Mật Mã Tây Tạng

CHƯƠNG 33: MÊ CUNG VÔ HÌNH



Mới đầu, tiếng kêu thảm thiết còn hòa lẫn trong tiếng hoan hô, nghe không rõ lắm, nhưng văng vẳng mãi không dứt, lại được gian đại điện hình dạng như chiếc chuông khổng lồ này cộng hưởng, âm thanh càng lúc càng lớn hơn. Tiếng hoan hô nhỏ dần rồi tắt hẳn, nhưng tiếng kêu thảm vẫn lởn vởn bên tại tựa như âm hồn không tan.
Đến khi ai nấy dựng hết cả tóc gáy lên, bọn lính đánh thuê mới chịu an phận một chút. Khafu kiểm tra quân số, thấy thiếu mất ba người. Có điều, trong lúc chen chúc hỗn loạn, không ai trông thấy ba tên đó biến mất như thế nào, đúng là gặp ma giữa ban ngày.
Giữa lúc cả bọn còn đang ngờ vực lẫn nhau, lại có một tên lính đánh thuê đột nhiên khua chân múa tay rơi xuống, giây lát đã biến mất trong bóng tối mịt mùng, chỉ để lại tiếng rú gào thê thảm cứ vẩn vít mãi bên tai những người còn lại.
Bọn lính đánh thuê bắt đầu hoảng loạn, chuyện này là thế nào? Rốt cuộc mình đang giẫm chân lên sàn nhà bằng pha lê trong suốt, hay lơ lửng giữa không trung?
Khafu lớn tiếng ra lệnh cho tất cả bọn lính đánh thuê không được hành động bừa bãi, rồi cùng người trẻ tuổi đi xuống, cẩn thận xem xét mặt sàn trong suốt. Người trẻ tuổi đột nhiên đứng bật dậy, đấm tay nọ vào tay kia, chửi thầm trong bụng: “Chó thật!”
Thì ra, mặt sàn pha lê thoạt nhìn chẳng khác gì không khí này, lại không phải là một khối hoàn chỉnh, giữa sàn có rất nhiều lỗ hổng, hoặc vuông hoặc tròn, hoặc hình chữ nhật dài. Dưới ánh sáng chói lóa tỏa ra từ hai cây cột, nếu không ghé sát cẩn thận quan sát thì không thể nào phân biệt được những chỗ hổng bằng mắt thường. Người bước đi trong gian đại sảnh này, bất cứ lúc nào cũng có nguy cơ hụt chân, rơi xuống vực sâu bên dưới.
Người trẻ tuổi thất vọng nhìn quanh, trong cuộc đấu trí với cổ nhân từ hơn nghìn năm trước, xét cho cùng, y vẫn thua họ một bậc.
Từ khi đặt chân vào Cánh cửa Chúng sinh, Bạc Ba La thần miếu này đã lẳng lặng thay đổi tâm thái, tiềm thức và các giác quan của mỗi người, khiến họ hưng phấn, khiến họ kinh ngạc, khiến họ run rẩy. Trong quá trình hết kinh hãi rồi lại đến mừng rỡ điên cuồng ấy, người ta không còn phân biệt được trời đất gì cả, mọi thứ nhìn thấy đều giống ảo giác, các giác quan trở nên không còn đáng tin cậy nữa.
Người trẻ tuổi nghiêm khắc cảnh cáo bọn lính đánh thuê: “Đừng nhìn tượng Phật nữa, tìm đường ra rồi tính sau.”
Kế đó, y điểm ra hai tên lính đánh thuê đi trước dò đường như lính dò mìn, cầm cây gậy, đi một bước lại đập đập xuống đất một cái như người mù. Nhưng chúng nhanh chóng nhận ra, nếu cứ đi theo gậy dò đường như vậy, sẽ chỉ quay mòng mòng một chỗ, còn nếu ngẩng đầu lên nhìn các tượng Phật xung quanh, thì lại càng hoa mắt chóng mặt. Những tượng Phật đó, thoạt nhìn thì không sao, nhưng chỉ hơi tập trung một chút thôi, sẽ thấy mỗi bức dường như đang xoay chuyển theo những hướng khác nhau.
