Mật Mã Tây Tạng

CHƯƠNG 34: GẶP LẠI NHẠC DƯƠNG



Vượt qua khu vực sương mù, Soares mới phát hiện ra mình đang lơ lửng phía trên mặt biển, cách tầng bình đài thứ hai một khoảng rất xa. Bấy giờ, y mới hiểu, Tu Di giới này là một hình nón úp ngược, giờ có muốn lợi dụng dù lượn động lực cũng không được nữa rồi, y đành cố gắng khống chế phương hướng, lướt về phía đường bờ biển của tầng bình đài thứ nhất.
Trước khi tiếp đất, Soares bất ngờ khóa chặt một mục tiêu phía dưới, một con thuyền ba lá, phải chăng là thuyền của bọn Trác Mộc Cường Ba? Không đúng, y còn nhớ Trác Mộc Cường Ba kể, con thuyền của bọn gã sau khi đến nơi này đã bị phá hủy rồi, đây có thể là thuyền của ai chứ?
Soares hiểu rõ, nếu trên thuyền có người, mình lại từ trên trời nhảy dù xuống, trông cực kỳ nổi bật, chắc chắn đã bị đối phương trông thấy, bèn quyết định điều chỉnh dù đáp xuống gần con thuyền nhỏ ấy luôn.
Y vừa tiếp đất, liền nghe có người hỏi bằng tiếng Anh: “Ngươi là ai? Ở đâu đến?”
Soares ngoảnh đầu, trông thấy một lão già mặt đầy nếp nhăn, mái tóc hoa râm, nhưng tinh thần hãy còn quắc thước, có lẽ là một người gốc châu Á. Mức độ kinh ngạc của Soares hiển nhiên cũng không kém lão già ấy, y vốn nghĩ nơi này là vùng đất cách biệt thế gian, rồi lại nghe Trác Mộc Cường Ba kể, vượt qua biển ngầm đến đây càng gian nan nguy hiểm vạn phần. Tại sao ở đây lại có một lão già ở tuổi này, lão ta cũng vượt qua biển ngầm tới nơi này ư? Nhìn thần thái và giọng tiếng Anh của lão, hiển nhiên đối phương cũng giống như y, là người ở bên ngoài đến. Sao lão ta có thể làm được? Gượm đã, lão già này, dường như cũng hơi quen mặt thì phải!
Lão già thấy Soares chau mày không đáp, hiển nhiên là hiểu những được những gì mình nói mà không trả lời, bất thình lình nhún người lao lên, lướt qua đầu Soares, đồng thời rải xuống một nắm gì đó. Soares giật bắn mình, lão già này phỏng chừng còn cao tuổi hơn cả y, không ngờ thân thủ cũng linh hoạt hơn một bậc. Y vội ngã người lăn một vòng, tránh khỏi thế công của đối phương, đồng thời cũng sực nhớ ra, lớn tiếng gọi: “Ông Sasaki!”
Lão già quay đầu lại, gương mặt lộ vẻ nghi hoặc, bây giờ mới mở miệng nói bằng tiếng Nhật: “Anh là…”
Soares đáp: “Tôi ở tổ T, Soares Kahn, chúng ta từng gặp nhau một lần, trong lần hành động liên hợp ở Ai Cập’’ Vẻ mặt Soares trở nên cung kính, Sasaki là tổng chỉ huy của hành động lần đó, nghe nói, sự lý giải và lĩnh ngộ đối với thực vật của lão già diện mạo bình thường này đã đạt đến trình độ đại sư, thực rất đáng kính trọng.
