Mật Mã Tây Tạng

CHƯƠNG 12: HẬU DUỆ CỦA TÂY THÁNH SỨ



Còn chuyện hoàng hậu Hắc Miêu lúc đó đã có thai hay về sau mới có thai đều không quan trọng nữa. Quan trọng nhất là, nếu giả thiết này đúng thì người đàn ông thần bí có gương mặt của người phương Tây đang đứng ở trước mặt gã lúc này đây, kỳ thực vẫn còn một phần huyết thống của người Tạng! Sau khi nghĩ thông được điểm này, Trác Mộc Cường Ba cho rằng mình đã hiểu thông được vấn đề mà pháp sư Á La trước giờ vẫn luôn lấy làm nghi hoặc: “Tại sao Merkin cũng trở thành thánh sứ được, hắn ta rõ ràng là người ngoại quốc cơ mà?”
Sau câu nói vạch rõ chân tướng ấy của Trác Mộc Cường Ba, hai người đều đắm chìm trong yên lặng một hồi lâu, không khí xung quanh trở nên nặng nề bức bối lạ thường. Merkin không thể nào ngờ, bí mật gia tộc mình đã gìn giữ nghiêm ngặt suốt mấy thế kỷ, lại bị một người ngoài nói trắng ra bằng thứ ngữ khí khẳng định như thế, nhất thời y không chấp nhận nổi. Nghĩ thật tức cười, y vốn định khiến Trác Mộc Cường Ba phải kinh ngạc một phen, nào ngờ giờ lại thành ra chính bản thân y phải ngạc nhiên sững sờ như phỗng đá.
Không biết bao lâu sau, Merkin mới lấy lại vẻ bình tĩnh sau pha chấn động, tuy điều Trác Mộc Cường Ba nói đã rất gần với chân tướng sự thực, nhưng dẫu sao cũng chưa phải là toàn bộ sự thực, bí mật của gia tộc nhà y chắc chắn sẽ khiến đối phương phải cả kinh thất sắc một phen. Y cười khổ nói: “Các người làm sao điều tra ra được vậy?”
Trác Mộc Cường Ba thành thực trả lời: “Thực ra chúng tôi vốn chẳng điều tra được gì, đây là do tôi đột nhiên nghĩ ra, cũng mới gần đây thôi.”
Kế đó, gã nói một lượt về liên tưởng và các giả thiết của mình. Merkin nghe mà không khỏi lắc đầu cười khổ. Chỉ dựa vào một câu chuyện thần thoại mà đoán được chân tướng sự thực, năng lực phân tích này thật là đáng sợ. Sự thật này ngay cả nhà phân tích xuất sắc nhất trong đội ngũ của đối phương là Nhạc Dương cũng chẳng thể nào nghĩ đến được, Merkin dám khẳng định như vậy! Đây mới là Trác Mộc Cường Ba, gã Trác Mộc Cường Ba tinh minh trên thương trường, mấy năm huấn luyện thể năng đã khiến đầu óc gã bị áp chế ư? Không, trước kia xua đuổi Trác Mộc Cường Ba trên băng nguyên, gã Trác Mộc Cường Ba vẫn ngây ngây ngốc ngốc, chính y còn giễu cợt gã là thằng ngu xuẩn cơ mà? Nói như vậy là có nghĩa trong khoảng thời gian này, Trác Mộc Cường Ba đã bất ngờ có những biến đổi về thể chất. Gã đã phải trải qua những chuyện gì? Từ thể năng, kỹ năng đến trí năng, rốt cuộc Trác Mộc Cường Ba đã lột xác như thế nào?
Nghe Trác Mộc Cường Ba phân tích mãi, cuối cùng Merkin cũng cảm thấy không chịu nổi nữa, y ngắt lời gã: “Anh…anh rất lợi hại, lúc trước tôi đã sai lầm khi đánh giá anh. Phải rồi, phân tích và suy đoán của anh rất hợp lý, nhưng vẫn còn cách chân tướng sự thật một khoảng nhỏ.”
