Đi hết dòng sông, ánh sáng đã yếu dần, cảnh tượng trước mắt bọn lính đánh thuê bị bao phủ trong một tấm màn u ám mông lung. Thứ đầu tiên đập vào mắt là một cái hồ. Tòa thần miếu ở giữa hồ, trong miếu lại có hồ, chẳng trách đám lính đánh thuê đều ồ lên kinh ngạc như thế. Có điều, thứ khiến bọn chúng kinh ngạc hơn bội phần, là kiến trúc xung quanh hồ nước và cảnh tượng kỳ lạ ở giữa hồ.
Ven bờ hồ có các cột đá, nhìn theo những cột đá này, liền phát hiện ra hẵng còn bảy tám dòng sông phát ra ánh sáng mờ mờ chảy vào trong hồ nước. Đưa mắt nhìn lên phía trên thác nước, dưới ánh sáng chập chờn, diện mạo của kiến trúc dần dần hiện ra từng chút từng chút một, cảm giác như thể đang quan sát con báo qua ống vậy.
Cái hồ này, hoặc nên gọi là một bể chứa nước cực lớn, vì nó nằm trọn trong một gian đại sảnh khổng lồ. Những cột đá nhân tạo, hành lang đá, bệ đá, mái vòm… tạo thành một điện đường vĩ đại hình tròn cao ba tầng, mỗi tầng có bảy tám dòng sông chảy ra, thậm chí nhiều hơn. Dòng nước phẳng lì tựa như tấm khăn lụa nối ba tầng bình đài với hồ nước bên dưới. Có điều, kiến trúc này hầu như ẩn bên trong bóng tối, không nhìn rõ được, chỉ gây ấn tượng hết sức kỳ vĩ, một sự kỳ vĩ khiến người ta phải chấn động và kinh hãi.
Nếu nói kiến trúc hùng vĩ này mang đến cho con người ta cảm giác sững sờ chấn động, thì ánh sáng kỳ dị ở giữa hồ lại khiến người ta kinh ngạc, mừng rỡ và cảm thấy huyền diệu khó tin.
Vốn dĩ, giữa hồ lẽ ra phải bị bóng tối bao trùm, nhưng trong bóng tối ấy lại sinh ra những vệt ánh sáng. Những vệt sáng ấy tựa như tinh linh nhảy múa, lại gần một chút thì thấy giống như ngọn lửa, ở xa thì nhìn như ánh đom đóm lướt qua lướt lại rất nhanh trên mặt hồ. Bảo là cá, thì không giống lắm, bởi những vệt sáng lơ lửng phía trên mặt hồ, thoắt cái đã tắt phụt, rồi không hiểu ở đâu, lại thình lình sinh ra một vệt sáng mới.
Dưới ánh sáng lờ mờ của những vệt sáng di động, có thể thấy giữa hồ có rất nhiều cột. Nhìn những cái bóng lồi lõm đều đặn, có thể đoán rằng, các cột trụ giữa hồ hẳn phải có chạm trổ.
Người trẻ tuổi bình tĩnh ra lệnh: “Tìm kiếm ven bờ hồ xem chắc phải có thuyền bè gì đó, chúng ta cần ra giữa hồ.” Kế đó, y lại cảnh cáo bọn lính đánh thuê đang trầm trồ không ngớt: “Nhỏ tiếng thôi, đừng trách tao không nhắc nhở chúng mày, chủ nhân của cái hồ này không thích ồn ào quá đâu, tuy đã qua một nghìn năm, nhưng tao cũng không thể xác định nó còn sống hay đã chết. Nếu ghi chép trong cổ thư không sai thì con quái này có thể dựa vào chấn động sóng âm để bắt mồi đấy.” Quả nhiên, bọn lính đánh thuê từng sống sót thoát khỏi rừng rậm ấy hết sức mẫn cảm với những từ ngữ như “quái vật, quái thú”, vừa nghe câu đó, lập tức không tên nào dám lớn tiếng nữa. Khafu thì thầm hỏi nhỏ: “Chủ nhân của cái hồ này là quái vật gì vậy?”