Lão già cũng nhớ ra, gương mặt nhăn nheo nở nụ cười hòa nhã: “Soares phải không, thật không ngờ lại gặp anh ở nơi này, à, đúng rồi, anh… mau lên, lập tức làm theo tôi” Sasaki lấy tay bịt chặt mũi rồi đột nhiên thả ra, thở phụt ra ngoài kiểu như đang xì cục đờm trong khoang mũi, phát ra những tiếng ‘’khẹt khẹt’’
Soares không hiểu gì, nhưng vẫn làm theo động tác ấy, đến lần thứ ba liền phát hiện thứ gì đó bắn ra lòng bàn tay, xòe ra xem thử thì thấy đó là một thứ có hai cánh mỏng mỏng như chiếc lá, to cỡ chừng hạt gạo, bên trên còn dính tơ màu, hiển nhiên là ở trong khoang mũi mình phọt ra.
Sasaki vỗ vỗ lên vai Soares, nói: “Được rồi, giờ thì ổn rồi, vừa nãy không biết là địch hay là bạn, mới dùng một chút hạt giống Đại Hồng Liên.”
Soares không khỏi biến sắc, y từng nghe nói đến thứ Đại Hồng Liên này, tương truyền đó là một loại thực vật có thể trồng trong cơ thể người, hút sạch chất dinh dưỡng từ trong máu, sinh trưởng dọc theo mạch máu và xương tủy, cuối cùng sẽ phá vỡ đầu nạn nhân chui ra ngoài, khai hoa kết quả, có thể biến một người thành một cái cây.
Sasaki lại hỏi: “Sao anh lại có thể ở đây? Sao lại…” Ông ta chỉ tay vào thân thể trần truồng của Soares.
Soares cười khổ một tiếng, kể vắn tắt một lượt chuyện Merkin mời mình gia nhập, cuối cùng lại đuổi mình như thế nào, Sasaki cười cười, rồi nói: “Cáo lửa à, tôi cũng khá có ấn tượng với con người này.”
Soares hỏi: “Ông Sasaki, tại sao ông lại đến nơi này? Ông cũng đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu sao?”
Sasaki nói: “Bạc Ba La thần miếu? Tôi chưa từng nghe nói đến, tôi tới đây chỉ để thu thập hạt giống của một số loài thôi. Nơi này có một số thực vật nguyên sinh chỉ có thể sinh trưởng ở đây, gieo trồng ở môi trường bên ngoài rất khó thành công. Lần trước tôi đến đây, hình như cũng được mười năm rồi. Tôi đã dùng phương pháp biến đổi gene gây trồng một ruộng thực vập tạp giao trong khu rừng ở trước mặt, lần này đến đây là để thu hoạch.” Soares ngẩn người, mười năm trước đã đến đây rồi ư? Y không khỏi cảm thán, vùng đất mà đám người bọn y tốn bao nhiêu công sức trải qua bao nhiêu gian khổ mới đến được, đối với những kẻ có thực lực cao cường như lão già trước mắt này chẳng khác nào như cơm bữa, muốn đến thì đến, muốn đi thì đi. Đây mới gọi là khoảng cách về thực lực chứ.
Dường như đọc được suy nghĩ của Soares, Sasaki cười cười nói: “Đương nhiên, nơi này cũng không phải nói đến là được, đoạn đường sông ngầm không có lấy một chút ánh sáng ấy đã mấy lần khiến tôi sém chút nữa là toi mạng. Lần này đến đây, tôi đã cảm thấy lực bất tòng tâm rồi, sợ rằng khó lòng có lần sau lắm.”
Sasaki vừa nói, vừa dẫn Soares đi tới chỗ ông ta neo thuyền.
“Vậy, ông có muốn đến Bạc Ba La thần miếu xem thử không?” Soares dò thử hỏi.
