Justin bước từng bước vội vàng xuyên qua những sảnh lớn của Phòng Triển Lãm Quốc Gia. Một phần anh đang vâng theo, một phần khác đang làm trái cái quy định “Không chạy trong sảnh lớn”, vì anh cứ chạy ba bước lại đi ba bước, rồi lại chạy ba bước và đi chậm lại trong ba bước. Cứ thế!
Anh bắt gặp Roberta rón rén đi xuyên qua lối đi tiền sảnh, giống như một cái bóng trong thư viện nơi cô đa làm việc suốt năm năm qua.
“Roberta!”.
Sự liều lĩnh trong anh được tháo cũi xổ lồng. Không vâng theo quy định “Không được nói to, hét lớn trong sảnh” nữa. Giọng anh vang vọng, dội lại từ những bức tường và trần nhà cao ngất, làm điếc tai hết tất cả những bức ảnh chân dung to tướng. To đến nỗi đủ làm rụng rời héo rũ cả những đóa hướng dương rực rỡ trong bức họa của Van Gogh và làm rạn nứt cả mặt kính trong bức họa chân dung của Arnolfini.
Chừng đó cũng đủ làm Roberta cứng người vì sợ và từ từ xoay lại. Đôi mắt của cô tròn xoe, đầy nỗi sợ hãi, giống như một con hươu bị chói lòa giữa ánh đèn pha ô tô.
Cô đỏ mặt bối rối khi nửa tá nhân viên, khách tham quan khác quay lại nhìn cô chằm chằm. Roberta hít một hơi sâu như thể vừa nghẹt thở. Và Justin lập tức cảm thấy rất có lợi khi vừa phá vỡ những nguyên tắc của cô, làm mọi người chú ý đến cô trong khi cô chỉ muốn được giấu kín mình.
Anh ngừng những bước chân mạnh mẽ nửa đi nửa chạy của mình lại và cố gắng đi lặng lẽ hơn trên sàn nhà, lướt khẽ khàng như cô đã làm, trong sự nỗ lực “bù đắp” lại những tiếng ồn vừa gây ra. Cô đứng đó. Bất động như tượng đá.
Gần sát bức tường đến mức có thể, giống như một người leo núi đã vượt qua hết những rào cản, chỉ thích một nơi trú ngụ yên ổn hơn là chú ý đến vẻ đẹp của nó.
Justin tự hỏi thái độ này là “hậu quả” nghề nghiệp của cô, hay đó là cách mà một người quản thủ thư viện trong Phòng Triển Lãm Quốc Gia dùng để cuốn hút người khác theo cách của cô. Anh nghiêng nhiều hơn về nửa vế sau.
“Tôi đây”, cô thì thầm, mắt vẫn mở to thoáng vẻ hoảng hốt.
“Xin lỗi vì đã hét toáng tên cô”, anh nói khẽ đến mức có thể.
Gương mặt cô giãn ra và đôi vai cô có vẻ buông lỏng hơn tí chút.
“Cô lấy cái giỏ mây này ở đâu thế?”, anh đỡ nó lên.
“Ở quầy tiếp tân. Tôi vừa quay lại sau giờ nghỉ giải lao thì Charlie nhờ tôi đưa nó cho anh. Có chuyện gì không ổn à?”.
“Charlie”. Anh ngẫm nghĩ một lát. “Anh chàng trực ở lối ra vào?”.
Cô gật.
“Ồ, cảm ơn Robelta. Tôi xin lỗi vì đã hét to quá”. Anh xoay người, nửa chạy, nửa bước đi, với chiếc giỏ mây đong đưa trên tay.
“Kết thúc một ngày rồi à? Gì mà vui thế?”.
Anh nghe tiếng cười khẽ.
Justin nhận ra tiếng cười ấy. Anh đột ngột dừng lại và quay người một vòng, chạm mặt Charlie, người bảo vệ với chiều cao trên một mét tám.
“Trời đất quỷ thần ơi, tôi cũng đang đi kiếm anh đây!”.
“Anh cần gì?”.
“Tôi tự hỏi ai đưa cho anh cái giỏ này?”.
“Một người giao chuyển hàng hóa từ …”, Charlie di chuyển ra đằng sau cái bàn nhỏ và lật sột soạt mấy tờ giấy. Anh tìm ra một cái bìa kẹp hồ sơ.
