ngày càng tinh vi, phức tạp; những chữ chúng tôi lừa dối nhau, ngày càng khéo léo. Như những anh chàng cao bồi với người da đỏ như bác sĩ với y tá, đến vợ và chồng, chúng ta chẳng bao giờ ngừng giả vờ.
Ngồi trong chiếc xe taxi bên cạnh bố, trong khi nghe Conor ở bên kia điện thoại, tôi nhận ra tôi đã ngừng đóng kịch.
“Conor đang ở đâu vậy con?”. Bố hỏi ngay khi tôi vừa kết thúc cuộc điện thoại. Ông mở nút áo sơ mi trên cùng và nới lỏng cà vạt, ông mặc sơ mi và mang cà vạt bất cứ khi nào rời khỏi nhà, và không bao giờ quên chiếc mũ lưỡi trai. Ông tìm cái tay quay trên cánh cửa, để quay chỉnh cho cửa sổ từ từ hạ xuống.
“Thiết bị này bằng điện tử, bố. Có cái nút ở đó. Anh Conor vẫn còn ở Nhật, anh ấy sẽ về nhà trong vài hôm nữa”.
“Hôm qua, bố nghĩ rằng cậu ta sẽ quay về ngay chứ …”, ông ấn cho cửa sổ hạ xuống hết và gió như muốn thổi bay mọi thứ. Cái mũ suýt bị thổi bay khỏi đầu ông làm vài sợi tóc lúc nãy còn dính bệt giờ bắt đầu phất phơ, ông sửa lại cái mũ, lại đánh vật với nút điều khiển sau khi có được một khoảnh khắc hít thở khí trời để lại trở về với không khí ngột ngạt trong chiếc taxi.
“A. được rồi!”, ông mỉm cười đầy vẻ chiến thắng, đấm nắm đấm vào cửa sổ.
Tôi chờ đến khi ông ngừng “chiến đấu với cái cửa sổ rồi mới trả lời. “Con nói anh ta không cần làm thế”.
“Con nói với ai cái gì, con gái?”.
“Conor. Bố đang hỏi con về Conor mà, bố!”.
“À, đúng rồi. Bố đang hỏi con … Cậu ta sẽ về nhà sớm chứ?”.
Tôi gật.
Trời nóng quá, tôi thổi những sợi tóc khỏi cái trán bết mồ hôi. Đột nhiên, tôi cảm thấy tóc mình quá nặng nề và rít rịt ở trên đầu. Những sợi tóc nâu khẳng khiu. Sức nặng của chúng đè tôi xuống và một lần nữa, tôi cảm thấy mình quá sức chịu đựng đến mức muốn cạo sạch hết đi ngay lập tức. Tôi trở nên bị kích động, cứ nhấp nhổm trên chỗ ngồi của mình, và bố đủ nhạy cảm để nhận ra điều đó lần nữa, biết rằng không thể nói gì.
Tôi đã như thế suốt cả tuần, những cơn giận dữ bất chợt không kiềm nén.
Thế nên tôi muốn nắm nắm đấm lại và thoi vào tường hoặc thoi vào những cô y tá. Sau đó tôi lại muốn khóc và cảm thấy nỗi mất mát trong tôi lớn đến nỗi như thể tôi sẽ không bao giờ có thể lấp đầy nó lại được lần nữa. Tôi muốn chẳng thà giận dữ. Giận dữ tốt hơn. Giận dữ thì nóng bỏng có thể lấp đầy, có thể cho tôi thứ gì đó để bấm vào.
Chúng tôi ngừng lại trước hệ thống tín hiệu đèn giao thông và tôi nhìn sang bên trái. Một tiệm hớt tóc.
“Vui lòng tấp qua bên đó …”.
“Con muốn làm gì thế, Joyce?”.
“Bố chờ trong xe nhé. Chỉ mười phút thôi. Con chỉ đi vào và cắt gọn lại tóc chút xíu. Con không chịu được mái tóc này thêm chút nào nữa”.