“Ừm.” Trác Mộc Cường Ba chăm chú chờ đối phương nói tiếp. Gã cũng biết, chỉ với thân phận là hậu duệ của hoàng hậu Hắc Miêu, bọn họ vẫn chưa đủ kiêu ngạo để tuyên bố rằng Bạc Ba La thần miếu là sản nghiệp của gia tộc mình. Gia tộc Merkin rốt cuộc còn bằng chứng gì khác nữa?
Chỉ nghe Merkin trầm giọng nói: “Anh có biết tổ tiên của hoàng hậu Hắc Miêu là ai không?” Trong bóng tối, một giọng nói run run cất lên như muốn xé toang tấm màn bóng tối dày đặc. “Tổ tiên hoàng hậu Hắc Miêu là Tây Thánh sứ Bì Ương Bất Nhượng, đây chính là bí mật lớn nhất mà gia tộc chúng tôi chưa từng công khai, tổ tiên chúng tôi chính là Bì Ương Bất Nhượng.
“Tây Thánh sứ Bì Ương Bất Nhượng!” Mặc dù đã chuẩn bị tâm lý từ trước, Trác Mộc Cường Ba suýt chút nữa đã nhảy dựng lên, nhân vật ngay cả trong Cố Cách kim thư cũng không nhắc đến tên ấy, không ngờ lại có một vị hậu duệ trực hệ đang ngồi ngay trước mặt gã! Điều này, hiển nhiên là bí mật được Merkin chôn dấu sâu nhất. Lúc Trác Mộc Cường Ba nói chuyện với Soares, Soares rõ ràng không biết thân phận này của y.
Thuở bấy giờ, tín vật mà gã sứ giả kia mang ra là thứ gì? Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì trước khi Cổ Cách bị diệt vong? Họ có biết gì về tung tích của ba món tín vật hay không? Họ biết được những gì về đoạn lịch sử liên quan đến Bạc Ba La thần miếu đã bị xóa nhòa kia? Nhất thời, quá nhiều câu hỏi cùng lúc hiện lên trong đầu Trác Mộc Cường Ba, khiến gã không biết nên bắt đầu hỏi từ đâu nữa.
Merkin lại cất giọng điềm đạm nói tiếp, ngữ điệu không quá kiêu căng, song cũng không hạ mình: “Nếu muốn nói về lịch sử gia tộc chúng tôi và quá trình gia tộc nghiên cứu Bạc Ba La thần miếu, e rằng nói mấy ngày mấy đêm cũng không hết được. Điều tôi muốn nói với anh là, bản đồ kho báu năm xưa Cổ Cách Vương bảo hoàng hậu Hắc Miêu mang đi ấy, kỳ thực chính là nửa sau của Cổ Cách kim thư, ghi chép một số sự việc mà các anh không biết, bao gồm cả hoàn cảnh địa lý của ba tầng bình đài, cái hồ anh trông thấy khi nãy và trận đồ bằng đá ở vòng ngoài cái hồ đó. Nếu ghép nữa đầu của các anh và nửa sau của chúng tôi lại, thì sẽ hoàn nguyên lại được một pho lịch sử Cổ Cách hoàn chỉnh.”
“Đợi chút đã!” Trác Mộc Cường Ba sắp xếp lại mạch tư duy rối loạn trong đầu, gạn lọc lại các đầu mối, đoạn nói: “Ông cần phải kể từ lúc vị sứ giả kia tìm thấy tổ tiên Tây Thánh sứ của gia tộc nhà ông, kể cho tỉ mỉ rõ ràng vào, lúc đó vị sứ giả đã giao vật gì cho tổ tiên của ông? Muốn tổ tiên ông bảo tồn bí mật gì? Còn cả sự biến mất của Đạo quân Ánh sáng trong lịch sử nữa, tổ tiên ông có biết về sự kiện này không?”