Sasaki cười cười đáp: “Tôi đến đó làm gì chứ? Tôi là một ông già, người cao tuổi rồi, không nên làm mấy việc leo trèo nguy hiểm như thế, anh không biết sao? Vả lại, tôi chẳng hứng thú gì với cái thần miếu mà anh nói đến cả, tôi chỉ tới đây xem các loại cây cối thôi, giống như anh thích thú với đám động vật vậy. Mỗi loài thực vật ở đây đều khiến tôi vô cùng hoan hỉ. Thêm nữa, riêng vùng ven biển này thôi đã rộng lớn lắm rồi, sợ rằng tôi cũng khó tìm hiểu hết được các chủng loài thực vật ở đây. Con người không nên tham lam quá, cứ làm tốt công việc mình cần phải làm trước đi đã.’’
Nói đoạn, hai người đã đi tới bên cạnh con thuyền ba lá, Sasaki nhiệt tình bảo Soares: “Anh là người khách thứ hai của tôi đấy.”
“Ông còn một người khách nữa?” Soares kinh ngạc hỏi.
“Đúng vậy, mấy ngày trước khi tôi vừa đến đây, một quả bóng lớn từ trên trời rơi xuống, đập mạnh xuống mặt nước, suýt nữa làm lật cả thuyền.” Sasaki nói, “Anh bạn trẻ này trông cũng khá phết, có phải đến cùng với các anh không?”
Soares nhìn gương mặt thanh tú điển trai nằm trong con thuyền nhỏ, lúc này, y đã không còn căm hận gương mặt ấy nữa, mà chỉ cảm thấy vừa tức vừa buồn cười, lòng thầm tự giễu: “Có lẽ, đây chính là vận mệnh mà người Trung Quốc các cậu vẫn hay nói.”. Nghĩ đoạn, Soares ngoảnh sang phía Sasaki nói: “Là… bạn. Chúng tôi cứ tưởng cậu ta ngã từ trên cao xuống, đã hy sinh rồi, giờ cậu ta thế nào.”
Sasaki đáp: “Rơi từ độ cao đó xuống, tuy túi khí cứu sinh đã ngăn lại hầu hết xung kích, nhưng phần đầu cậu ta vẫn bị chấn động, nghiêm trọng. Mấy ngày nay, tôi đã dùng một số thực vật có tác dụng an thần để điều dưỡng cho cậu ta, song mãi vẫn chưa thấy tỉnh lại. Anh chàng này có vẻ nhanh nhẹn đáng yêu, tôi có một thằng cháu nội, chắc cũng tầm tuổi cậu ta. Anh biết đấy, ở nơi này chẳng có gì đáng sợ cả, chỉ sợ cô đơn. Một người dập đềnh nổi trôi trên vùng nước đen tối mịt đó mấy tháng ròng, điều khó chịu nhất chính là cảm giác cô tịch. Có người bên cạnh nói chuyện, mặc dù cậu ta không thể trả lời, song như vậy cũng là tốt lắm rồi. À, gần đây tôi cũng bắt đầu ít nói hẳn đi, không biết có phải là triệu chứng của tuổi già không nữa.’’
“Phiêu bạt mấy tháng trời!” Soares hít sâu một hơi khí lạnh, tuy Trác Mộc Cường Ba chỉ kể qua loa hành trình trên dòng sông ngầm của bọn gã, nhưng y cũng cảm nhận được tình cảnh hiểm nguy chừng như bất cứ lúc nào cũng phải giáp mặt với tử thần ấy. Vậy mà, ông già này phiêu bạt trên dòng sông đen tối đó mấy tháng ròng. Ngay sau đó, y liền hiểu ra, đúng vậy, ông già này không hề có bản đồ gì cả, ông chỉ xuôi theo dòng nước mà tiến tới, khống chế hướng đi của thuyền khi nước triều dâng lên, đi kiểu như vậy, đương nhiên là phải mất mấy tháng rồi!
Sasaki lại nói: “Anh đã đến đây rồi thì ở lại với tôi một thời gian nữa đi, chúng ta có thể đi xa hơn một chút, quan sát và thu thập thêm mấy loài thực vật, rồi cùng trở về.”
Soares gật đầu, rồi nhìn lại Nhạc Dương đang say ngủ, nhếch miệng mỉm cười.