Người trẻ tuổi ấy cũng thấp giọng đáp: “Ma Long Tán lớn mạnh nhất đến từ phương Bắc, trong truyền thuyết, ngay cả Cách Tát Nhĩ vương cũng không thể hoàn toàn tiêu diệt được nó, Khổ Cáp Nhân Đức Duy Ngõa Khổ…” Nói đoạn, y dừng lại quay sang hỏi pháp sư Á La: “Đọc như thế phải không nhỉ? Giống như là tên ngoại lai, phát âm theo tiếng Phạn, tôi cũng không đọc được chính xác.”
Pháp sư Á La thoáng ngẩn người ra, tên đầy đủ của Ma Long Tân trong truyền thuyết ấy rất dài, nó lại có rất nhiều tên khác nhau, phát âm cực kỳ phức tạp. Có điều, cái tên mà gã Thomas này vừa đọc ra hình như rất giống tên của Ma Long thần trong Mật tông, một vị thần linh lớn mạnh nhưng cực kỳ tàn bạo!
Người trẻ tuổi tiếp tục giải thích với bọn lính đánh thuê: “Người Tạng thời cổ đại đã sùng bái rồng từ rất sớm, có điều, rồng thời bấy giờ và rồng trong suy nghĩ của người hiện đại chúng ta không giống nhau cho lắm. Ếch xanh, cá, rắn… đều được coi là hóa thân của rồng, về sau, chịu ảnh hưởng của những miêu tả về rồng truyền từ Ấn Độ và Trung Thổ tới, rồng trong tâm thức người Tạng mới trở thành vị thần linh cư trú dưới nước, có khả năng tạo mây tạo mưa. Còn Tán, là thần linh của Bản giáo cổ đại, vua Thổ Phồn thời xưa đều được gọi là Tán Phổ, cũng chính là vì lẽ vậy. Long thần và Tán thần kết hợp lại, sinh ra hậu đại, gọi là Long Tán, trong đó lớn mạnh nhất phải kể đến Ma Long Tán. Trong thánh điển của Bản giáo, Thập Vạn Long kinh, có giải thích rằng, chúng sở hữu sức mạnh kết hợp của Long thần và Tán thần, đồng thời còn sinh ra ma lực của bản thân nữa. Sách cũng có một phần miêu tả về Ma Long Tán phương Bắc, nói rằng nó có pháp lực vô biên, có thể nuốt cả đất trời, diện mạo cực kỳ dữ tợn, đầu có chín sừng, mặt có chín mắt, cơ thể mọc ra chín cánh tay. Về điểm này, tao nhớ có một học giả chuyên nghiên cứu Thập Vạn Long kinh từng chỉ ra, số chín ở đây, do ảnh hưởng của truyền thừa từ Trung Nguyên, có lẽ mang ý nghĩa là số lớn nhất, tức là chỉ nhiều vô số. Nói vậy có nghĩa là, trên thân thể Ma Long Tán mọc ra vô số sừng, vô số mắt và vô số cánh tay. Nếu Ma Long Tán đúng là chủ nhân của hồ tế, thì sinh vật sống dưới nước ấy hẳn phải là một thứ có nhiều xúc tu hay chân mềm như sứa hoặc bạch tuộc, tôi nói vậy có đúng không hả pháp sư Á La?” Lúc này, hình như có tên lính đánh thuê đã tìm được dụng cụ để băng qua mặt hồ, nhưng lại không dám khẳng định, bèn nhờ Thomas đến xem thử.
Đi được mấy bước, bên bờ hồ hiện ra một vật hình tròn nổi dập dềnh, không đầu không đuôi, chẳng có cạnh bên, cũng không có bánh lái, hơi giống như một cái nệm cói lớn, phỏng chừng còn mỏng hơn. Cũng có người cảm thấy nó giống như một lá bèo lớn nổi trên mặt nước, chất liệu rất kỳ quái, giống như là… đá!