“Cửa hàng Harrods”, người bảo vệ đọc. “Sao thế? Có gì không ổn với chỗ bánh xốp nướng này à?”. Anh ta tằng hắng giọng, cái lưỡi giấu trong miệng chà qua chà lại trên răng.
Justin nhíu mày. “Làm thế nào anh biết được đó là bánh xốp nướng?”.
Charlie lảng tránh ánh mắt của anh. “Tôi phải kiểm tra mà, chẳng phải vậy sao? Đây là Phòng Triển Lãm Quốc Gia. Anh không thể yêu cầu tôi chấp nhận một cái gói được gửi vào mà không biết trong ấy có gì”.
Justin dò xét Charlie – lúc này mặt đã đỏ bừng lên. Anh phát hiện ra những mảnh vụn bánh nhỏ xíu vẫn còn kẹt lại trên khóe miệng anh chàng bảo vệ, vương lại cả chút ít dấu tích trên bộ đồng phục của anh ta. Anh nhấc tấm vải ca rô phủ trên cái làn bằng mây của mình và đếm. Mười một chiếc bánh xốp nướng.
“Anh không nghĩ là thật ngớ ngẩn khi gửi cho một ai đó mười một chiếc bánh xốp nướng à?”.
“Ngớ ngẩn?”. Đôi mắt nhìn lảng đi nơi khác, vai nhấp nhổm bồn chồn. “Tôi không biết đâu, anh bạn. Tôi chưa bao giờ gửi bánh xốp nướng cho bất kỳ ai trong suốt cuộc đời mình”.
“Chẳng phải rõ ràng là người ta gửi mười hai chiếc bánh xốp nướng sao nhỉ?”.
Vai nhún nhẹ. Những ngón tay ngọ nguậy bồn chồn. Ánh mắt anh ta dò xét từng người bước vào phòng triển lãm, chăm chú hơn hẳn mức bình thường.
Những cử chỉ của anh ta đủ nói với Justin rằng anh ta đã kết thúc cuộc nói chuyện.
Justin rút điện thoại di động ra khi anh rời quảng trường Trafalgar.
“A lô?”.
“Bea, bố đây!”.
“Con không thèm nói chuyện với bố!”.
“Sao không?”.
“Peter nói với con những gì bố bảo anh ấy ở buổi biểu diễn ba lê tối qua hết rồi”, cô bé nhấm nhẳng.
“Bố đã làm gì nào?”.
“Bố căn vặn anh ta suốt cả buổi tối xem tình ý của anh ta thế nào”.
“Bố là bố của con. Và đó là việc bố phải làm”.
“Không đúng. Những gì bố đã làm không khác nào thứ việc tồi tệ nhất ấy!”, cô bé giận muốn bốc khói.
“Con thề đấy, con sẽ không nói chuyện với bố nữa, cho đến khi nào bố xin lỗi anh ấy”.
“Xin lỗi?”, anh bật cười, “Vì cái gì mới được? Bố chỉ đặt vài câu hỏi về quá khứ của cậu ta, nhằm xác định chắc chắn những việc cậu ta định lên kế hoạch”.
“Lên kế hoạch? Anh ta chẳng hề lên kế hoạch chuyện gì với con cả!”.
“Bố chỉ hỏi cậu ta vài câu hỏi, thế thì sao nào? Bea, cậu ta không đủ tốt với con đâu”.
“Không. Anh ta không đủ tốt với bố thì có. Được rồi, con không quan tâm bố nghĩ gì về anh ấy. Miễn là con, chính con đây này, cảm thấy hạnh phúc”.
“Cậu ta làm nhũng công việc không ổn lắm để kiếm sống …”.
“Anh ta là một chuyên viên tư vấn về công nghệ thông tin!”.
“Con gái yêu, con biết bố cảm nhận thế nào về một chuyên viên tư vấn không. Họ nhìn thấy hết mọi việc, vậy sao họ không tự làm điều đó cho chính mình, thay vì chỉ đi kiếm tiền bằng cách nói nói với người khác?”.
“Bố là một giảng viên, một ủy viên ban quản trị, nhà Phê bình sách, bất cứ cái quái gì cũng được. Nếu bố biết nhiều đến thế, tại sao bố không tự xây dựng nên những công trình kiến trúc hoặc vẽ nên những tác phẩm hội họa của chính mình?”, cô bé gào lên. “Thay vì chỉ đi khoe khoang với mọi người là bố hiểu biết nhiều về những tác phẩm, những công trình ấy thế nào!”.