Không biết ngủ được bao lâu, Merkin mới từ từ tỉnh giấc. Còn Trác Mộc Cường Ba, vì có tâm sự trong lòng nên chỉ ngủ một lúc đã tỉnh. Hai người hợp lực chuyển động mấy chục khối lập phương, mở cánh cửa hình hoa sen ra, kế đó, họ đi qua Tỳ Na Dạ Ca điện, Chuyển Kim Diệu điện, Ô Ba Na Nam Đà Vương điện, Ma Hầu La Gia điện… đến Uông Ba Li điện, Gia Du Đà La điện, Bảo Chàng điện… cũng không biết đã vòng vèo ở trong mất bao lâu, tóm lại là họ vẫn có thức ăn và nước uống, đồng thời đi qua những cung điện khiến người ta phải trầm trồ thán phục và những cơ quan cạm bẫy khó bề tưởng tượng nổi.
Nhóm người của pháp sư Á La thì đi từ Vạn Phật các tới A Nhĩ Đa điện, Nhã Gia điện, Nhật Diệu điện, Khẩn Na điện… đến Giáng Tam Thế Phẫn Nộ Minh Vương điện, Hư Không Tàng điện, Bất Không Thành Tựu Điện…
Có người trẻ tuổi dẫn đường, số lượng cơ quan cạm bẫy họ gặp phải dọc đường ít hơn hai người bọn Trác Mộc Cường Ba rất nhiều, nên có thể tập trung nhiều tinh lực hơn vào các món đồ thờ cúng. Sau một thời gian, đến cả bọn lính dánh thuê kia cũng bắt đầu kén chọn, không phải tinh phẩm thì không thèm đụng tay mó chân đến, những món vàng bạc binh thường mà chúng tranh nhau vét đầy trong ba lô kia sớm đã bị vứt hết đi đâu không biết. Dọc dường, câu bọn chúng hỏi nhiều nhất chính là tòa thần miếu này rốt cuộc lớn chừng nào. Người trẻ tuổi đã trả lời rằng: “Nếu không có cơ quan cạm bẫy và mê cung, mà chúng mày cũng không cần để ý đến mấy thứ đó, chúng ta đi kiểu cưỡi ngựa xem hoa thế này, chưa đến một tháng, chúng ta sẽ tham quan hết các gian đại điện ở tầng ngoài cùng thần miếu.”
Nghe y trả lời như vậy, cả bọn về cơ bản đã nắm được quy mô của Bạc Ba La thần miếu; pháp sư Á Lá thầm tính toán, những ngày này bọn họ tổng cộng đã đi qua một trăm tám mươi gian đại điện. Tuyến đường người trẻ tuổi dẫn họ đi chắc hẳn là tuyến đường an toàn và ngắn nhất, bởi vậy, có thể khẳng định, bọn họ mới chỉ đi qua một phần nhỏ của thần miếu mà thôi. Những nơi họ đi qua, cả thảy đều nguy nga đẹp đẽ, điện đường hoa lệ, thiết kế xảo diệu, cơ quan phức tạp khôn cùng, dùng ngôn ngữ để biểu đạt lại quả thực không thể hình dung được đến một phần vạn.
Lại một ngày nữa trôi qua, người trẻ tuổi dẫn đội ngũ lính đánh thuê đi qua cánh tay dang rộng của Ma Kha Bát La Để Tát La Bồ Tát, nghe thấy tiếng ầm ầm ở phía trước tựa như một nhà máy đang hoạt động hết công suất, y liền lộ vẻ mừng rỡ. “Sắp đến trung tâm của thần miếu rồi.”
