Mật Mã Tây Tạng

CHƯƠNG 14: GẶP LẠI NHÉ, TRƯƠNG LẬP



Giọng Nhạc Dương nhỏ dần nhỏ dần, lúc này anh mới nhớ lại lời Địch ô An Cát Mẫu từng nói: “Đối với kẻ địch, ông ta chính là ma quỷ, nhưng đối với dân chúng Langbu chúng tôi, ông ấy lại như thiên thần hộ mệnh vậy.” Trong lòng anh đang bi phẫn gào lên: “Tại sao? Tại sao chúng ta lại gặp phải một kẻ đáng sợ như tên Quách Nhật Niệm Thanh đó? Lẽ nào số phận đã định sẵn rồi? Nếu Trương Lập không gặp Mã Cát… nếu pháp sư Tháp Tây không phải Đại Địch ô của Yaca…”
Lúc này, lại nghe pháp sư Tháp Tây nói tiếp: “Nghĩ kỹ lại đi, dù chúng ta giết chết Quách Nhật Niệm Thanh, thử hỏi có chứng minh được điều gì chứ? Chính nghĩa nhất định chiến thắng tà ác sao? Giải phóng cho dân chúng Tước Mẫu sao? Họ đã sinh sống ở đây hơn một nghìn năm, nếu không có sự xâm nhập của văn minh ngoại lai, họ sẽ vẫn tiếp tục sống như vậy, rồi họ sẽ có Tước Mẫu vương mới. Chúng ta chẳng thể thay đổi được gì cả, ngược lại, sẽ chỉ càng mất mát và tổn thất nhiều hơn. Đi đi, đến tầng bình đài thứ ba, nơi ấy mới là mục tiêu và hy vọng của chúng ta. Mau lên, Khước Ba Ca Nhiệt đã đến rồi, có người sẽ mang tình hình ở đây báo với Quách Nhật Niệm Thanh, chậm một bước là không kịp nữa đâu…”
Nhìn ánh mắt hừng hực của pháp sư Tháp Tây, Trác Mộc Cường Ba suy đi tính lại, cuối cùng cũng gật đầu nói: “Tôi biết rồi, pháp sư.”
Pháp sư Tháp Tây hài lòng gật nhẹ đầu, rồi từ từ nhắm mắt lại, miệng lẩm nhẩm niệm một bài kệ: “Mọi thứ ở trên đời, như bọt bóng mộng mơ, như sương rơi điện chớp, hãy suy ngẫm lại coi.”[12] Âm thanh trầm thấp khó nghe, đột nhiên mỗi người trong phòng đều dâng lên một cảm giác kỳ dị, tựa hồ như có mối liên hệ nào đó vừa bị cắt đứt từ đây.
Pháp sư Á La chắp tay trước ngực, cúi mình thật sâu vái một vái, đoạn nói: “Đắm mình trong giấc tử sinh, kiếp này chẳng biết bao giờ mới ra.[13] Pháp sư Tháp Tây đã tự đoạn tâm mạch, lìa xa chúng ta rồi.”
Ai nấy thảy đều kinh hãi, nhưng ngay sau đó lại nhìn thấy dáng ngồi bình thản của pháp sư Tháp Tây, cơn sóng trong lòng dần dần lắng xuống, đột nhiên phía sau có người cất tiếng: “Mọi người… a!”
Trác Mộc Cường Ba quay đầu, trông thấy Mẫn Mẫn hai mắt đỏ lựng, liền hỏi: “Sao vậy em?”
Mẫn Mẫn nói: “Mau đến xem Trương Lập đi… cậu ấy, hình như không ổn rồi…” “Không!” Nhạc Dương lao vút ra như một cơn gió.
Trác Mộc Cường Ba thu dọn lại y áo của pháp sư Tháp Tây, rồi bước ra khỏi gian phòng ấy sau cùng, chợt thấy một cơn gió lạnh ùa về, ngẩng đầu nhìn lên, bầu trời đêm tăm tối không trăng không sao, bốn bề tĩnh mịch như tờ, vạn vật không cất tiếng, chỉ có một đốm lửa bùng lên ở phía xa xa. Phải rồi, Mã Cát đã đốt lửa ở cái vạc lớn đó lên, ngọn lửa bập bùng, tựa một tinh linh của đêm tối đang nhảy một vũ điệu bi thương mà đơn độc.