“Đạo quân ánh sáng?” Merkin thoáng ngẩn ra, nói: “Tôi không hiểu anh đang nói gì, nhưng tôi có thể khẳng định với anh rằng, trên thực tế khi tổ tiên tôi được sứ giả tìm thấy, ngài ấy hoàn toàn không biết thân phận Tây Thánh sứ của mình. Rõ ràng, vị tổ tiên ấy của tôi, vị tên là Bì Ương Bất Nhượng Ấy, có ý che giấu quá khứ, hy vọng sống cuộc đời của người bình thường. Có điều, về tín vật mà sứ giả mang tới, tôi có thể cung cấp cho anh một số nội dung thiết thực. Theo như ghi chép trong hồi ký của tổ tiên, vị sứ giả ấy trước sau đã đến gặp ngài hai lần, phần ghi chép trong Cổ Cách kim thư có lẽ là nội dung của lần thứ hai. Lần đầu tiên, sứ giả mang đến chìa khóa, tặng cho tổ tiên của tôi, tương truyền, đó là chìa khóa có thể khai mở bí mật của Bạc Ba La; lần thứ hai, thứ sứ giả mang đến chính là Đại Thiên Luân kinh. Thực ra một phần ghi chép trong Cổ Cách kim thư có liên quan rất lớn đến Đại Thiên Luân kinh. Đại Thiên Luân kinh có thể nói là một bộ tổng cương, cũng có thể nói là một bộ chỉ nam lữ hành. Theo những gì ghi lại trong bút ký của tổ tiên tôi, trong đó có lẽ còn kể tỉ mỉ những vật phẩm trân tàng bên trong Bạc Ba La thần miếu, phân loại rõ ràng, ngoài ra còn có cả ảo nghĩa đúc rút ra từ các kinh điển nữa. Nói một cách đơn giản, pho kinh này chính là thư mục của một cuốn sách, còn bên trong Bạc Ba La thần miếu chính là nội dung của cuốn sách ấy. Vả lại, mấy trang cuối cùng của pho kinh thư này, có lẽ chính là bản đồ và chỉ dẫn cho bản đồ ấy dưới dạng các câu đố ẩn.”
“Bản đồ da sói!” Trác Mộc Cường Ba lập tức nhớ đến phát hiện của bọn gã ở địa cung Cổ Cách và Đảo Huyền Không tự.
“Đúng thế, chính là tấm bản đồ mà các anh và chúng tôi tranh đoạt ở Đảo Huyền Không Tự.” Merkin ngưng lại giây lát, rồi tiếp lời: “Trong lần gặp thứ hai này, vị sứ giả ấy mới chỉ rõ ra rằng, tổng cộng có ba vị Thánh sứ. Sứ giả đã giao tín vật thứ nhất ra rồi, nhưng gia tộc chúng tôi vẫn chưa điều tra ra được tín vật ấy ở đâu. Hai món còn lại, chính là Đại Thiên Luân kinh và Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, món sau cũng chính là tấm gương đồng mà các anh lấy được, hình như gọi là Hương Ba La mật quang bảo giám đúng không? Nhưng sau khi trao tính vật thứ nhất, sứ giả dường như có chút do dự, thái độ không còn nhất quán nữa. Theo ghi chép của tổ tiên chúng tôi, khi đó bọn họ đã thảo luận liền mấy ngày về chủ đề ý nghĩa của sinh mệnh và luân hồi chuyển nghiệp. Phải biết rằng, tuy lúc đó tổ tiên chúng tôi không biết thân phận Thánh sứ của mình, song ngài cũng là bậc đại trí giả trong dân gian được giáo hội Lạt ma của Cổ Cách công nhận đấy. Chính vì có lần đàm luận ấy, thái độ của sứ giả cuối cùng cũng đã thay đổi, về sau mới có chuyện Cổ Cách Vương mời sứ giả đến.” Hiển nhiên, Merkin nắm được khá nhiều nội dung của nửa trước Cổ Cách kim thư. Nhưng Trác Mộc Cường Ba hoàn toàn không biết gì về nửa sau của bộ sách này, gã bèn hỏi những chuyện xảy ra sau này với vị sứ giả, thậm chí, cả sự diệt vong của vương triều Cổ Cách, gã cũng cảm thấy có liên quan đến chuyện này.