Hừm.
“Con gái yêu, đừng để mình vượt khỏi khả năng kiểm soát bản thân như thế chứ”.
“Không, bố mới là người đang bị vượt khỏi khả năng kiểm soát bản thân. Bố sẽ xin lỗi Peter. Nếu bố không làm thế, con sẽ không trả lời bất kỳ cuộc gọi điện thoại nào của bố nữa và bố có thể tự giải quyết tất cả những trò kịch tính bố gây ra này”.
“Chờ đã. Chờ đã. Chờ đã. Chỉ một câu hỏi thôi”.
“Bố, con …”.
“Con có gửi cho bố chiếc làn mây đựng một tá bánh xốp nướng quế không?”, anh vội vàng hỏi.
“Hả? Không!”.
“Không?”.
“Không bánh xốp nướng. Không cuộc nói chuyện nào. Không gì cả”.
“Được rồi … con gái. Không cần phải tăng gấp đôi sự phản đối lên như vậy”.
“Con sẽ không liên lạc với bố bằng bất kỳ cách nào cho tới khi bố chịu xin lỗi”, cô bé kết thúc.
“Thôi được rồi”, anh thở dài. “Bố xin lỗi”.
“Không phải xin lỗi con. Xin lỗi Peter kia”.
“Được rồi, nhưng điều đó không có nghĩa là con sẽ không đi lấy giùm bố đồ bố gửi giặt ủi trên đường con về vào ngày mai đấy chứ? Con biết chỗ đó mà, nó là tiệm giặt ủi bên cạnh ga xe điện ngầm …”.
Điện thoại bị ngắt. Anh nhìn chằm chằm vào màn hình đầy khó hiểu.
Con gái của mình ngắt điện thoại với mình? Mình biết ngay cái cậu Peter đó sẽ gây rắc rối mà.
Anh ngẫm nghĩ lần nữa về những chiếc bánh xốp nướng và bấm số. Tằng hắng giọng.
“A lô”.
“Jennifer, anh … Justin đây”.
“Chào anh, Justin”. Giọng người vợ cũ lạnh băng.
Giọng nói đó từng ấm áp. Từng ngọt ngào như mật. Không, ngọt ngào như chiếc kẹo caramen nóng bỏng. Giọng nói ấy từng vút lên như nốt nhạc khi cô nghe tên anh bên đầu dây bên kia, giống như tiếng đàn piano đánh thức anh vào buổi sáng Chủ nhật khi nghe cô chơi từ phòng tập nhạc. Nhưng bây giờ thì sao?
Anh lắng nghe sự im lặng ở đầu dây bên kia.
Lạnh băng.
“Anh chỉ gọi để biết liệu có phải là em đã gửi cho anh một chiếc làn mây bánh xốp nướng?”.
Ngay khi anh nói điều đó xong, anh nhận ra mình thật kỳ quặc biết bao khi thực hiện cuộc gọi này. Tất nhiên là cô ta đã không hề gửi cho anh cái gì cả. Tại sao cô phải gửi?
“Anh nói gì cơ?”.
“Anh nhận được một giỏ bánh xốp nướng gửi đến văn phòng hôm nay, kèm theo một mẩu giấy cảm ơn. Nhưng mẩu giấy không hề cho biết chút thông tin gì về người gửi. Thế là anh tự hỏi có phải đó là em không”.
Bây giờ, giọng cô ấy trở nên rất buồn cười, à không, không phải buồn cười, mà là châm biếm, mỉa mai. “Thế theo anh, em phải cảm ơn anh về cái gì nhỉ, Justin?”.
Đó là một câu hỏi đơn giản, nhưng vì đã biết cô rõ rệt suốt những năm chung sống, nên anh hiểu rằng nó chứa đựng hàng loạt ẩn ý đằng sau câu chữ, giống như một cái móc câu chờ anh nhảy lên đớp phải. Cái móc câu cắm sâu vào môi anh và một Justin cay đắng liền quay trở lại. Giọng anh trở nên quen thuộc như suốt thời kỳ họ …. vâng, suốt thời kỳ kết thúc mọi thứ của họ. Cô cũng đã so kè với anh từng lời như thế.