Sau khi dặn dò Mẫn Mẫn trông chừng Ba Tang, gã cùng Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La đến gian phòng Trương Lập đang nằm, chỉ thấy Nhạc Dương đang đứng bên cạnh anh, miệng lẩm nhẩm: “Mười bốn, mười năm… phù…”, rồi hít sâu một hơi, ngẩng đầu lên, hai tay chồng lên nhau đặt trên ngực Trương Lập, bắt đầu đếm: “Một, hai, ba….” Thì ra từ nãy giờ, anh vẫn xoa bóp ngoài lồng ngực cho Trương Lập.
Thấy bọn Trác Mộc Cường Ba bước vào, Nhạc Dương ngước mắt nhìn lên đầy kỳ vọng, miệng nhoẻn cười nói: “Cường Ba thiếu gia, giáo quan, Trương Lập vẫn chưa chết, anh ấy vẫn còn thở.” Miệng nói, nhưng tay anh vẫn không hề ngừng lại.
Cánh tay Trác Mộc Cường Ba run lên, một cảm giác đau buốt từ ngón vô danh chạy thẳng đến tận sâu trong tim gã. Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La tách ra bước đến nắm lấy tay trái và tay phải của Trương Lập, nhìn vẻ mặt của họ, rõ ràng Trương Lập đã ngưng thở, chỉ là Nhạc Dương vẫn không chịu thừa nhận, không chịu bỏ cuộc mà thôi. Không khí trong cả gian phòng tựa hồ nặng trĩu, cơn gió lành lạnh nhẹ nhàng phất lên cơ thể mỗi người, trong không gian chỉ còn lại tiếng thở gấp gáp nặng nề của Nhạc Dương: “Một, hai, ba, bốn… ha… hu…”
Màu của đêm đen từ đậm đặc chuyển sang nhạt dần, Nhạc Dương cứ lặp đi lặp lại một cách máy móc những động tác ấy, Trương Lập vẫn lặng lẽ nằm yên, không khí trong phòng đặc quánh, Trác Mộc Cường Ba cũng cảm thấy mình sắp tắc thở đến nơi. Lúc này, cửa phòng bật mở, Mẫn Mẫn kinh hoảng chạy vào: “Anh Cường Ba, anh Ba Tang, anh Ba Tang…”
Trác Mộc Cường Ba giật bắn mình: “Ba Tang sao rồi? Anh ấy xảy ra chuyện gì hả?”
Mẫn Mẫn thở gấp nói: “Anh Ba Tang, anh ấy chạy mất rồi…, em, em… không ngăn kịp!” Thì ra, Ba Tang tỉnh lại, liền hỏi Mẫn Mẫn xem có chuyện gì xảy ra. Sau khi nghe cô kể rõ ngọn ngành, Ba Tang giận dữ vô cùng, liền xông ra đòi đi tìm Quách Nhật Niệm Thanh liều mạng. Mẫn Mẫn muốn ngăn cản, nhưng làm sao giữ nổi, cô liền vội vàng chạy đi báo cho Trác Mộc Cường Ba.
Tuy rằng Ba Tang tinh thông kỹ thuật giết người, nhưng bọn họ đã hết sạch đạn dược, nếu phải đối mặt với đội quân phòng ngự nghiêm mật của Quách Nhật Niệm Thanh, kiến nhiều còn cắn chết voi, dù là pháp sư Á La đến Tước Mẫu cũng phải dè dặt từng bước một, phen này Ba Tang đi tìm Quách Nhật Niệm Thanh báo thù, thử hỏi có khác nào đâm đầu vào chỗ chết không chứ? Với tốc độ của Ba Tang, muốn đuổi kịp anh ta sợ rằng rất khó, vả lại, còn Trương Lập ở đây thì tính sao? Trác Mộc Cường Ba muốn đưa ra quyết định, nhưng chỉ thấy các suy nghĩ trong đầu mình bùng nhùng trộn lẫn như một đống bột hồ, lại thấy ngâm ngẩm đau nhói lên.
Gã còn đang suy tính, chợt thấy Ba Tang quay về, mặt mũi và hai tay đẫm máu tươi, hai mắt đỏ rực, dưới ánh nến trông lại càng điên cuồng dễ sợ hơn bội phần, anh trầm giọng nói: “Có người thả chim ở đầu thôn, bị tôi bắt gặp, giết chết hai tên rồi. Còn một tên đã chạy mất, chim cũng bay mất rồi.”