Nếu Trác Mộc Cường Ba và Merkin ở đây, nhất định sẽ phát hiện, loại chất liệu nhân tạo nổi trên mặt nước này, gần như giống hệt chất liệu của những quả cầu đá hai người họ nhìn thấy trong các bình sứ. Tên lính đánh thuê đầu tiên phát hiện ra thứ này còn tưởng nó là một bệ đá nhô ra ven hồ. Trong suy nghĩ của chúng, đá chẳng thể nào nổi trên mặt nước được. Về sau có người đẩy một cái, cả bọn mới phát hiện ra thứ ấy có thể chuyển động, nổi dập dềnh trên mặt nước.
Một phiến đá ấy áng chừng đủ chỗ cho bảy tám người đứng lên trên, người trẻ tuổi sai một gã lính đánh thuê leo lên thử, cánh bèo bằng đá ấy không hề đung đưa dao động mà hết sức vững chãi. Bấy giờ, người trẻ tuổi mới gật gật đầu, nói: “Đúng nó rồi đấy.”
“Xung quanh còn rất nhiều.” Lại một tên lính đánh thuê khác báo cáo.
Người trẻ tuổi nói: “Tốt lắm, sáu người một nhóm, vừa khéo có thể ngồi thành hai hàng, tao sẽ dẫn đường, chúng mày cứ đi theo tao là được.”
Y và ba người bọn pháp sư Á La cùng lên một cánh bèo đá, mũi bàn chân đẩy nhẹ vào bờ hồ một cái, cánh bèo liền dập dềnh trôi về phía giữa hồ. Người trẻ tuổi ấy cảnh cáo Lữ Cánh Nam: “Cô chớ nên có ý định gì, nhiệt độ của nước hồ này lên tới hơn tám mươi độ, rơi xuống chắc chắn sẽ bị bỏng nặng đấy, cho dù sống sót cũng bị hủy dung nhan.” Lữ Cánh Nam nghe xong vẫn hờ hững, nét mặt thoáng vẻ khinh thường, còn Mẫn Mẫn thì tái mét cả mặt mày.
Bọn lính đánh thuê còn lại cũng chẳng nhàn rỗi, tên thì học theo người trẻ tuổi dùng chân đạp vào bờ, tên lại lấy bang súng làm mái chèo, nhưng cánh bèo bằng đá cứ xoay mòng mòng, thậm chí còn có mấy tên suýt chút nữa ngã lăn kềnh xuống nước, khó khăn lắm mới nắm được cách điều khiển thứ tròn tròn này tiến lên phía trước.
Sóng gợn lăn tăn trên mặt hồ nóng bỏng, hơi nước nghi ngút cũng theo làn sóng mà lúc tụ lúc tan. Vì có lời cảnh cáo lúc nãy của người trẻ tuổi kia, không gian tăm tối rộng mênh mông ấy giờ đã chìm vào tĩnh lặng, càng gần đến giữa hồ lại càng yên tĩnh, vô số cánh bèo đá cứ thế trôi dập dềnh trên mặt hồ nước trong gian đại sảnh khổng lồ.
Đến gần những đốm sáng hơn, bọn lính đánh thuê mới kinh ngạc nhận ra, những đốm sáng ấy chính là từ đáy hồ vọt lên. Những bong bóng nước thỉnh thoảng sủi lên từ đáy hồ, cuồn cuộn nổi lên mặt hồ rồi vỡ tung. Đúng vào khoảnh khắc ấy, tựa hồ có một sinh mạng mới được đản sinh, hóa thành một đốm sáng màu vàng như ngọn lửa pháo hoa đốt đêm giao thừa, không phát ra những tia sáng nhàn nhạt dìu dịu, mà liên tục bắn những tia lửa nhỏ ra xung quanh. Những tia lửa nhỏ tựa như những cái chân của đốm sáng, đẩy cho nó bay qua chạy lại, lượn lờ như tinh linh trên mặt hồ. Tinh linh màu vàng lướt vù ra đằng xa, đột nhiên sau lung họ lại xuất hiện một tinh linh màu lam nhạt, thoáng dừng lại trên mép một cánh bèo đá, vạch nên một vệt sáng hình số 8 trên không trung, rồi mới lướt đi chỗ khác.