Bố nhìn vào tiệm hớt tóc, sau đó nhìn người tài xế taxi. Và cả hai biết rằng không thể nói thêm điều gì nữa cả. Chiếc taxi ngay phía trước chúng tôi cũng ra dấu và di chuyển tấp vào lề đường. Chúng tôi dừng ngay sau nó.
Người đàn ông trên chiếc xe phía trước chúng tôi bước xuống, và tôi lạnh người khi đặt một chân bước ra khỏi xe, khi nhìn anh ấy. Anh ta thật quen thuộc. Tôi nghĩ rằng mình biết anh ấy. Anh cũng dừng lại, nhìn tôi. Chúng tôi nhìn nhau chằm chằm một lát. Cố lục lọi từng nét trên gương mặt của nhau.
Anh gãi gãi cánh tay trái, một điều gì đó khiến tôi phải chú ý thật kỹ và thật lâu.
Cái khoảnh khắc đầy bất thường. Tôi ghét cảm giác vừa quen vừa lạ thế này, và tôi quay đi thật nhanh.
Anh cũng quay đi thật nhanh khỏi tôi và bắt đầu bước đi.
“Con định làm gì đấy?”. Bố hỏi to hơn mức cần thiết. Cuối cùng tôi cùng rời khỏi xe. Tôi đi thẳng vào tiệm hớt tóc và nhận ra rất rõ ràng là cả tôi lẫn người đàn ông lạ mặt kia đều cùng điểm đến. Những bước đi của tôi trở nên đầy máy móc, vụng về, không tự nhiên nữa. Có điều gì đó toát ra từ anh ấy khiến tôi bị xáo động. Bị đảo lộn.
Có lẽ tôi phải nói với ai đó rằng không còn đứa trẻ nào nữa cả. Vâng, một tháng không ngừng nói về đứa trẻ, rồi bây giờ lại chẳng có đứa trẻ nào để nhắc đến. Xin lỗi, mọi người. Tôi cảm thấy có lỗi về chuyện đó, như thể tôi đã lừa dối những người bạn của mình và gia đình mình. Một trò bỡn cợt kéo dài nhất có thể. Một đứa bé … sẽ chẳng bao giờ có. Trái tim tôi như thắt lại với ý nghĩ ấy.
Người đàn ông giữ cánh cửa mở và mỉm cười. Đẹp trai. Gương mặt tươi tắn.

Cao. Vai rộng. Có dáng thể thao. Hoàn hảo. Có phải anh ta đang hơi đỏ mặt không? Quen quá. Rõ ràng là tôi phải biết anh ta.
“Cảm ơn anh”, tôi nói.
“Không có gì!”.
Chúng tôi lại cùng ngừng lại, nhìn nhau lần nữa, quay nhìn hai chiếc taxi y hệt nhau đang chờ chúng tôi bên vỉa hè và lại quay lại nhìn nhau. Tôi nghĩ anh muốn nói điều gì đó nhưng tôi vội vàng nhìn qua chỗ khác và bước vào trong.
Tiệm hớt tóc chẳng có ai. Hai nhân viên đang ngồi tán gẫu. Họ là hai người đàn ông, một người có mái tóc so le bờm sư tử, người kia tóc nhuộm vàng. Họ nhìn chúng tôi và làm chúng tôi chú ý.
“Cô thích người thợ nào?”, anh chàng người Mỹ từ taxi hỏi khẽ.
“Tóc vàng”, tôi mỉm cười.
“Thế thì tôi chọn người thợ tóc bờm sư tử”, anh nói.
Miệng tôi há hốc nhưng tôi bật cười.
“Chào ông bà”, người đàn ông tóc bờm sư tử bước đến chỗ chúng tôi. “Tôi giúp được gì ông bà đây?”. Anh ta nhìn anh, chàng người Mỹ rồi nhìn sang tôi.