Địch ô An Cát Mẫu cũng ở đâu chạy tới nói: “Các vị mau đi đi, nếu Quách Nhật Niệm Thanh đến đây thì không ai đi được đâu, sợ rằng còn liên lụy đến cả thôn Công Nhật Lạp này nữa đó.”
Trác Mộc Cường Ba lại ngẩn người ra, Lữ Cánh Nam vội lên tiếng nhắc nhở: “Đã đến lúc phải hạ quyết tâm rồi!”
Quách Nhật Niệm Thanh nhận được tin tức, nhất định sẽ dẫn quân vây công, chạy trốn hay đào tẩu, giờ phút này bọn gã cần phải có mục tiêu xác định. Ngoại trừ Nhạc Dương, ánh mắt của những người còn lại đều hướng về phía Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba nhớ lại lời pháp sư Tháp Tây nói trước lúc lâm chung, cuối cùng cũng quyết định: “Mọi người thu dọn hành trang, trước khi trời sáng chúng ta sẽ rời khỏi đây!”
Cơ hồ như đã ước định từ trước, cả bọn bước tới trước giường Trương Lập quây thành một vòng, cúi đầu lẩm nhẩm hoặc thầm nói với Trương Lập mấy câu, sau đó lần lượt bước ra ngoài. Trác Mộc Cường Ba là người cuối cùng, gã nói với Nhạc Dương: “Nhạc Dương, chúng ta phải đi rồi.”
Nhạc Dương vẫn nhìn Trác Mộc Cường Ba bằng ánh mắt đầy kỳ vọng ấy, nhoẻn miệng cười nói: “Cường Ba thiếu gia, anh ấy chưa chết, vẫn còn thở mà.”
Trác Mộc Cường Ba không dám nhìn thẳng vào mắt Nhạc Dương, chầm chậm bước ra cửa, nói: “Tôi sẽ thu dọn hành trang giúp cậu.”
Đột nhiên nghe Nhạc Dương phía sau gầm lên: “Cường Ba thiếu gia, đừng bỏ rơi Trương Lập mà!”
Trác Mộc Cường Ba tức thì cảm thấy tim mình co thắt lại, cổ họng mặn chát, gã cố đè nén xuống, nín chặt hơi thở, nhẫn nhịn không quay đầu lại, luồng oán khí từ từ tích tụ lại trên cánh tay. Thình lình, gã đấm mạnh một cú lên tường, cả gian phòng bằng đá khẽ rung lên một chặp.
Khi cả bọn đã thu dọn hành trang, quay lại gian phòng, Nhạc Dương vẫn không chịu bỏ cuộc, vẫn chuyên chú nhẩm đếm: “Mười một, mười hai, mười ba, mười bốn, mười lăm… hít… hà… hít… hà… hít… hà… một, hai, ba, bốn…”
Lữ Cánh Nam đang định bước lên ngăn Nhạc Dương lại, chợt cảm thấy ngoài cửa ùa vào một cơn gió nhẹ, mùi hương thoang thoảng trong không gian tựa như một dòng nước ấm, bao bọc lấy mỗi trái tim băng lạnh của họ. Ngoảnh đầu, cô liền thấy Mã Cát.
Mã Cát mặc đồ trắng, trông rất nhã nhặn, tóc dài phủ vai, đôi chân để trần, dáng vẻ nghiêm trang lạ thường. Tất cả mọi người có mặt tại đó đều sinh ra một ảo giác, tựa như Mã Cát không còn là tinh linh giữa chốn nhân gian này nữa, mà đã biến thành nữ thần trên trời, thân thể tắm trong một quầng sáng màu trắng sữa, trang nghiêm và bất khả xâm phạm. Họ đều tự giác lùi lại nhường lối cho cô. Mã Cát đến bên Nhạc Dương, chỉ một cái liếc nhìn, đã khiến Nhạc Dương dừng lại. Cô chầm chậm nói: “Để anh ấy cho em đi.”
Nhạc Dương hoảng hốt nói: “Mã Cát, Mã Cát, cô xem, cô xem, anh ấy vẫn còn thở, để tôi thử lại lần nữa, anh ấy có thể tỉnh lại mà.”