“Ồ, anh không biết. Hai mươi năm của cuộc sống hôn nhân, có lẽ thế. Một đứa con gái. Một cuộc sống tốt. Một mái nhà che trên đầu cho em”.
Anh biết đó là một lời phát biểu ngốc nghếch. Bởi vì trước anh, sau anh và ngay cả không có anh, cô ấy đã từng và luôn luôn có một mái nhà, với tất cả mọi thứ, che trên đầu cô ấy. Nhưng câu nói ấy buột khỏi miệng anh trong lúc này và anh không thể ngừng lại, sẽ không ngừng lại, để thể hiện rằng anh đúng và cô ấy sai. Sự giận dữ thúc mạnh vào từng từ từng chữ, giống như một người nài ngựa rít lên với con ngựa của mình khi cả hai đã phóng gần về đích.
“Rồi thì đi du lịch khắp thế giới”.
Phóng lên nào!
“Rồi thì áo quần. Áo quần. Và nhiều áo quần hơn”.
Phóng lên nào!
“Cảm ơn về một cái bếp mới tinh tươm mà chúng ta chẳng cần đến. Về một căn phòng tập nhạc, vì chúa …”.
Và anh tiếp tục, giống như một người đàn ông từ thế kỷ mười chín luôn giữ cho vợ mình một cuộc sống tốt lành trong khi cô ta thì thậm chí không hề có tí tẹo biết ơn, lờ đi sự thật rằng cô được tạo cho một cuộc sống tốt lành, được chơi trong một dàn nhạc, đi du lịch khắp thế giới với anh tháp tùng.
Vào giai đoạn đầu cuộc sống hôn nhân của họ, họ không có chọn lựa nào khác ngoài việc sống với mẹ Justin. Cả hai đều trẻ và có một đứa con lẽo đẽo theo sau – nguyên nhân cuộc hôn nhân vội vàng của họ. Và rồi, trong khi Justin vẫn tiếp tục đến trường cao đẳng mỗi ngày, nhắm tới những quầy bar giải trí mỗi tối và làm việc ở một viện bảo tàng nghệ thuật mỗi cuối tuần thì Jennifer đã đi kiếm tiền bằng cách chơi đàn piano ở một nhà hàng dành cho giới thượng lưu tại Chicago.
Tới cuối tuần, cô quay về nhà vào sáng sớm, lưng đau nhừ, ngón tay giữa cũng đau nhừ. Nhưng tất cả đều biến khỏi đầu khi cô được bên anh.
Cô biết rằng tràng đả kích này sẽ đến và anh ngấu nghiến, ngấu nghiến, ngấu nghiến, nhai rau ráu ngay miếng mồi đang đầy trong miệng. Cuối cùng, thoát khỏi tất cả những thứ họ đã phải trải qua trong suốt hai mươi năm chung sống với nhau vừa rồi và đã hết hơi hết sức, anh dừng lại.
Jennifer im lặng.
“Jennifer?”.
“Vâng, Justin”. Lạnh băng.
Justin thở dài, cảm thấy như kiệt sức. “Nào, có phải là em không?”.
“Cái giỏ bánh đó chắc hẳn từ một trong số những người phụ nữ khác của anh gửi tới, bởi vì hoàn toàn chắc chắn không phải là từ em”.
Cúp máy.
Cơn giận dữ sôi sùng sục bên trong anh. Những người phụ nữ khác.
Những người phụ nữ khác!
Một cuộc tình đến khi anh hai mươi tuổi, một sự lóng ngóng vụng về trong bóng đêm với Mary- Beth Dursoa ở trường cao đẳng, trước cả khi anh và Jennifer kết hôn, và cô ấy cứ tiếp tục mang ý nghĩ như thể anh là một gã sở khanh. Trên giường ngủ của họ, anh đã từng đặt một bức tranh mang tên Than Khóc của Piero di Cosimo, bức mà Jennifer luôn luôn ghê tởm nhưng anh vẫn hi vọng có thể gửi đến cho cô một thông điệp ẩn giấu đằng sau. Trong bức họa ấy, có một cô gái trẻ bán khỏa thân, người mà chỉ mới liếc qua tưởng chừng đang ngủ, nhưng khi nhìn kỹ sẽ nhận ra máu đang rỉ từ cổ cô ấy. Một vị thần nửa người nửa dê đang khóc than cô ấy.