Cả bọn theo y đi hết con đường nhỏ tối tăm u ám, khoảng không trước mắt bỗng rộng mở. Mọi người đều biết, họ lại đặt chân vào đại điện tiếp theo rồi. Có người thở dài một tiếng: “Lại là mê cung…”
Phía trước là một không gian rộng lớn thông thoáng, đặc biệt, trong gian đại điện này không có tượng Phật nào cả, thay vào đó là vô số tấm ván treo. Những tấm ván treo rộng chừng năm mét, dài năm sáu mươi mét gì ấy, bốn góc đều được treo bằng dây kim loại chống gỉ to ngang cổ tay người lớn, đầu kia của dây kim loại buộc vào một thanh treo không ngừng nghịch chuyển qua lại, những tấm ván cũng liên tục thay đổi vị trí và phương hướng. Thoạt nhìn qua, đại diện này rất giống một bến cảng tập kết container nhộn nhịp chuyển hàng qua lại.
Người trẻ tuổi dẫn đầu bước lên một tấm ván treo, rồi lại nhảy sang một tấm khác. Vì thời gian các tấm ván giao nhau rất ngắn, lần nào cả bọn cũng phải đợi một lúc lâu mới lên được hết một tấm ván. Sau khoảng mười mấy lần như vậy, bọn họ đến được một bình đài treo lơ lửng trên không.
Người trẻ tuổi đưa mắt nhìn quanh, rồi gọi Khafu đến bên cạnh: “Khafu, nơi này dễ thủ khó công, mày dẫn theo một nhóm canh gác ở đây. Tao sẽ để lại một số ký hiệu trên tấm ván treo, nếu sau hai mươi tư tiếng đồng hồ sau mà bọn chúng chưa đến, mày hãy đi theo tìm bọn tao.’’
“Có cần giết chúng không?” Khafu hỏi.
Người trẻ tuổi lắc đầu: “Không, tao muốn mày cầm chân chúng, hai mươi tư tiếng, làm được không?”
Khafu nhe răng cười: “Ngài Thomas, ngài coi thường tôi quá rồi đấy.”
Người trẻ tuổi nắm tay Khafu: “Tự tin là tốt, nhưng đừng tự kiêu.”
Nói xong, y dẫn đám còn lại bước trên tấm ván treo đang chuyển sang một hướng khác, lại một tấm ván khác dịch chuyển tới trước mặt. Khafu ra lệnh: “Luc, Hughes, chúng mày lên đi, chiếm lĩnh cao điểm góc phía Nam. Pru, Chek, tao muốn chúng mày leo lên thanh ngang kia, làm được không? Anton…”
Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La đi theo người trẻ tuổi bước từ tám ván treo này sang tấm ván treo khác, chỉ thấy khắp bốn phương tám hướng đều là lối ra, cấu trúc hoàn toàn không giống những gian Phật điện trước đó. Hai người thầm thấy làm lạ. Người trẻ tuổi nhìn thấu được ý nghĩ của họ, liền cười khẩy châm chọc: “Khu vực trung tâm này không giống với kiến trúc Mật tông mà các người tưởng tượng, phải không?”
Lữ Cánh Nam thắc mắc: “Sao lại như thế này?”
Người trẻ tuổi liền đáp: “Toàn bộ Bạc Ba La thần miếu này có nhiều cơ quan như vậy, nhờ đâu mà chúng có thể hoạt động được?” Y ngừng lại một chút, rồi tiếp lời: “Cả một công trình lớn như vậy, mọi cơ quan cạm bẫy đều được kết nối với nhau. Kỳ thực, các người có thể coi nó như một cỗ máy khổng lồ, muốn cho nó hoạt động nhất thiết phải có một nguồn năng lượng lớn vô cùng. Khu vực trung tâm này chính là phân xưởng cung cấp động lực cho cỗ máy ấy. Nơi chúng ta đang đứng đây có thể xem là trạm trung chuyển, những thanh treo này đưa những người thợ đến những nơi khác nhau. Đối với chúng ta, những thanh treo chuyển qua dịch lại này chẳng khác nào mê cung, nhưng trong mắt những người thợ đã quen thuộc đường đi lối lại, chúng lại chính là con đường ngắn nhất, tiện lợi nhất.”