Đôi mắt Mã Cát vẫn bình tĩnh như thế, Nhạc Dương lại càng cuống hơn, chỉ nghe cô lặp lại: “Để anh ấy cho em đi.” Ngữ điệu nhẹ nhàng, song lại toát lên một thứ uy nghiêm không gì kháng cự nổi. Nhạc Dương không trả lời, Mã Cát vươn hai tay ra, ôm Trương Lập lên khỏi giường, xoay người, thân mình hơi trầm xuống, sém chút nữa đã gục xuống đất, nhưng cô vẫn nghiến răng, ôm chặt lấy Trương Lập, khó nhọc bước ra bên ngoài.
Nhạc Dương ngơ ngẩn nhìn theo: cô vươn tay ra, cô ôm lấy Trương Lập, cô xoay người, cô bước đi, cô ra khỏi cánh cửa ấy, bóng hình mỗi lúc một xa dần… anh phảng phất như trúng phải phép định thân, không chớp mắt, không hít thở, cứ ngây ngây ngốc ngốc đứng yên ở đó.
Lữ Cánh Nam bước lên, khẽ vuốt nhẹ lên đầu Nhạc Dương: “Nhạc Dương, cậu đã gắng hết sức rồi.”
Nhạc Dương mới như người vừa bừng tỉnh khỏi cơn mộng, khóc òa, bổ vào lòng Lữ Cánh Nam, thút thít như trẻ con: “Giáo quan, không phải đã nói là sẽ đồng sinh cộng tử hay sao, tại sao anh ấy lại rời bỏ chúng ta? Tại sao chứ…”
Lữ Cánh Nam ôm chặt đứa trẻ còn cao lớn hơn mình ấy, lần đầu tiên, khóe mắt cô rỉ ra một hàng lệ long lanh, Ba Tang cũng hơi ngoảnh đầu sang hướng khác.
Sáng sớm tờ mờ, thôn Công Nhật Lạp vẫn bao trùm trong màn đêm xám xịt, hai đống lửa cháy bừng bừng như điềm trời cảnh báo thế nhân, ngọn lửa điên cuồng nhảy múa. Trác Mộc Cường Ba, pháp sư Á La, Lữ Cánh Nam, Mẫn Mẫn, Nhạc Dương, Ba Tang sáu người xếp thành hàng ngang, đeo trên lưng những chiếc ba lô nặng nề, lặng lẽ chăm chú nhìn ngọn lửa hừng hực, phát ra những âm thanh lách tách.
Chúng tôi đi đây, Trương Lập…
Chúng tôi đi đây, pháp sư Tháp Tây…
Chúng tôi nhất định sẽ tìm được Bạc Ba La thần miếu, chúng tôi sẽ mang theo lời chúc phúc của hai người…
Căn nhà nhỏ đặt di thể của pháp sư Tháp Tây đã hoàn toàn bị ngọn lửa nhấn chìm, dân làng Công Nhật Lạp được Địch ô An Cát Mẫu dặn dò không được ra ngoài đều ở sau cửa ra vào, cửa sổ nhìn ngó, hệt như lần đầu tiên bọn họ đến ngôi làng nhỏ này vậy.
Lưỡi lửa bên dưới chiếc vạc lớn bập bùng bất định, hơi nước nghi ngút phủ che phía trên, dường như còn nghe thấy cả tiếng nước đang sôi ùng ục, Mã Cát ôm chặt Trương Lập, từng bước từng bước nhích lên bậc thang bằng đá, bên trong thân hình gầy guộc mong manh ấy, tưởng chừng ẩn chứa sức mạnh vô cùng vô tận. Trong màn hơi nước vẩn vít, Mã Cát nhẹ nhàng cởi bỏ mọi vật bên ngoài của mình và Trương Lập, trở về với hình thái nguyên thủy nhất của loài người khi giáng sinh xuống thế gian này. Tựa như hài nhi sơ sinh, thân thể trần truồng của cô ẩn hiện giữa màn khói lan tỏa, hai mắt cô nhìn thẳng về phía trước, miệng nói lớn: “Con! Mã Cát A Mễ, là vợ của Trương Lập! Trương Lập, là người chồng duy nhất của con! Con yêu chàng, tôn trọng chàng, phục tùng chàng, chàng là toàn bộ sinh mệnh của con! Giờ đây trời giáng điềm lành, hồn chàng đã trở về cõi trung ấm, con nguyện đi theo chàng, mong chư thần đoái thương, để linh hồn chúng con được hợp nhất làm một, vĩnh viễn chẳng bao giờ phân ly!”