Cách hiểu của Justin về bức tranh là, người phụ nữ mất đi niềm tin về sự trung thực của chồng mình, đã theo anh ta vào rừng sâu. Anh ta đi săn, không hề đi chệch đường như cô nghĩ, và đã vô tình bắn nhầm trúng cô, chỉ vì cô sột soạt trong lùm cây như một con thú. Thỉnh thoảng, suốt những khoảnh khắc trong bóng tối, khi nỗi ghét nhau đã cuồng nộ dâng lên suốt những trận cãi vã gay gắt khó chịu, khi cổ họng của họ đều đã đau nhừ, khi mắt họ đều đã sưng mọng lên vì những giọt nước mắt tràn ra, khi trái tim họ tan vỡ trong cảm giác đau đớn, đầu óc họ nặng trịch với những phân tích này nọ, Justin đều nhìn chăm chăm lên bức tranh và ganh tỵ với vị thần nửa người nửa dê nọ.
Vừa giận dữ vừa xúc động, anh bước xuống những bậc thềm nơi quảng trường, ngồi xuống bên cạnh một đài phun nước, đặt giỏ bánh xuống bên cạnh chân mình và cắn từng miếng bánh nướng quế, ngốn nhanh đến nỗi hầu như không có thời gian thưởng thức mùi vị của nó. Những mẩu bánh vụn rơi xuống chân anh, cuốn hút cả một đàn bồ câu với đôi mắt đen láy những ý định rất rõ ràng tìm đến. Anh vớ tiếp một chiếc bánh xốp nướng khác nhưng anh bị bủa vây bởi những con chim bồ câu hăng hái quá mức mổ mổ cả vào cái làn mây đựng bánh một cách háu ăn. Mổ, mổ, mổ. Anh nhìn cả tá những con bồ câu đang “thẳng tiến” về phía mình, nhon nhón trên mặt đất hệt như những chiếc máy bay phản lực chiến đấu. Lo ngại trước đàn chim háu ăn anh nhấc cái giỏ lên, hù chúng bay tán loạn với tất cả sự “mạnh mẻ” của một cậu bé mười một tuổi.
Anh lướt qua cổng trước ngôi nhà của mình; vẫn để cửa mở sau lưng. Thật bất ngờ, nhào ra đón anh là Doris, với một cây cọ vẽ và bảng màu trong tay.
“Anh xem này, em mới làm lại đấy”, cô toe toét.
Những cái móng tay in hình con báo dài ngoẵng của cô được gắn thêm những viên đá lóng lánh. Cô mặc một bộ áo liền quần như da rắn. Đôi chân loạng choạng một cách đầy nguy hiểm trên đôi giày gót cao ngất, có dây buộc ở mắt cá một cách khéo léo. Mái tóc của cô như thường lệ, làm người ta phát sốc vì màu đỏ rực. Đôi mắt hệt như mắt mèo với đường viền mắt kẻ bằng chì đậm nét xếch lên nơi khóe mắt. Đôi môi được tô tiệp màu với mái tóc. Anh nhìn chúng với cảm giác khó chịu cùng cực khi chúng mở ra, khép lại. “Anh thấy tông màu này dùng cho căn phòng có ổn không. Ôi trời ơi, em thích màu kẹo Cappuccino cơ. Nhưng em không nghĩ nó sẽ thích hợp với màu màn cửa. Anh nghĩ thế nào?”.
Cô vung vẩy những mảng màu khác nhau trước mặt anh. Nhưng anh không đáp lại. Chỉ hít một hơi thật sâu và đếm đến mười trong đầu, như cách người ta vẫn hướng dẫn để giúp bình tĩnh lại. Và khi nhận ra rằng cô lại tiếp tục vung bảng màu lên để nói tiếp, anh quyết định mình sẽ đếm đến … hai mươi.
“Chào anh? Justin?”, cô quệt ngón tay lên mặt anh một cái “Chào a- n- h!”.
“Có lẽ em nên để anh ấy nghỉ ngơi, Doris. Anh ấy có vẻ mệt đấy!”, Al nhìn anh trai mình với một vẻ căng thẳng.
“Nhưng …”.
“Thôi được, em hỏi một câu nữa thôi. Bea thích căn phòng của nó được sơn màu ngà. Và Peter cũng vậy. Tưởng tượng xem căn phòng này sẽ lãng mạn biết chừng nào cho …”.