Thì ra những lỗ hổng ấy không phải tùy tiện mở ra, mà đã biến mặt sàn của đại điện thành một lối đi ngoằn ngoèo như mê cung, một mê cung vô hình! Sắc mặt người trẻ tuổi càng lúc càng khó coi hơn.
Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam nhìn nhau mỉm cười, không ngờ người xưa có kỹ xảo cao minh đến vậy, lại tạo ra được một mê cung kỳ bí phức tạp nhường ấy. Nơi này không giống như mê cung băng ở Nam Cực miếu. Tòa mê cung băng kia cùng lắm chỉ khiến người ta đập đầu vào tường mà thôi, còn nếu rơi xuống khe sâu vô hình này, tỷ lệ sống sót hẳn là 0%. Cứ đi như vậy một lúc lâu, mấy tên đi trước dò đường phát hiện dường như chúng đã thích ứng hơn với ánh sáng mạnh ở đây, rất nhiều chỗ nhìn không rõ là lỗ trống hay là mặt sàn pha lê, giờ lại có thể phân biệt được bằng mắt thường. Một tên thậm chí còn mừng rỡ reo toáng lên: “Tôi nhìn thấy đường rồi, nhìn thấy đường rồi!”
Bọn lính đánh thuê liền tập trung quan sát, quả nhiên giữa chừng không xuất hiện rất nhiều cái bóng mờ mờ phác ra một con đường. Tên nào tên nấy mừng rỡ hết sức, chỉ có hai ba người vẫn giữ nguyên thái độ hờ hững, chẳng giận cũng chẳng vui.
“Tại sao lại thế? Không, không phải là thị lực đã thích ứng với ánh sáng mạnh.” Người trẻ tuổi ngẩng đầu lên, lập tức cảm thấy không ổn. Ánh sáng, vốn mầu trắng bạc như tuyết, lúc này ở đầu ngọn lửa lại bắt đầu chuyển sang sắc vàng nhạt. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu y, muốn chiếu sáng cho cả đại điện lớn nhường này, phải phun ra bao nhiêu khí thể, người xưa rốt cuộc tồn trữ bao nhiêu nhiên liệu ở đây? Từ khi Cánh cửa Chúng sinh mở ra, hoặc từ lúc lửa ở hồ tế được đốt lên, đã là bao nhiêu thời gian rồi? Lượng tiêu hao lớn như vậy, chắc chắn phải có lúc hết nhiên liệu, mà thứ nhiên liệu được hóa khí này hiển nhiên không giống với loại thông thường, hết là sẽ hết luôn.
Nghĩ đến đây, người trẻ tuổi biết không thể thong thả dò đường được nữa. Y xông lên phía trước, lớn tiếng hét: “Đi theo tao, một hàng nhiều nhất ba người, bằng không rơi xuống thì đừng trách!”
Khafu thắc mắc: “Ngài Thomas, sao phải gấp vậy?”
Người trẻ tuổi liếc nhìn hai cái cột đá giống như tim đèn: “Lửa sắp tắt rồi!” Ánh sáng quá mạnh và bóng tối tuyệt đối, ở mê cung pha lê vô hình đều là chí mạng, duy nhất chỉ có quá trình ngắn ngủi khi ngọn lửa tối dần rồi hoàn toàn tắt lụi là có thể dùng mắt thường để đi qua chốn này.
Ngọn lửa cháy bằng nhiên liệu khí thể tắt lụi rất nhanh. Ánh sáng màu trắng bạc trong chớp mắt đã biến thành vàng nhạt, vàng kim, vàng sẫm, da cam, đỏ sẫm, xanh lục, xanh thẫm… Mặt sàn pha lê phản chiếu ánh sáng biến đổi như bảy sắc cầu vồng, vô cùng đẹp mắt, nhưng những người đi trên đó đều vội vội vàng vàng, chẳng ai có tâm tư dừng lại thưởng thức những màu sắc đẹp đẽ đó cả.