Nói xong, Mã Cát ôm Trương Lập nhảy vào bên trong chiếc vạc khổng lồ ấy, “tủm” một tiếng, nước bắn tóe lên, trong làn khói mờ mờ, thấp thoáng trông thấy làn da trắng bóc như ngà voi. Vẻ thanh khiết của cô khiến người ta không dám nhìn thẳng, càng nhìn càng thấy hổ thẹn trong lòng. Mã Cát đứng trong vạc nước sôi, chỉ lộ ra hai vai và đầu, phía dưới, ngọn lửa vẫn cháy hừng hực, hơi nước dâng lên mỗi lúc một nồng đậm. Đứng giữa vạc nước sôi sùng sục ấy, mà cô tựa như hoàn toàn không cảm thấy gì. Trương Lập tựa hồ đang nằm trên mặt nước, còn Mã Cát thì như người mẹ đang tắm cho con thơ, dùng ánh mắt từ ái, dịu dàng, chăm chú nhìn vào gương mặt người yêu, chăm chú nhìn làn da của người yêu…
Từ lúc Mã Cát bế ngang Trương Lập đứng ở mép vạc nước sôi ấy, mọi người đã không nỡ nhìn thêm, ai nấy đều chầm chậm ngoảnh mặt đi. Cùng với lời thề văng vẳng của Mã Cát, họ nặng nề cất bước chân, rời xa khỏi ngôi làng nhỏ thanh bình ấy, chỉ nghe phía sau vang lên tiếng “tũm tũm”, cả bọn Trác Mộc Cường Ba đều như bị trúng đạn, người khẽ run lên, song không ai quay đầu lại, họ không dám quay đầu… người nào người nấy đều nghiến chặt răng, nuốt nước mắt, càng đi càng xa, càng đi càng xa dần…
Họ cũng không thể trông thấy, vạc nước sôi ấy “ục ục ục” nổi lên vô số bọt khí, một đôi mắt đỏ ngầu đột nhiên mở bừng ra, “Sáng quá…”
Khi chim đưa thư truyền tin đến chỗ Quách Nhật Niệm Thanh, thì đã gần trưa.
“Loảng xoảng!” Tiếng đổ vỡ ầm ĩ làm tên lính đưa tin giật bắn mình, chỉ thấy hai tay Quách Nhật Niệm Thanh nắm chặt mảnh giấy đó, không ngừng run rẩy. Tên binh sĩ ấy vô cùng kinh ngạc, không biết đã xảy ra chuyện gì mà khiến vị Tước Mẫu vương dù có núi đổ ngay trước mặt cũng không biến sắc này trở nên như vậy.
“Lập tức chuẩn bị mười con ngựa… à không! Tự ta sẽ đi!” Quách Nhật Niệm Thanh lao ra như một cơn gió, tên binh sĩ vẫn còn đang ngẩn người, ngây ngốc nhìn chén trà vỡ dưới đất.
“Không… không xong rồi…” Một tên trong đội thân vệ của Quách Nhật Niệm Thanh kinh hãi kêu toáng lên, “Đại vương… đại vương đã xông thẳng vào khu rừng có người Lỗ Mặc!”
“Thiết kỵ đội! Mau, đuổi theo…” Viên đội trưởng tức khắc hạ lệnh: “Bảo vệ đại vương!”
“Đuổi kịp được không? Đại vương dắt theo những con ngựa tốt nhất rồi!” “Không kịp cũng phải đuổi!”
“Cát Mã đốt lửa, muốn tuẫn táng.” Từng chữ như nhuốm máu, không ngừng lớn lên trước mắt Quách Nhật Niệm Thanh.
“Nhất định phải ngăn nàng lại! Nhất định phải đợi ta đến!” Quách Nhật Niệm Thanh thúc ngựa lao như điên cuồng, cành lá trong rừng vướng vào, khiến khắp mình mẩy y toàn là thương tích. Y đã không thể nào ngăn được cơn thác lũ tình cảm trào dâng lên trong tâm khảm mình nữa: “Mã Cát, nàng là đồ ngốc, sao nàng lại ngốc vậy! Những kẻ từ bên ngoài đến, đều là lũ xấu xa lừa đảo, không đáng để nàng chết vì chúng đâu!”