Di chuyển qua mấy tấm ván treo nữa, người trẻ tuổi rốt cuộc cũng dẫn bọn họ đi vào một đường hầm. Sau khi ra khỏi đường hầm ấy, tất cả lại lại được một phen ngẩn người ra.
Phía trước xuất hiện một hố sâu hình tròn, giống như một tháp ống khói khổng lồ. Bọn họ đứng bên mép ống khói, có đường dốc thoai thoải hình xoáy trôn ốc đi xuống. Dưới đáy ống khói là một lò lửa, không khí nóng hừng hực lan tỏa trong ống khói. Đứng bên mép đường dốc nhìn xuống, có thể thấy rõ dòng nham tương màu vàng đỏ cuồn cuộn sôi trào. Khó tin nhất là, ở phía ngoài đường dốc là những cánh tay kim loại sừng sững chỉnh tề. Những cánh tay kim loại ấy đang vận động theo một quy luật dưới tác dộng của một nguồn lực nào đó, ngoài ra còn có vô số cánh tay nhỏ đang đưa qua đưa lại, động năng khổng lồ này chính là nhờ những cánh tay máy này mà được truyền đến từng ngóc ngách của Bạc Ba La thần miếu.
Mỗi người đều cảm nhận được, nơi này không phải điện đường thờ cúng, mà là một công xưởng, một công xưởng khổng lồ chưa từng có trong lịch sử. Giọng nói người trẻ tuổi toát lên một vẻ kính nể: “Kinh hãi lắm phải không! Đây chính là trung tâm thần miếu, một động cơ vĩnh cửu!” Thấy cả bọn đều há hốc miệng, nét mặt y thoáng hiện lên một nụ cười khinh khỉnh.
“Không thể nào!” Lữ Cánh Nam lập tức phản bác: “Khoa học đã chứng minh, động cơ vĩnh cửu không thể nào tồn tại được!”
“Vậy phải xem định nghĩa động cơ vĩnh cửu là thế nào đã,” người trẻ tuổi thong dong giải thích: “máy móc có thể vận hành vĩnh viễn không ngừng, điều đó là không thể, nhưng đối với sinh mạng hữu hạn của nhân loại, bao nhiêu lâu đã có thể xem là vĩnh viễn rồi? Mười vạn năm, mười vạn năm đã đủ chưa? Toàn bộ lịch sử văn minh nhân loại, kể cả văn minh tiền sử, cũng chưa đến một vạn năm. Đám nhà khoa học kia không phải muốn chế tạo động cơ vĩnh cửu, mà muốn chế tạo một cái máy có thể sinh ra năng lượng từ hư vô, đi ngược lại định luật bảo toàn năng lượng. Một cỗ máy như thế, đương nhiên không thể có trong hiện thực. Trên thực tế, mấu chốt của việc chế tạo động cơ vĩnh cửu không nằm ở chỗ máy móc phức tạp thế nào, mà là có thể cung cấp cho nó một nguồn năng lượng vĩnh cửu hay không.”
Người trẻ tuổi dang rộng cánh tay, lớn tiếng nói như thể một giáo sư đang truyền đạo: “Thử nghĩ mà xem, tiền nhân của các người, tổ tiên của các người, từ thuở mình mới ra đời, đã học được cách lợi dụng những nguồn động năng vĩnh cửu rồi. Nước sông cuồn cuộn, trăm năm mới thay dòng, gió núi lồng lộng, vòng qua vòng lại, thứ bọn họ thiếu, chỉ là những linh kiện có thể chịu được sự ăn mòn thời gian mà thôi. Năng lượng thủy triều, một vạn năm không thay đổi, vậy có thể coi là năng lượng vĩnh cửu không? Năng lượng mặt trời, chiếu sang bốn tỷ năm, vậy có coi là lâu không? Chỉ cần lợi dụng những nguồn năng lượng đó làm nguyên động lực, về lí thuyết, khiến một cỗ máy hoạt động vĩnh viễn là điều hoàn toàn có thể.”