Ánh sáng càng lúc càng biến ảo rực rỡ, tốc độc của người trẻ tuổi càng lúc càng nhanh, ở phía sau, bọn lính đánh thuê chân trước giẫm chân sau, loạng choạng, rốt cuộc cũng có tên không thể theo kịp. Tiếng kêu thảm thiết bắt đầu vang lên cách quãng. Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam đi giữa đội ngũ, nhưng hơi thiên về phía trước. Nhìn ngọn lửa biến ảo, hai hàng lông mày pháp sư nhíu chặt lại. Chỉ từ việc một tên lính đánh thuê có thể mơ hồ nhìn thấy đường đi, đã liên tưởng đến ngọn lửa sắp tắt lụi, khả năng phản ứng của người trẻ tuổi này thực sự nhanh đến đáng sợ. Chẳng những vậy, nhìn bộ dạng đi trước dẫn đường của y, dường như tuyến đường ngoằn ngoèo như mê cung hoàn toàn không có tác dụng gì với kẻ này cả. Tầm nhìn của y, tầm nhìn của y rốt cuộc là xa đến chừng nào?
Khi người trẻ tuổi đặt chân đến đầu bên kia của con đường pha lê, ánh sáng trong đại điện đã mờ nhạt đến mức không thể phân biệt được đâu là mặt đất, đâu là hang sâu nữa. Những người sốt sót ngẩng đầu ngó quanh, bấy giờ mới nhìn rõ, vật thể giống cây thông Noel treo lộn ngược ở chính giữa đại điện kia, ở đầu mút mỗi nhánh cây, đều có một ngọn lửa màu lam đang nhảy múa, thướt tha uốn éo như những đốm lửa ma, diễm lệ nhưng lại khiến người ta dựng hết tóc gáy.
“Nhìn kìa! Tượng Phật!”
Cả đám người lại ồ lên xôn xao, những tượng phật nét mặt vốn nhân từ trang nghiêm, dưới ánh sáng hiu hắt của những đốm lửa màu lam ma quái đã biến thành màu tím sậm. Chẳng những vậy, trong ánh sáng mờ mờ, dung mạo hiền hòa của các bức tượng đã thành ra nhạt nhòa, đường nét chỉ còn lờ mờ đại khái. Mà những đường nét ấy, thoạt nhìn lại toát lên một vẻ hung dữ khủng bố lạ thường. Nhớ lại những đồng bọn vừa sẩy chân lọt xuống vực sâu, tiếng kêu thảm vẫn còn văng vẳng bên tai, bọn lính đánh thuê càng rởn gai ốc khắp người.
“Rốt cuộc là…” Tạo hình của tượng Phật trong bóng tối khiến cả Lữ Cánh Nam cũng phải ngạc nhiên. Khi nãy đèn đuốc sáng rực, rõ ràng là tạo hình đại từ đại bi, phổ độ chúng sinh, sao khi bóng tối bắt đầu trùm lên, tất cả đều biến thành tạo hình phẫn nộ như hàng yêu phục ma vậy?
Pháp sư Á La ngập ngừng nói: “Lẽ nào, đây chính là … Quang ảnh song thân Phật trong truyền thuyết?”
“Quang ảnh song thân Phật?”
“Đúng vậy,” pháp sư Á La nói, “con có biết chiếc cốc Moras không? Đó là lễ vật đại sư đồ gốm Moras tặng cho William III nhân kỷ niệm năm mươi năm ngày cưới. Thoạt nhìn, nó chỉ là một chiếc cốc sứ thông thường, nhưng nếu quan sát kỹ sẽ phát hiện, những đường nét trên chiếc cốc chính là phác ra gương mặt nghiêng của William III và phu nhân của ông ấy. Nếu nhìn cái bóng hắt ra bên ngoài chiếc cốc, sẽ trông thấy một đôi nam nữ đang ghé đầu thì thầm hoặc hôn nhau. Đại sư Moras với kỹ thuật tinh xảo của mình đã tạo ra được hiệu quả thị giác thần kỳ. Còn Quang ảnh song thân Phật cũng vậy, khi đủ ánh sáng, chúng ta nhìn thấy ngũ quan của tượng Phật, từ bi, nghiêm túc, còn khi ánh sáng nhạt nhòa, không nhìn rõ được nét mặt các pho tượng, sự chú ý của mắt người sẽ chuyển sang đường nét của cái bóng, lúc ấy, sẽ nhận ra sự tương phản rất lớn.”