“Ta đưa nàng đến thôn Công Nhật Lạp, hy vọng nàng có thể sống một cách bình yên hạnh phúc… ta không dám mong rằng sau này sẽ gặp lại nàng… nhưng trời rủ lòng thương, không ngờ chúng ta lại được trùng phúc… Mã Cát, nàng có biết trong lòng ta nhớ nhung nàng biết bao nhiêu không? Nàng sớm đã chiếm toàn bộ trái tim này của ta rồi… đừng chết… dù thế nào, ta cũng tha thứ cho nàng…”
“Ba năm rồi, ta vẫn lẳng lặng ẩn nhẫn, không dám nói với bất cứ ai, chỉ sợ lộ ra phong thanh, để cho đối thủ biết được, ta không thể để nàng bị cuốn vào vòng xoáy đấu tranh này được. Trước nay luôn có người của ta ngấm ngầm bảo vệ nàng, nàng có biết không, ta vẫn luôn ở trong bóng tối, lẳng lặng bảo vệ cho nàng…”
“Mười năm rồi… từ ngày chúng ta ly biệt, không đêm nào là ta không mơ thấy nàng… khi ta đói khát đến nỗi phải ăn cả rễ cỏ mọc hoang, khi ta đau đớn không sao ngủ nổi, khi ta bị ném vào đống người chết vì tật bệnh… chỉ cần nghĩ đến gương mặt nàng, nghĩ đến nụ cười của nàng, là ta lại có dũng khí để tiếp tục sinh tồn…, nguyện vọng của Mã Cát còn chưa thành hiện thực, ta nhất định phải sống… nàng là lý do duy nhất để ta tiếp tục tồn tại trên cõi đời này!”
Vó ngựa đi qua đâu, bùn đất tung tóe lên tới đó…
Khi Quách Nhật Niệm Thanh xông vào thôn Công Nhật Lạp, mười mấy con chiến mã đều đã bị y bỏ lại hết dọc đường, chỉ còn một con duy nhất y đang cưỡi. Giống như y, mình mẩy con ngựa cũng đẫm máu tươi. Con người máu ấy nhảy xuống khỏi lưng ngựa, chiến mã liền hí dài một tiếng, mệt mỏi gục xuống. Người máu guồng chân chạy thẳng đến cổng thôn, thật khó mà tin nổi, một thân thể như thế, lại chạy được với tốc độ nhanh nhường ấy.
Từ xa, y đã thấy ánh lửa hừng hực, sáng chói rực rỡ trên màn trời đang ngả về đêm, một luồng khí nóng lan tỏa đi khắp bốn xung quanh. Trước vạc lớn, chỉ có một người đang ngồi. Quách Nhật Niệm Thanh chẳng buồn để ý đó là ai, gầm lên, chỉ tay quát lớn: “Dập tắt ngay!”
Địch ô An Cát Mẫu bỗng nhiên nghe thấy một tiếng gầm lớn, không khỏi giật thót mình, chỉ thấy trong ánh chiều tà, dường như có một con dã thú trọng thương đang lao bổ về phía mình. Khi cái bóng ấy đến gần, ông mới nhìn rõ hóa ra là một người toàn thân đẫm máu tươi, đợi khi nhìn rõ chiều cao và thể hình của người ấy, Địch ô An Cát Mẫu lại càng thêm kinh hãi! Từ đây đến Tước Mẫu, chim bay cũng phải mất hơn nửa ngày, nếu cưỡi ngựa phóng đến, thời gian quyết không thể nào dưới một ngày được, vị… vị Tước Mẫu vương này, lẽ nào đã bay đến đây?