“ĐỦ RỒI!”. Justin gào lên bằng tất cả sức lực của mình, không muốn cái tên của cô con gái anh và thế giới lãng mạn gì đó nằm trong cùng một câu.
Doris nhảy dựng lên và ngừng nói ngay tức khắc. Hai tay cô ôm ngực. Al ngừng uống, cái chai đưa lên tới môi như đông cứng lại ở đó. Hơi thở nặng nề của Al, chạm trên thành chai, tạo nên những thanh âm ngồ ngộ như từ cái tẩu hút thuốc bằng ngà.
Sau đó, hoàn toàn là một sự im lặng.
“Doris”, Justin hít một hơi sâu, cố gắng nói bằng vẻ bình tĩnh nhất có thể.
“Đủ rồi đấy. Không cần thêm bất kỳ cái gì nữa. Không có cà phê Cappuccino nào ở đây …”.
“Kẹo Cappuccino …”, cô đính chính cái rụp, rồi lại im lặng ngay tức thì.
“Cái gì cũng được. Đây là căn nhà theo phong cách Victoria, từ thế kỷ mười chín, không phải là nơi để em sơn phết đủ thứ màu sắc xanh đỏ tím vàng để làm nên một căn phòng cho các quý cô”. Anh cố gắng chế ngự cảm xúc của mình, để không xúc phạm đến cô em dâu. “Nếu em muốn đề cập đến màu sô- cô- la Cappuccino …”.
“Kẹo chứ không phải sô- cô- la”, cô thì thầm.
“Gì cũng được! Anh không muốn em phí thời gian làm cái việc này nữa, không khéo em phá hỏng hết mọi thứ …”.
Cô không nói nên lời, đầy vẻ bị xúc phạm, tổn thương.
“Căn nhà này, nếu cần thay đổi thì nó cần những thứ đồ gỗ đúng niên đại, những màu sắc đúng niên đại, chứ không phải cái kiểu tả pí lù như cái thực đơn của Al”.
“Ơ này!”, Al lên tiếng ngay khi nghe ông anh trai ví von dính đến tên mình.
“Anh biết việc này cần thiết …”, Justin hít một hơi sâu và nói bằng giọng nhẹ nhàng, lịch sự hơn. “Anh đánh giá cao sự giúp đỡ của em. Nhưng căn nhà này không đơn giản giống như em nghĩ … Nói với anh là em đã hiểu rõ mọi thứ đi nào!”.
Cô chầm chậm gật đầu. Điều đó giúp anh thở hắt ra một hơi nhẹ nhõm. Đột nhiên, những tấm bảng màu trong tay cô bay vèo vào một góc tường. Doris rít lên, “Em chưa từng thấy ai tệ như anh!”.
“Doris!”, Al nhảy ra khỏi chiếc ghế bành. Justin thì ngay tức khắc, lật đật bước về phía sau để tránh dáng vẻ như sắp sửa nhào tới của cô em, với nhưng chiếc móng tay cứ như vũ khí.
“Anh nghe đây, anh là người nhỏ nhen, ích kỷ, hẹp hòi, xấu xa nhất mà em từng thấy. Em đã bỏ ra suốt hai tuần lễ để làm gì? Để nghiên cứu xem tầng hầm nhà anh chứa gì, để dọn dẹp chúng, cái đống đồ đạc mà anh thậm chí cũng chẳng biết đến sự tồn tại ấy. Em đã ở trong bóng tối, quét dọn … Cái nơi mà người ta nghe toàn mùi cũ mốc ấy. Giọng cô chùng xuống, nhưng vẫn chưa có vẻ gì muốn ngưng.
“Em đã thu thập về bao nhiêu là những cuốn brochure quảng cáo màu sơn của từng giai đoạn lịch sử. Để làm gì à? Vì em muốn chính tay em sẽ chọn ra những màu sơn thích hợp cho anh, trong căn nhà này, những màu sơn của thế kỷ mười chín. Em đã bắt tay làm quen với hết người này đến người khác để tìm hiểu về cái hồn sâu sắc của London mà em chưa từng biết. Em đọc bao nhiêu là cuốn sách cũ, những cuốn sách phủ đầy bụi trên kệ ấy. Em đã xem không biết bao nhiêu màu sơn Dulux để tìm kiếm màu thích hợp. Em đã phải mọc ba đầu sáu tay để lục lọi các cửa hàng đồ cũ để tìm xem những loại đồ gỗ cổ xưa màu sắc thế nào. Em làm đủ mọi thứ em có thể. Vậy mà …”.