Lữ Cánh Nam đã hiểu, nhưng Khafu đứng cạnh đó chỉ nghe hiểu lõm bõm tiếng Trung thì không sao lĩnh hội được. Y lấy làm nghi hoặc, hỏi: “Thật chẳng hiểu người phương Đông các ngươi nữa, tại sao phải bày lắm trò vậy làm gì? Tại sao lại làm cho tạo hình của tượng Phật khi bật đèn và tắt đèn toàn toàn tương phản?”
Người trẻ tuổi trả lời y: “Mày đã đến Maya, hẳn cũng biết các truyền thuyết thần thoại ở vùng đó, ý nghĩa của những tượng Phật này rất giống với thần thoại Maya. Khi thần đi lại ở nhân gian và thiên giới, họ là hóa thân của ánh sáng, từ bi và nhân ái. Khi họ ở chốn địa ngục, họ là hóa thân của Ma vương, điên cuồng và tàn bạo. Nói theo cách của Thiền tông bọn họ, thì gọi là bản ngã và siêu ngã. Bản ngã là dục vọng nguyên thủy của con người, chưa trải qua bất kỳ sự đè nén hay uốn nắn nào, cũng có thể gọi là thú tính. Chẳng hạn như giao phối, ăn uống. Mày thử nghĩ xem, không có sự ước thúc của văn hóa, đạo đức và lý tính, việc giao phối và ăn uống của nhân loại sẽ như thế nào? Vì vậy các bức tượng biểu thị bản ngã thông thường đều hung ác và dữ tợn. Còn siêu ngã, Đạo gia nói xuất thế nhập thế, Phật gia nói viên thông, viên mãn, đều là để chỉ cái siêu ngã này. Khi đạt đến cảnh giới đó, mỗi lời nói mỗi cử chỉ, mỗi nụ cười, mỗi cái nheo mắt của mày, toàn bộ đều trở thành tiêu chuẩn quy phạm, phù hợp với mọi hệ thống đạo đức và văn minh khác nhau, khiến người ta ngưỡng vọng, nảy sinh một tình cảm ngưỡng mộ tự nhiên. Vì vậy, hình tượng siêu ngã đều toát lên vẻ trang nghiêm, đại từ đại bi. Trong Thiền tông, bản ngã và siêu ngã giống như hai mặt của một đồng xu, không thể tách rời, tượng Phật của bọn họ cũng phân ra làm Bán tôn và Hiển thánh kim tôn, đại diện cho bản ngã và siêu ngã. Ở giữa bản ngã và siêu ngã, còn có tự ngã, cũng chính là bản thân loài người chúng mày. Chúng mày vừa muốn thỏa mãn dục vọng nguyên thủy của mình, lại vừa muốn chấp nhận sự ước thúc của đạo đức và pháp luật, vì vậy, mỗi người đều đang bước đi giữa bản ngã và siêu ngã. Đồng thời, cảnh giới tinh thần của một người cũng theo đuổi hai thứ này. Một là đi xuống, đọa lạc địa ngục, cũng tức là mặc kệ ước thúc, đạt đến bản ngã. Hai là hướng lên, thăng nhập thiên đường, cũng tức là yêu cầu bản thân đạt đến tiêu chuẩn của những kẻ thế tục gọi là thánh nhân, bỏ hết tạp niệm, một lòng hướng Phật. Cả đời con người luôn vùng vẫy quanh quẩn giữa ước thúc và tự do, vì vậy chúng sinh mới đau khổ, hy vọng được giải thoát. Đây chính là cái mà người ta vẫn gọi là phàm tâm.”
Nói một tràng dài những lời Khafu nghe nửa hiểu nửa không, người trẻ tuổi lại lấy chiếc PDA ra xem xét. Lữ Cánh Nam đã mấy lần thấy y nhìn vào chiếc PDA ấy, không khỏi lấy làm nghi hoặc: “Rốt cuộc đó là thứ gì? Chẳng lẽ là bản đồ số hóa của tòa thần miếu này ư?”