Merkin lúc thì trầm tư, lúc thì ngừng hẳn lại, không biết là đang cố gắng giảng giải kỹ lưỡng nội dung của nửa sau Cổ Cách kim thư cho Trác Mộc Cường Ba nghe, hay là cố gạn lọc lựa chọn một số phần mà y cho rằng Trác Mộc Cường Ba có thể biết. Thông qua lời kể của Merkin, Trác Mộc Cường Ba biết thêm rất nhiều bí ẩn lịch sử, rất hiển nhiên, sau khi đàm luận với tổ tiên của Merkin, thái độ của vị sứ giả kia đã chuyển biến, song nội dung của cuộc đàm luận kia thì không thể nào biết được. Sứ giã đã dừng hành động giao tín vật cho ba vị Thánh sứ, ngược lại còn yêu cầu Cổ Cách Vương hiệp trợ mình phân tách tín vật ra. Từ các hành vi này có thể thấy, dường như ông ta muốn các tín vật này vĩnh viễn không còn cơ hội thấy lại ánh sáng mặt trời, song không hiểu sao lại vẫn để lại một chút đầu mối để hậu nhân sau này phát hiện ra một chút dấu vết mờ nhạt trong lịch sử.
Theo lý giải của gia tộc Merkin, sứ giả làm như vậy, chính là hy vọng sau này không ai có thể phát hiện ra Bạc Ba La thần miếu, nhưng những tín vật kia lại là vật chí cao vô thượng, không thể đem hủy diệt. Sở dĩ phải mang tín vật đi giấu ở tận nơi chân trời góc biển, chính là vì tâm tư thuận theo ý trời. Sứ giả đã làm đến nước này rồi mà vẫn bị người đời sau phát hiện, vậy thì đó chính là mệnh trời xui khiến, không liên quan đến ông ta nữa. Còn sứ giả, sau khi từ địa lục xa xôi kia trở về, liền như biến thành một con người hoàn toàn khác, ngày nào cũng say khướt, hành vi điên rồ nổi loạn. Nguyên nhân gây ra tình trạng này không được rõ cho lắm, có điều, Merkin lại nhắc đến câu nói mà vị sứ giả kia thường xuyên lẩm bẩm sau khi trở về: “Tất cả mọi người đều chết rồi, mọi thành đô đều đã chết rồi.”
Còn sự diệt vong của vương triều Cổ Cách, hiển nhiên không thể nào được ghi lại trong Cổ Cách kim thư, Merkin nhớ, dường như mấy chục ngày cuối cùng đó đều không được ghi chép gì trong Cổ Cách kim thư cả. Có điều vị Cổ Cách Vương cuối cùng từng được nhắc đến đã muốn mở chiếc hộp có thể hủy diệt tất cả kia ra, cùng diệt vong với quân xâm lược.
Khi Trác Mộc Cường Ba và Merkin thảo luận trong bóng tối, bọn lính đánh thuê ở trên cũng không có hành động gì, kẻ thần bí khống chế toàn cục kia chỉ ra lệnh cho cả bọn nghỉ ngơi tại chỗ, sau đó bật chiếc máy tính cầm tay lên, trên màn hình xuất hiện hai chấm nhỏ màu đỏ, nhưng không thấy chuyển động gì. Y lặng lẽ chờ đợi, đến đêm khuya khi trăng đã lên cao, mới nói khẽ một câu: “Cũng nói lắm thật đấy.”
Bọn lính đánh thuê thì thầm hỏi nhau: “Chúng ta đang đợi gì vậy?”
Khafu chuyển câu hỏi này cho gã thanh niên tên Thomas, câu trả lời bọn chúng nhận được là: “Cánh cửa kia phải đợi đến thời điểm nhất định mới mở ra được.”
Khafu cũng thì thầm hỏi Thomas: “Tại sao còn giữ bọn chúng lại?” Y liếc nhìn về phía pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam.
Người trẻ tuổi ấy điềm đạm nói: “Merkin đã mất hết tất cả, trở thành nhân tố không thể khống chế, song uy thế của tao vẫn có thể trấn nhiếp được hắn. Nhưng Trác Mộc Cường Ba thì khác, nếu hắn cũng trở thành nhân tố không thể khống chế, có trời mới biết hắn sẽ gây ra chuyện gì, kiềm chế được ba người này, chính là kiềm chế được Trác Mộc Cường Ba.” Khafu gật đầu như hiểu mà cũng như chẳng hiểu gì.