Ông chưa kịp nghĩ gì, Quách Nhật Niệm Thanh đã xông đến trước cái vạc lớn ấy, liên tục quát lên: “Dập tắt mau! Dập tắt mau!…” Thấy xung quanh không có công cụ gì để dập lửa, y liền nhấc một tảng đá lớn, ném thẳng vào giữa đống lửa, hoa lửa bắn tung tóe, sém chút nữa thì cháy cả râu tóc và y phục của Địch ô An Cát Mẫu. Quách Nhật Niệm Thanh vẫn không dừng tay, lại nhấc một tảng đá lớn hơn, giơ cao quá đầu, tương thẳng vào cái vạc, phát ra những tiếng “oang oang oang”, sau hai ba lượt như thế, chỉ nghe “rắc” một tiếng, cái vạc đã nứt toác, nước sôi sùng sục liền theo khe nứt bắn túa ra ngoài. Nước đổ xuống lửa, kêu lên “xèo xèo”, khói trắng ngùn ngụt bốc lên. Quách Nhật Niệm Thanh lách sang một bên, cánh tay bị nước sôi bắn trúng, mà như hoàn toàn không có cảm giác gì, vẫn cứ tiếp tục ném đá, đoạn nhấc bổng Địch ô An Cát Mẫu vẫn chưa hết hoảng hồn lên, gằn giọng hỏi: “Nói đi, chưa từng xảy ra chuyện gì! Chưa từng xảy ra chuyện gì, có đúng không!”
Địch ô An Cát Mẫu nhìn vị Tước Mẫu vương tân nhiệm trước mặt mình với ánh mắt xót xa, cúi đầu đáp: “Đại vương, ngài… chậm mất rồi!”
“Nói bậy!” Quách Nhật Niệm Thanh gầm lên một tiếng, nhấc bổng cả Địch ô An Cát Mẫu vốn cao hơn mình rất nhiều lên không trung, nhìn bộ dạng như thể sắp ném ông già vào trong vạc nước. Nhưng rồi y lại thoáng chần chừ, vung tay đập mạnh Địch ô An Cát Mẫu xuống đất, chỉ tay vào ông gằn giọng quát lên: “Ngươi gạt ta!” Đôi mắt y, tựa hồ đã gồ hẳn ra ngoài. Y bước hai bước lại chỗ cái vạc, rồi lại quay đầu, khản giọng hét lên: “Ngươi gạt ta!”
Nói đoạn, y bước thẳng đến chỗ cái vạc lớn ấy. Lúc này, ngọn lửa bên dưới vẫn chưa tắt hẳn, vẫn đang âm ỉ cháy, nhưng nước trong vạc thì đã chảy hết. Quách Nhật Niệm Thanh không nói một lời, ôm lấy một chân vạc, mùi thịt cháy khét lẹt cùng làn khói xanh lập tức bốc lên nồng nặc.
Địch ô An Cát Mẫu lớn tiếng kêu lên: “Đừng làm vậy, đại vương!”
Quách Nhật Niệm Thanh như không nghe thấy tiếng gọi của ông, dường như cũng quên cả đau đớn, cơ thịt cuồn cuộn gồ lên trên thân thể lùn ngủn, dồn ra sức mạnh kinh người. “A…” cùng với tiếng hét của y, cái vạc lớn không ngờ đã từ từ nghiêng hẳn sang một phía. Cơ bắp Quách Nhật Niệm Thanh căng cứng, lực đạo chuyển từ gạt sang nâng, rồi từ nâng sang đẩy, từ đẩy sang nhấc, cuối cùng đã hất đổ cả cái vạc lớn.
Một tiếng “Ầm!” vang lên, cái vạc lăn lông lốc mấy vòng dưới đất, chầm chậm dừng lại. Quách Nhật Niệm Thanh run rẩy bước đi mấy bước, rồi mới từ từ trụ vững thân hình, chậm rãi lại gần. Các thứ bên trong vạc đã bị đun suốt một ngày trời, da thịt sớm đã tan chảy thành nước, giờ bên trong, chỉ còn lại một đống xương trắng mà thôi.
“Không!” Hai đầu gối Quách Nhật Niệm Thanh run run, quỳ gục xuống bên cạnh, “Không! Không! Không! Không!…” Y giống như kẻ đã phát cuồng, đột nhiên đập mạnh đầu vào cái vạc sắt. Địch ô An Cát Mẫu thấy vậy, vội vàng đứng lên ngăn cản Quách Nhật Niệm Thanh: “Đừng làm vậy… đại vương, đừng làm vậy!” Quách Nhật Niệm Thanh đứng phắt dậy, chỉ thấy mặt mũi y đầm đìa những máu, từ ngực đến đùi cháy đen khét lẹt, lại có máu tươi rỉ ra, càng nhìn càng thấy khiếp hãi. Y chỉ vào đống xương trắng trong vạc, quát lên: “Xương cốt của Mã Cát đâu, lọc ra cho ta!”