Đương nhiên, cô không thể ngờ rằng người trẻ tuổi ấy cũng đang ngờ vực: “Kỳ lạ thật, hai tên kia sao vẫn không chuyển động? Lâu như vậy rồi, chẳng lẽ chúng đang ngủ? Mặc kệ, đây là cơ hội tốt.” Nghĩ đoạn, y cất máy PDA, ra lệnh cho bọn lính đánh thuê xuất phát đến đại điện tiếp theo.
Trác Mộc Cường Ba và Merkin không phải đang đứng im tại chỗ, mà ngược lại, đang chuyển động không ngừng. Hai người đang chơi trò đẩy hòm, đã đẩy đi đẩy lại đến phát ngán.
Hai người leo lên đỉnh cánh cửa hình nụ sen chưa nở, dùng máy ảnh chụp toàn bộ bàn cờ và bố cục các quân chờ vào máy tính. Trác Mộc Cường Ba dùng chương trình tìm kiếm trong máy, tìm ra một phần mềm chuyên dùng để phá giải các cơ quan dạng sắp xếp theo trình tự này, bên trong đã cài đặt sẵn các mô thức mẫu để phá giải Hoa Dung đạo, Cửu liên hoàn, ma phương…
Tìm hiểu xong cách sử dụng phần mềm, Trác Mộc Cường Ba nhập vị trí của các quân cờ vào, máy tính bắt đầu mô phỏng tính toán, đẩy những khối vuông có khắc ký hiệu vào vị trí tương ứng, chỉ thoáng sau đã có kết quả. Máy tính đưa ra phương án tối ưu, tổng cộng cần chín trăm chín mươi chín bước.
Nhìn máy tính chỉ cần hai ba giây đồng hồ đã tính ra kết quả và các bước thực hiện, Merkin đang nơm nớp lo âu mới yên tâm phần nào. Chín trăm chín mươi chín bước, nếu tính bằng sức người, không biết phải bao lâu mới xong nữa. Vậy là, hai người bèn làm từng bước một, bắt đầu công cuộc đẩy hòm. Mặc dù bên dưới các khối đá là những rãnh kim loại trơn nhẵn, song trọng lượng của chúng và lực ma sát của hình khắc gồ lên cũng khiến hai người tốn rất nhiều sức lực. Trông cả hai như hai con trâu mộng cày ruộng, cắm đầu cắm cổ, bốn cánh tay lực lưỡng gồng lên, bốn cẳng chân đạp mạnh, mồ hôi túa ra như tắm trên trán, chảy thành dòng trên má, rồi nhỏ tong tong xuống cằm. Mỗi lần hoàn thành một bước, hai gương mặt nhem nhuốc mồ hôi lẫn máu lại cùng chụm lại trước màn hình máy tính xách tay, xem bước tiếp theo phải đẩy như thế nào. Về sau, Merkin nói làm kiểu này quá chậm, đề nghị mỗi người đẩy một khối đá, như vậy có thể cùng lúc tiến hành hai bước một. Trác Mộc Cường Ba đẩy bước trước, y đẩy bước sau, cứ được khoảng mười khối đá vào vị trí thì lại dừng tay nghỉ một lúc. Nói theo cách của Merkin thì đây không phải việc dành cho con người làm… Lúc ấy, Trác Mộc Cường Ba mới nói cho y biết, câu “một người thân thủ tuyệt thế” cũng có có thể dịch thành “một người sức khỏe vô cùng”, cũng may sức lực hai người họ đều thuộc hàng khá, bằng không e khó lòng mà đẩy nổi mấy khối đá này.
Khi họ đẩy được năm trăm sáu mươi ba khối đá thì xảy ra sai sót. Họ nhận ra, bước tiếp theo của mình không khớp với máy tính, lúc cẩn thận đối chiếu lại mới biết, thì ra đã đẩy nhầm.