Ánh trăng rải xuống mặt hồ lăn tăn gợn sóng, một tia sáng chiếu qua những khối đá nằm rải rác như quân cờ trên quảng trường, rọi qua khe núi dài hẹp, chầm chậm nhích lên bụng con nhện khổng lồ.
Thấy bóng sáng nhích động, người trẻ tuổi kia đứng lên, nói với cả bọn: “Cũng gần đến lúc rồi đấy.” Y bước thẳng đến chỗ cái bồn nước trông như chậu rửa tay, nghiến răng nói: “Tốn nhiều máu thật!” Nói đoạn y liền vén ống tay áo trái lên, để lộ cánh tay cơ bắp cuồn cuộn, từ từ cắt vào một dao, những giọt máu lỏng tỏng nối thành dòng, chảy thẳng xuống chậu nước rửa tay bên dưới.
Pháp sư Á La ngẩng đầu lên nhìn mấy hàng chữ cạnh cửa, nghi hoặc nói: “Sao có thể được?”
Lữ Cánh Nam lại chú ý đến lượng máu của tên lính đánh thuê, 250 ml, 500 ml, 600 ml…máu trong bồn dần dần dâng lên, khi dâng đến một mức nhất định, bỗng nghe “bâng” một tiếng, tựa như có lớp vỏ nào đó bị đập vỡ. Tên lính đánh thuê trẻ tuổi ấy cười cười nói: “Xong rồi!”. Y co tay lại, giật một mảnh băng cầm máu rồi nhanh nhẹn thắt nút, chỉ trong thoáng chốc đã cầm máu xong xuôi. Máu trong bồn rửa tay bắt đầu thấm xuống dưới, cuối cùng thì hoàn toàn biến mất.
Những lông mao trên chân con nhện khổng lồ đã bắt đầu hút máu như bọt biển, chuyển sang sắc đỏ thẫm dưới ánh trăng màu ngân bạch, tựa hồ muốn sống dậy. Bọn lính đánh thuê vội nhao nhao lùi lại, không dám đứng trước cửa lớn. Toàn bộ những sợi lông phía dưới đều bị máu nhuộm đỏ thắm, sắc máu tiếp tục lan dần lên phía trên, phảng phất như muốn đuổi theo tia sáng lấp lóa màu vàng nhạt. Cuối cùng, sắc máu và tia sáng gặp nhau ở chỗ gần mắt. Tám con mắt nhện xếp thành hình cung như vành trăng khuyết chiết xạ ánh trăng màu vàng nhạt, vạt máu đỏ thẫm đã thấm vào trong, tựa như hai tia chớp một vàng một đỏ truy đuổi nhau trong nhãn cầu con nhện, từ con mắt này chạy sang con mắt khác.
Một lúc lâu sau, mặt đất mới bắt đầu rung, cát bụi bốc mù mịt, âm thanh như thể xe lửa nghiến lên đường ray từ xa vẳng lại, mỗi lúc một gần hơn. Nếu lúc này có người ở bên cạnh Bức Tường Than Thở, ắt sẽ ngạc nhiên phát hiện thấy bức tường mỗi ngày đều phun hơi mù trắng theo giờ ấy, lúc này như thể một công xưởng đang tăng ca hết cỡ, hơi sương mù mịt trắng xóa bốc lên cuồn cuộn, che kín toàn bộ bức tường thấp thoáng tiếng máy móc gầm rít. Pháp sư Á La nhìn người thanh niên, chừng như không dám tin vào mắt mình nữa. Ông nhắc lại câu hỏi lần nữa: “Rốt cuộc ngươi là ai?”