“Ai định cắt tóc nhỉ?”.
“À, cả hai chúng tôi, tôi cho rằng thế, đúng không?”, anh chàng người Mỹ nhìn tôi, và tôi gật.
“Ồ, xin thứ lỗi. Tôi cứ nghĩ là ông bà đi cùng nhau”.
Tôi nhận ra rằng chúng tôi đứng quá sát, đến nỗi gần như chạm nhau. Chúng tôi cùng nhìn xuống hai phần hông như bị nối liền, sau đó ánh mắt giao nhau và rồi cả hai đều bước một bước gian ra.
“Hai ông bà nên thử môn bơi đồng bộ được đấy”, người thợ hớt tóc bật cười trước hai động tác xảy ra cùng lúc, nhưng câu đùa im bặt ngay khi chúng tôi phản ứng.
“Asley, anh cắt tóc cho quý bà xinh đẹp này. Nào, mời ông đến đây với tôi”.
Người thợ hớt tóc dẫn khách đến một cái ghế. Anh chàng người Mỹ lại nhìn tôi trong lúc bị dẫn đi và điều đó khiến tôi bật cười lần nữa.
“Được rồi, tôi chỉ muốn cắt ngắn bớt chừng năm phân thôi. Anh chàng người Mỹ nói. “Lần trước tôi cắt tóc, họ đã cắt đến mức … hừm … cứ như cả chục phân.
Vâng, xin vui lòng cắt ngắn giùm chỉ năm phân thôi”, anh có vẻ căng thẳng.
“Taxi chờ tôi ngoài để đưa tôi ra sân bay, vì thế, vui lòng cắt nhanh đến mức anh có thể”.
Người thợ hới tóc nhe răng cười. “Chắc chắn rồi, không có vần đề gì. Anh sẽ quay trở về Mỹ à?”.
Người đàn ông trợn tròn mắt. “Không, tôi không đi đến Mỹ. Tôi không nghỉ mát ở đây, và tôi cũng không gặp bất kỳ ai khi đến nơi cả. Hiểu không? Tôi sẽ chỉ bắt một chuyến bay thôi. Để đi. Rời khỏi đây. Nhưng người Ai- len các anh hỏi quá nhiều câu hỏi đấy!”.
“Chúng tôi ấy à?”.
“Vâ …”, anh nhổm lên, mắt nhíu lại nhìn người thợ hớt tóc.

“Được rồi”, người thợ hớt tóc mỉm cười, chỉ cây kéo vào anh ta.
“Vâng, các anh đúng như vậy đấy”. Những cái răng nghiến lại.
Tôi nên để khỏi bật cười lớn và người đàn ông ngay lập tức quay lại nhìn tôi.
Anh có vẻ bối rối. Có lẽ chúng tôi biết nhau. Có lẽ anh ta cùng làm việc với Conor. Có lẽ tôi học cùng trường với anh ta hồi còn bé. Hoặc cùng trường Đại học. Có lẽ anh ta làm việc trong lĩnh vực bất động sản và tôi đã làm việc với anh ta. Không thể được. Anh ta là người Mỹ. Có lẽ tôi đã giới thiệu cho anh ta xem một căn nhà nào đó trong quá trình làm việc. Có lẽ anh ta nổi tiếng và tôi không nên nhìn chằm chằm như vậy. Tôi trở nên bối rối và lại lập tức quay đi lần nữa.
Người thợ hớt tóc phủ một chiếc áo choàng đen quanh tôi. Tôi liếc trộm trong gương người đàn ông ngồi bên cạnh mình. Anh ta đang nhìn tôi, Tôi quay nhìn chỗ khác sau đó lại quay nhìn anh ta. Anh ta vội nhìn chỗ khác. Cứ như thể chúng tôi “chơi tennis” bằng những ánh mắt. Những ánh mắt liếc trộm cứ đưa qua đưa lại suốt giữa chúng tôi.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.