Vốn là Trác Mộc Cường Ba qua trước, rồi đến lượt Merkin, sau đó Trác Mộc Cường Ba sẽ đẩy một khối đá khác tới, đồng thời khối đá Merkin đẩy cũng có thể đến vị trí chỉ định. Nhưng quá trình đẩy của hai người lại là, khối đá của Merkin đã đến vị trí chỉ định, bị cố định tại chỗ đó mà khối đá của Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa đẩy qua, bị khối đá của Merkin chặn mất đường.
Hai gương mặt lem luốc thẫn thờ nhìn nhau, tính sao đây?
Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba nghiến răng nói: “Lật nó ra!”
Merkin trố mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, cơ hồ không tin tưởng lắm. Đây không phải hòm gỗ, mà là một khối lập phương bằng đá mỗi cạnh dài một mét. Một khối đá lớn chừng này, e rằng trọng lượng phải đến một hai tấn, có điều, ngoài trừ cách nhấc nó ra khỏi đường ray, hình như cũng không còn cách nào khác nữa.
“Ày ah! Lên…” Cùng với tiếng gầm của Trác Mộc Cường Ba, cơ bắp trên cánh tay hai người gồ hẳn lên. Hai vị “mãnh nam” này không ngờ lại có thể lật cả tảng đá nặng nề ra khỏi đường ray. Sợ rằng cổ nhân nghìn năm trước khi bố trí bàn cờ này cũng không ngờ có người dùng cách trái lẽ thường như thế, quả là sức mạnh dời non lấp bể!
Có điều, sau khi bẩy khối đá ra khỏi đường ray, hai người phải ngồi dựa vào nó thở hồng hộc, Merkin xua tay lia lịa nói: “Việc này… không thể lặp lại nữa.”
Sau khi mọi khối lập phương đã vào vị trí, thể lực của Trác Mộc Cường Ba và Merkin cũng tiêu hao toàn bộ. Merkin đề nghị nghỉ ngơi tại chỗ một lúc. Dẫu sao, bọn họ cũng đã ở thế giới dưới lòng đất đèn đuốc sáng ngời này không biết bao lâu rồi. Từ đầu đến giờ, hai người vẫn luôn bị các loại cơ quan cạm bẫy làm cho chạy trối chết, khó khăn lắm mới được chút thời gian nghỉ ngơi, nếu không điều dưỡng hồi phục thể lực, có trời mới biết sau khi cánh cửa hoa sen kia mở ra sẽ có thứ gì.
Lúc này, bên ngoài địa cung đang ngập tràn ánh sáng. Hôm nay đã là ngày thứ ba kể từ khi bọn Trác Mộc Cường Ba xuống địa cung Bạc Ba la thần miếu. Một động vật linh trưởng toàn thân trần truồng đang lao đi giữa rừng già, tắm mình trong ánh dương buổi sớm, hít thở bầu không khí tự do.
Toàn thân y nhằng nhịt vết thương và sẹo lồi màu đỏ thịt, đầu tóc bù xù rối loạn. Điều khiến người ta kinh hãi nhất là, phía sau y có hai con dã thú vốn chỉ cần thấy mặt nhau là sẽ lao vào cắn xé đến một sống một chết. Bên trái là một con sói xám trưởng thành, thể hình to lớn; bên phải là một người Lỗ Mặc, cao bằng một người trưởng thành.
Đúng vậy, y chính là Soares. Vì tầng bình đài thứ ba đã được xác nhận là không có người, y cũng lấy làm hoan hỉ ở lại đây, mang lòng thành ra đối đãi với thiên nhiên. Sau cuộc nói chuyện với Trác Mộc Cường Ba, y đột nhiên lĩnh ngộ được, thì ra, dù không có các loại thuốc và chất thông tin, không dựa vào cạm bẫy và khoa học kỹ thuật hiện đại, con người và các loài vật khác cũng có thể chung sống một cách hòa thuận.