“A…” Địch ô An Cát Mẫu lộ vẻ khó xử.
Hai mắt Quách Nhật Niệm Thanh đỏ ngầu, khóe miệng rỉ máu: “Chết rồi cũng không thể để chúng ở bên nhau được, phân ra cho ta!” Không để Địch ô An Cát Mẫu kịp nói gì, y lại nói tiếp: “Đám Địch ô các ngươi, rất hiểu biết về xương cốt con người cơ mà! Không phân biệt được… ta sẽ khiến ngươi sống không bằng chết!” Nói đoạn, y cởi chiếc áo đã rách bươm, nhuốm đầy máu tươi của mình ra, cẩn thận trải xuống đất, rồi bắt Địch ô An Cát Mẫu đặt xương cốt của Mã Cát lên trên.
Địch ô An Cát Mẫu không biết làm sao, chỉ đành nhặt từng khúc từng khúc xương lên một, miệng lẩm nhẩm: “Đây là của A Mễ… đây là… của Trương Lập…”
Quách Nhật Niệm Thanh đứng bên cạnh, đờ đẫn quan sát. Bóng đêm sắp bao trùm cả mặt đất, một người mặt mũi lấm lem chạy đến, chính là Tô Lang, người đưa tin đến Tước Mẫu bị Ba Tang chặn lại ở dưới chân thành, cũng chính là tai mắt của Quách Nhật Niệm Thanh gài lại đây. Y bổ nhào tới, quỳ trước mặt Quách Nhật Niệm Thanh, khóc lóc van vỉ: “Đại vương, tiểu nhân vô dụng, không thể ngăn Mã Cát lại được…”
Quách Nhật Niệm Thanh vẫn thẫn thờ nhìn đống xương trắng, hờ hững hỏi: “Ngươi đã đi đâu?”
Tô Lang lắp bắp đáp: “Lúc bọn tiểu nhân truyền tin cho đại vương, bị đám người ấy phát hiện, liền nổi giận giết chết hai người kia rồi, tiểu nhân… tiểu nhân…”
“Vì vậy ngươi bỏ trốn, phải không?” Giọng Quách Nhật Niệm Thanh lạnh như băng đá.
“Tiểu nhân có tội, tiểu nhân… tiểu nhân đáng chết… đáng chết…” Tô Lang đập đầu lia lịa xuống đất.
“Vậy thì ngươi chết đi.” Quách Nhật Niệm Thanh vung tay một cái, máu tươi đã tóe lên.
Địch ô An Cát Mẫu kinh ngạc phát hiện, cổ Tô Lang như thể vừa bị một lưỡi đao sắc bén lia qua, để lại một vết cắt bằng phẳng, nhưng mà… nhưng… trong tay đại vương, đâu có thứ gì chứ!
Ông mới thoáng ngây người, ánh mắt Quách Nhật Niệm Thanh đã quét đến: “Ai bảo ngươi dừng tay lại! Tiếp tục cho ta!”
Địch ô An Cát Mẫu không dám chậm trễ, vội ngoan ngoãn chia đống xương ra làm hai. Quách Nhật Niệm Thanh cẩn thận nâng phần xương cốt của Mã Cát lên, vung chân đá tung bộ xương của Trương Lập vương vãi tung tóe, rồi sải bước chân đi về phía Đông ngôi làng.
Địch ô An Cát Mẫu nhìn theo bóng lưng đi xa dần của Quách Nhật Niệm Thanh, nhặt cái đầu lâu có tám chín phần giống của con người lăn lông lốc dưới chân mình lên, lắc đầu thở dài: “Đại vương, tôi không cố ý gạt ngài đâu, xin hãy lượng thứ cho thân già này.” Dứt lời, ông ném cái xương sọ ấy sang một bên, bước tới cạnh thi thể của Tô Lang. Địch ô An Cát Mẫu định an táng cho y, dẫu sao thì cũng cùng sống chung trong thôn Công Nhật Lạp này mấy năm rồi.
Chú thích
[12] Bài kệ “Lục Như” trong Kinh Kim Cương, bản phỏng dịch của nhà thơ Châu Sa.
[13] Một câu trong Vãng sinh luân chú – quyển Thượng.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.