Cô dí những ngón tay với chiếc móng dài ngoằn vào sát Justin, đến mức sắp dồn anh sát vào tường. “Đừng Nói Với Em Là Em Không Làm Được Gì!!!”.
Cô tằng hắng giọng và đứng thẳng dậy. Cơn giận dữ trong giọng nói bây giờ được thay thế bằng những cái vung tay run bần bật.
“Mặc kệ anh nói cái gì, em cũng sẽ hoàn thành việc này. Em sẽ tiếp tục và không nao núng đâu. Em sẽ làm, không đếm xỉa đến anh. Em sẽ làm nó cho em trai anh, người mà biết đâu có thể chết vào khoảng tháng tới và anh thậm chí cũng chẳng thèm quan tâm đến”.
“Chết?”, Justin trợn tròn mắt.
Nói bằng đấy câu xong, cô em dâu quay gót giày và bay biến ngay như một cơn lốc lên phòng riêng. Nhưng đến sát cửa, cô quay lại. “Em muốn cho anh biết, em sẽ đập cửa lại RẤT TO, để chứng tỏ cho anh biết rằng em giận dữ đến mức nào”.
Tiền sau đó, cô biến đi lần nữa, với một tiếng dập cửa cái rầm.
Tôi bước từng bước một đầy căng thẳng bên ngoài cánh cửa hé mở của ngôi nhà Justin. Có nên bấm chuông bây giờ không? Hay đơn giản là gọi lớn tên anh ta cho trong phòng nghe? Có khi nào anh ta gọi cảnh sát và họ giải tôi đi vì tội xâm phạm gia cư bất hợp pháp? Chưa thấy cái quyết định nào lại tệ như cái quyết định này.
Frankie và Kate đã thuyết phục tôi đến đây, để tự mình “trình diện” với anh ấy. Họ đã bơm tôi lên với đến mức tôi tự tin bắt chiếc taxi đầu tiên để thẳng tiến đến quảng trường Trafalgar, sau khi bắt kịp anh ở Phòng Triển Lãm Quốc Gia trước lúc anh rời khỏi.
Tôi đã gần anh như chưa bao giờ gần thế khi anh nói chuyện điện thoại, đã nghe anh hỏi mọi người về giỏ bánh. Tôi có một cảm giác thoải mái rất ngớ ngẩn khi được quan sát anh mà anh không hề biết. Tôi đã không rời mắt khỏi anh, được nhìn thấy anh bằng xương bằng thịt thay vì từ trong ký ức.
Cơn giận dữ của anh với ai đó trên điện thoại – tôi gầm như chắc chắn là vợ cũ của anh, người phụ nữ với mái tóc đỏ và những đốm tàn nhang – đã thuyết phục tôi rằng đây là khoảng thời gian chưa phù hợp để tiếp cận anh và thế là tôi đã đi theo anh.
Đi theo, không phải rình rập.
Tôi dành thời gian cố gắng tạo nên cho mình dũng khí để nói chuyện với anh. Tôi có nên đề cập đến chuyện truyền máu không? Có khi nào anh nghĩ rằng tôi có vấn đề về tâm thần? Hay anh sẽ mở lòng để nghe, và … biết đâu tốt hơn nữa, mở lòng để tin?
Lúc theo anh lên xe điện ngầm, một lần nữa, tôi nhận ra đây không phải là thời điểm phù hợp. Nó quá đông. Mọi người cứ xô đẩy nhau mạnh bạo, tránh nhìn vào mắt nhau, chẳng quan tâm đến những lời giới thiệu làm quen. Và thế là sau những bước đi hối hả lên lên xuống xuống con đường gần nhà anh, giống như một cô nữ sinh mới yêu lần đầu, bây giờ, tôi phát hiện chính mình đang đứng trước cửa nhà anh, với một kế hoạch.
Nhưng kế hoạch của tôi lại một lần nữa bị gián đoạn khi Justin và em trai anh bắt đầu nói đến một điều mà tôi biết rằng tôi không nên nghe. Đó là một bí mật gia đình mà tôi đã vô cùng quen thuộc. Tôi dời ngón tay xa dần khỏi chuông cửa, núp kín sau cánh cửa sổ và chờ một cơ hội tốt của mình.