Mấy ngày nay, y luôn quanh quẩn trong khu rừng rậm này, bất ngờ gặp được một con sói và con mãnh thú, sau mấy lần tiếp xúc mang tính thăm dò, Soares đã khiến con sói và con mãnh thú kia đồng thời chấp nhận sự tồn tại của mình. Y khác với Trác Mộc Cường Ba, thân là một Thao thú sư hiểu rõ đặc tính của các loài sinh vật, và lại còn rất giỏi nghiên cứu tìm tòi, y đã nhanh chóng phán đoán chính xác về trí lực và tập tính sinh hoạt của hai con vật này, đồng thời dẫn đạo chúng một cách thích đáng. Chỉ sau một thời gian ngắn, y đã khiến hai con dã thú nghe lệnh mình. Trong toàn bộ quá trình đó, Soares không sử dụng bất cứ loại thuốc hay kỹ xảo thao thú nào. Ở Trác Mộc Cường Ba, y đã học được sự trao đổi tâm linh giữa các loài động vật, dùng ánh mắt và ngôn ngữ cơ thể để biểu đạt ý nghĩa của mình, đồng thời cũng nhờ vào ánh mắt và ngôn ngữ cơ thể để đọc hiểu ý tứ mà đối phương biểu đạt.
Một người, một sói và một người Lỗ Mặc, tiểu đội săn bắt tổ hợp từ ba loài động vật khác nhau hợp tác với nhau hết sức vui vẻ. Có điều, Soares dần dần nảy sinh ý muốn rời khỏi đây. Mỗi lần nhìn thấy những kiến trúc hùng vĩ lạ thường và môi trường hoang dã xung quanh, y liền cảm thấy run rẩy. Nơi này dẫu sao cũng là vương quốc của sinh vật hoang dã, mặc dù vẫn còn lưu lại rất nhiều ký hiệu của nền văn minh nhân loại, nhưng không có lấy một dấu vết của người sống. Nỗi sợ hãi và cô đơn phát xuất từ sâu thẳm nội tâm khiến y khao khát được trông thấy một người sống, cho dù là kẻ địch cũng được. Giờ đây, y đã hiểu sự cô độc mà Trác Mộc Cường Ba phải chịu đựng. Chỉ có điều, y cũng biết, với tình trạng hiện tại của mình, muốn vượt qua vùng sương mù bị băng tuyết bao phủ kia, thực không có chút hy vọng nào cả. Y cần phải chuẩn bị đẩy đủ hơn nữa.
Vì vậy, khi trông thấy cỗ thi thể và cái dù động lực còn chưa bị hư hại treo lơ lửng trên cành cây, Soares không sao nén nổi cảm giác kích động trào dâng trong tâm khảm.
“Đại Khôi, tao phải đi rồi.” Soares đặt tay lên đầu con sói, ngón cái vuốt nhè nhẹ dọc theo bộ lông nó, chạm vào trán nó, khiến con sói cảm thấy yên tâm và dễ chịu. Sói xám hài lòng nheo nheo mắt. Ý nói lời tạm biệt với người bạn bốn chân, rồi lại nắm chặt chi trước của người Lỗ Mặc, bắt tay một cách tượng trưng. Soares đứng ở mép tầng bình đài thứ ba, ngước nhìn màn sương mù mờ mịt, ngoái đầu nhìn về phía rừng rậm, lớn tiếng tuyên bố: “Tạm biệt, Shangri-la! Ta sẽ trở lại! Tạm biệt, Đại Khôi! Tạm biệt, Tiểu Cường! Trở lại cuộc sống vốn có của chúng mày đi, tao chỉ là một kẻ qua đường thôi.” Dứt lời, Soares tung mình nhảy xuống, biến mất dưới làn mây mù bao phủ. Y nhớ lại chuyện Trác Mộc Cường Ba kể, Nhạc Dương ngày đó cũng nhảy xuống dưới như thế này. Ta sẽ rơi xuống đâu? Có lẽ là tầng bình đài thứ hai, đến lúc đó có thể nghiên cứu một chút về cổ độc của người xưa, nếu rơi thẳng xuống tầng bình đài thứ nhất, vậy thì có thể nhìn thấy những loài sinh vật tiền sử kia rồi. “Bùng!” dù động lực mở bung ra, đưa Soares lướt về phía xa.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.