Người trẻ tuổi chỉ chăm chú nhìn hàng chữ lớn trên cửa, không rõ y đang dịch những văn tự ấy hay là trả lời câu hỏi của pháp sư Á La: “Một người huyết thống thuần chủng! Một người trí tuệ tuyệt luân! Một người không biết sợ hãi, thân thủ phi phàm! Ha ha ha…”
Cùng với tràng cười ngạo nghễ như thể “phóng mắt nhìn khắp thiên hạ, ngoài ta ra chẳng còn ai nữa” đó, cánh cửa đá khổng lồ sừng sững từng khiến pháp sư Á La và Mẫn Mẫn phải thúc thủ đã dần dần dịch sang hai bên, nhưng không mở hoàn toàn, mà chỉ nhích ra tạo thành một đường hầm cho phép một người đi lọt. Từ đây có thể thấy, cánh cửa này quả nhiên còn có tác dụng chịu tải nữa. Nhìn từ chính diện, đường hầm tưởng chừng như kéo dài vô tận vào lòng núi. Thomas sai bọn lính đánh thuê đẩy ba người pháp sư Á La vô trước. “Xin mời!” Y đưa tay làm thành động tác mời hết sức thanh nhã.
Pháp sư Á La đi đầu tiên, phía sau có tên lính đánh thuê mang thiết bị chiếu sáng rọi sáng rực cả đường hầm. Cửa đá này quả nhiên là từng cánh cửa xếp thành hàng, mỗi cánh cửa dày khoảng một mét, nhìn về phía trước, không biết rốt cuộc là có bao nhiêu cánh cửa như vậy nữa. Vả lại, khi đi vào đường hầm, họ mới phát hiện hai mép cửa ở hai bên không phải là một đường thẳng, mà hơi nghiêng nghiêng, cánh cửa bên trái nghiêng xuống dưới, cánh cửa bên phải nghiêng chếch lên trên. Đồng thời, trên mỗi mặt cắt lại có các hình điêu khắc một lồi một lõm. Khi chúng đóng lại mặt lồi vừa khéo ghép mộng khít vào bên trong mặt lõm. Những bức phù điêu hết sức kỳ quái, không phải tượng Phật, mà là những vật thể tròn tròn như quả trứng, tỉ mỉ rọi đèn vào quan sát mới phát hiện đó là các hình người đang cuộn mình, tư thế giống hệt tư thế Mật tu mà Lữ Cánh Nam từng dạy cho Trác Mộc Cường Ba, cũng chính là tư thế của bào thai trong bụng mẹ.
Có bức chính diện, có bức lại khắc mặt nghiêng, có bức hướng lên trên, có bức hướng xuống dưới, nói chung là đủ loại phương vị. Những tượng người cuộn tròn thân thể ấy, toàn bộ đều là người trưởng thành, ngũ quan rõ ràng, tướng mạo khác nhau, thoạt nhìn vừa giống người phương Đông lại vừa giống người phương Tây. Vì toàn bộ đều không có tóc, mà tư thế ấy lại che đi tất cả các bộ phận có thể phân biệt giới tính, nên nhìn thoáng qua vừa giống đàn ông, lại cũng giống đàn bà, các gương mặt khác hẳn nhau, song lại khiến người ta có cảm giác hết sức quen thuộc. Vị trí của những bức phù điêu vừa khéo cao hơn tầm nhìn một chút, nên cho dù không muốn nhìn chúng, chúng cũng cứ lọt vào tầm mắt, mà đã trông thấy thì không thể không kinh hãi và thán phục trước kỹ thuật điêu khắc của người xưa, đồng thời cũng không sao kìm nén được một câu hỏi dâng lên tự trong lòng: “Hình người nhắm mắt này, hình như mình đã thấy ở đâu rồi nhỉ.”
Còn nếu nghiêng đầu sang bên phải, tựa như trông thấy có một bóng đen ẩn bên trong mặt lõm, cái bóng ấy hình như đã gặp ở đâu rồi.
Xung quanh các bức điêu khắc là các ký hiệu tiếng Tạng cổ, ghép lại thành một đường riềm hoa văn, tựa như dây leo quấn chằng chịt vào nhau. Lúc nhìn thấy những ký hiệu ấy, pháp sư Á La thoáng ngẩn người, ý nghĩa của dòng chữ là: “Tìm thấy bản thân ngươi!” Những ký hiệu này không ngờ lại là một câu kệ cực kỳ thâm ảo như trong kinh Phật, bấy giờ khi nhìn lại những hình khắc lồi lõm trên mép cửa, ông lập tức lại có giác ngộ mới.