Càng đến gần trung tâm hồ nước, những tinh linh đủ sắc màu ấy lại càng nhiều, nhiều nhất là màu đỏ, màu vàng kim, màu xanh lam, có cả những đốm sáng màu tím, màu hoa hồng hiếm gặp nữa, chúng không ngừng phát sáng lập lòe, bắn tóe tia lửa nhỏ ra xung quanh nên nhìn đẹp hơn những đốm sắc màu bình thường gấp bội. Có lúc, chúng như những chú bé nghịch ngợm tò mò xúm lại chỗ cánh bèo đá, lúc lại như cô bé thẹn thùng chạy túa ra xung quanh, nhưng phần nhiều chúng đều xoay chuyển, múa lượn trên không trung, vạch nên vô số vệt sáng đẹp mắt, khiến mặt hồ bị bóng đen bao phủ này thêm phần sống động. Mãi tới khi những tia lửa nhỏ không còn tóe ra nữa, ánh sáng mờ đi, các đốm sáng mới tắt lụi, tan biến vào không khí, song chỉ giây lát sau, bọt nước dưới đáy hồ lại nổi lên bắt đầu một màn trình diễn mới.
Bọn lính đánh thuê trông thấy cảnh tượng kỳ ảo, nhất thời quên khuấy mất mình đang ở đâu, ánh mắt mải dõi theo bóng dáng những tinh linh ánh sáng ấy, nhìn chúng sinh ra, nhảy múa, rồi tan biến, trong lòng cũng theo đó mà dâng lên hy vọng, hưng phấn, sau cùng chỉ còn lại nỗi buồn thương. Không hiểu sao, những kẻ giết người không chớp mắt này lại thấy chua xót trong lòng, khóe mắt rưng rưng… Cảnh tượng kỳ dị trước mắt không ngờ lại khiến chúng rung động hơn cả những bức tranh tập trung hết tinh hoa của văn minh nhân loại thời xưa dọc theo dòng sông khi nãy.
Kỳ dị hơn là, tên lính đánh thuê đầu tiên phát hiện cánh bèo đá không tiếp tục tiến lên nữa, bởi lúc y dùng báng súng làm mái chèo khua xuống nước, nước hồ bắn lên, không ngờ lại hóa thành những đốm lửa nhỏ li ti, cái báng súng kia cũng như thể vừa được nhúng xuống sông ngân, bên trên dính đầy ngôi sao nhỏ, chớp chớp lóe lóe rồi phụt tắt trong nháy mắt.
“A!” Mặc dù người trẻ tuổi kia đã cảnh cáo, tên lính đánh thuê đó vẫn sững sờ trước vẻ đẹp ấy, không kìm được phát ra một tiếng kêu kinh ngạc. Trên mặt hồ, vạn vật đều tĩnh lặng, tiếng kêu thảng thốt ấy của y vang đi rất xa. Một tên lính đánh thuê trên cánh bèo đá khác chợt cảm thấy cây cột đá đằng trước hình như hơi nhúc nhích, nhưng ngay sau đó, hắn lại cho rằng mình đã hoa mắt, cột đá làm sao nhúc nhích chứ.
“Không phải ngạc nhiên,” người trẻ tuổi kia điềm đạm giải thích, “là thực vật thích nhiệt độ cao, một loài tảo có thể sống ở 90°C, bọn chúng lợi dụng khoáng chất trong hồ để tạo ra một loại enzyme huỳnh quang. Vật chất này hễ bị chấn động và tiếp xúc với không khí sẽ bị oxy hóa rồi phát ra ánh sáng, giống như pháo hoa vậy, đẹp lắm phải không?” Câu cuối cùng của y, hiển nhiên là dành cho Mẫn Mẫn.
Pháp sư Á La không khỏi ngấm ngầm kinh ngạc, nghe giọng điệu của người trẻ tuổi này có thể thấy kiến thức của y rất uyên bác, tuyệt đối không kém gì thân thủ siêu phàm mà y từng thể hiện. Ông lấy làm khó hiểu, ở đâu ra một gã trẻ tuổi lợi hại như vậy nhỉ?
Bọn lính đánh thuê lại bắt đầu khua mái chèo, phần lớn là vì muốn nhìn thấy những đốm lửa nhảy lên khỏi mặt nước sinh ra trên tay mình, rồi lại trở về với nước, vạch ra một vệt sáng như ánh sao băng.