Người trẻ tuổi hơi nghiêng người ra phía trước, chỉ những máy móc đang hoạt động ầm ầm bên dưới: “Bánh răng, ròng rọc, ổ trục, đòn bẩy, những thứ này đã được người xưa phát minh ra từ rất sớm rồi, cho đến ngày nay, các máy móc hiện đại vẫn sử dụng những thứ ấy. Máy móc sở dĩ không thể duy trì hoạt động được lâu dài, vấn đề mấu chốt là do các linh kiện phụ bị tiêu hao trong quá trình sử dụng. Nếu nói có một cỗ máy, có thể tự động thay mới và tu sửa những phụ kiện bị hao mòn, đồng thời sử dụng một nguồn động năng vĩnh cữu, vậy thì, tại sao không thể gọi nó là động cơ vĩnh cửu chứ?”
Pháp sư Á La nhìn ngọn lửa bên dưới, ngần ngừ nói: “Ý anh là… nó luôn hoạt động? Không phải lúc mở cửa mới hoạt động cơ quan à?”
“Mở cửa, chẳng qua chỉ khởi động hệ thống phòng ngự của nó mà thôi. Trên thực tế, nó vẫn luôn hoạt động cả ngìn năm nay, nếu không phải vậy ông cho rằng sương mù bao phủ mấy trăm cây số vuông quanh khu vực này là từ đâu ra? Những con người thông minh ấy đã hàng phục núi lửa, lợi dụng trung tâm núi lửa làm nguồn năng lượng, chế tạo ra một chiếc máy điều hòa nhiệt độ có thể ảnh hưởng đến khí hậu của một khu vực rộng lớn mấy trăm cây số. Đồng thời, cũng triệt để ẩn giấu vùng đất tựa như chốn Đào Nguyên thế ngoại này. Các người đừng quên, đây là công nghệ thời Đường. Công nghệ ấy đã siêu việt thời đại, thậm chí, có rất nhiều nguyên lí khoa học của thời đó đủ khiến các nhà khoa học hiện đại cũng phải thở dài ngao ngán. Nhưng sự thực là, những điều này, người xưa cũng chỉ học được từ thiên nhiên mà thôi. Trên thế gian, từ lâu lắm đã có động cơ vĩnh cửu rồi, vả lại, những động cơ vĩnh cửu ấy còn ở khắp mọi nơi nữa, các người có biết đó là gì không?”
Lữ Cánh Nam trầm ngâm suy nghĩ, rồi sực ngộ ra: ”Là con người!”
Người trẻ tuổi cười cười, rồi gật đầu nói: “Là sinh mệnh, trên thế giới này, bất kể là động thực vật hay sinh vật nguyên sinh, cũng đều có một đặc điểm chung. Đó là, bọn chúng có phương thức tuần hoàn trao đổi năng lượng, có phương thức sinh sản tiếp diễn riêng. Quá trình sinh trưởng, phát dục của chúng, đều có thể coi là một loại vận động. Vả lại các cá thể đời con đều có thể sao chép lại một cách hoàn mĩ những đặc trưng của đời cha, đồng thời tiến hóa lại khiến chúng có thể loại bỏ những gì không tốt, và chỉ để lại những cá thể thích hợp tồn tại với thế giới này. Đó không phải là động cơ vĩnh cửu thì là gì chứ? Con người tại sao lại phải chế tạo ra máy móc? Không phải là để bổ sung cho sự thiếu sót của thân thể hay sao? Mà máy móc được chế tạo căn cứ vào đâu chứ? Há chẳng phải là căn cứ vào những cá thể sống khác nhau đang không ngừng tiến hóa biến đổi trên thế gian này sao?”

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.