“Các vị tiên hiền thời xưa, rốt cuộc muốn nói gì với chúng ta vậy?” pháp sư Á La chăm chú nhìn những người trưởng thành trong tư thế thai nhi hiện lên trước mắt mình, đột nhiên lờ mờ cảm ngộ được gì đó, phảng phất như có vị trí giả nào đang quát lên: “Cởi bỏ y phục ra!”
Nội tâm Lữ Cánh Nam đã dần bình lặng lại. Nhìn những hàng điêu khắc chỉnh tề hai bên vách, cô cảm giác như mình đang xuyên qua đường hầm thời không, bất luận là bi hay hỉ, rốt cuộc rồi cũng trở về với hư vô mà thôi. Cô có hận Mẫn Mẫn không? Hay là nên hận chính bản thân mình? Những điều ấy không quan trọng nữa, nhìn những người này, cô chợt nhận ra, tất cả mọi người đều đến như thế, có lẽ cũng sẽ đều ra đi theo cùng một cách như thế. Cuộc đời con người, trải qua thế nào thì không hối hận? Đó là khi chình mình cho rằng mình đã làm hết mọi điều nên làm, không tiếc nuối, hỉ nộ ai lạc, tự nhiên nhi nhiên.
Còn đám lính đánh thuê thì cảm thấy giống như đi vào một hành lang chật hẹp của phòng thí nghiệm, những bức điêu khắc giống hệt như thật, hết sức sinh động, như thể hai bên xếp kín những bình thủy tinh chứa đầy dịch thể bảo quản, ngâm toàn xác người. Tuy những hình người đều nhắm nghiền mắt, song lại giống như có thể mở trừng mắt với chúng bất cứ lúc nào vậy. Tại sao lại phải sợ những bức tượng ấy mở mắt ra chứ? À, nhớ ra rồi, những kẻ này hình như đều chết dưới tay ta! Đúng! Chính là thằng đó, còn cả tên kia nữa! Đúng là ánh mắt tuyệt vọng trước lúc chết của chúng! Tại sao lại xuất hiện ở nơi này?
“Tập trung tinh thần!” Nhìn vào gáy người đi trước! Đừng để những bức điêu khắc ấy mê hoặc!” Dường như nhận được chỉ thị nào đó, Khafu đột nhiên hét lớn, lòng đường hầm tức khắc tràn ngập tiếng vọng, quả nhiên đã có hiệu quả tức thời.
Chỉ mình người trẻ tuổi kia vẫn hờ hững nhìn các bức điêu khắc hai bên vách: “Hừ, tìm thấy bản thân ngươi! Đó chỉ là việc của lũ phàm tục, liên can gì đến ta? Các ngươi định dùng muôn vạn bộ mặt này mê hoặc người ta sao? Có bao nhiêu người thực sự nhận thức được như mình chứ? Cánh cửa chúng sinh, chẳng qua cũng chỉ có vậy mà thôi.”
Lữ Cánh nam thì thầm hỏi pháp sư Á La đi phía trước cô: “Cánh cửa này đúng là dùng máu có thể mở ra được sao?” Lực co giãn của huyết trì như thế nào bọn họ chưa từng được chứng kiến, có điều nhìn không dưới một trăm cánh cửa ken két sát thành hàng trước mắt đây, chỉ sợ rút hết máu của tên trẻ tuổi ấy cũng không đủ tạo ra lực lớn đến vậy.
Pháp sư Á La chầm chậm nói: “Không, máu của y chỉ để mở ra một cửa chặn nhỏ, giống như kéo cầu dao diện của nhà máy vậy, những cánh cửa này được mở ta bằng một nguồn lực khác mạnh hơn nhiều.” Bọn họ chưa trông thấy Merkin dùng một con mắt bạc nhỏ bé khởi động toàn bộ cơ quan trong Đảo Huyền Không tự như thế nào, vì vậy không thể biết được sự thần bí mà phức tạp của những cơ quan này.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.