Khi bọn họ vượt qua cây cột đá thứ nhất, đám lính đánh thuê ấy mới phát hiện, những cột đá này quả nhiên không nhẵn nhụi bằng phẳng, có chỗ hõm vào một mảng lớn, lại có chỗ lồi hẳn ra, phải chăng là bị nước hồ xâm thực? Không giống lắm, rõ rang là có dấu vết bàn tay con người điêu khắc.
Tiếp tục tiến lên, lai có người phát hiện, bên dưới mặt nước không chỉ có cột đá, mà còn có rất nhiều cọc đá, lại gần hơn nữa mới nhìn rõ những cọc đá ấy hóa ra lại là đầu Phật, còn cả tượng Phật bán thân, có lớn có nhỏ, có cao có thấp, quanh các tượng Phật còn quấn đầy thứ gì đó, trông như dây leo.
Khoảng mười phút sau, cánh bèo đá của người trẻ tuổi kia đã đến trung tâm hồ nước, sừng sững trước mắt họ là cây cột đá lớn nhất hình tứ giác, mỗi cạnh dài khoảng một trăm mét, có lẽ không nên gọi là cột đá, mà là một tòa kiến trúc dựng giữa lòng hồ thì đúng hơn. Đúng là một kiểu lồng vào nhau kỳ quái, cả tòa thần miếu được xây bên dưới hồ, trong miếu lại có hồ, trong hồ lại có kiến trúc khác. Bốn mặt cây cột này đều là mặt tường phẳng lì, người trẻ tuổi bám hai tay vào tường để cánh bèo dưới chân dịch chuyển xung quanh cây cột khổng lồ, lẩm bẩm: “Kỳ lạ thật, lẽ ra phải có chỗ đốt lửa chứ? Khafu, chú ý quan sát xem trên mặt tường có chỗ nào khác biệt, thứ gì đó giống như nến hay dầu mỡ gì đó.”
“Ngài Thomas, có phải người muốn nói đến thứ này không?” Khafu chỉ ngón tay lên trên, người trẻ tuổi ấy ngẩng đầu, liền thấy trên tường có bám một đống trong nhờ nhờ như dầu mỡ, cách cánh bèo khoảng năm sáu mét.
“Cao vậy à?” Người trẻ tuổi lẩm bẩm một câu, đoạn lại cất tiếng gọi: “Khafu.” Khafu lập tức hiểu ý, khuỵu chân xuống tấn, hai tay bắt lại như đang nâng súng, người trẻ tuổi kia khẽ nhún mũi chân giẫm lên đầu gối Khafu, kế đó lại giẫm lên cánh tay y, tung mình lên cao. Toàn bộ đều là các động tác chuẩn mực, hệt như những gì Lữ Cánh Nam từng dạy bọn Trác Mộc Cường Ba, chỉ là khi thân thể ở trên không, hai tay người trẻ tuổi đó dang rộng như cánh chim, mũi chân liên tiếp giẫm lên tường năm sáu lần, đẩy thân thể lên độ cao mà đám biệt kính đặc chủng thông thường khó thể nào với tới.
Nhìn cảnh tượng ấy, Lữ Cánh Nam không khỏi rầu rĩ trong lòng. Cô biết, bản thân mình sau khi giẫm năm bước lên tường, đến bước thứ sáu thì không tài nào dồn được sức xuống chân nữa, thoạt nhìn thì chỉ tưởng kém nhau có một bước chân, nhưng thực tế lại là một nút thắt cực kỳ khó đột phá. “Xoẹt”, trong bóng tối lóe lên một ánh lửa, ngọn lửa lập lòe liếm lên khoảng mặt tường trong nhờ nhờ, thoáng cái không gian đã sáng bừng lên, ngọn lửa theo vệt dầu trên tường lan đi khắp xung quanh, tựa như những quân bài domino.
Nhìn động tác đảo lộn trên không một cách hết sức tự nhiên của người trẻ tuổi, Lữ Cánh Nam nặng nề liếc nhìn pháp sư Á La, pháp sư Á La chỉ gật đầu rất khẽ, không để ý thì khó lòng phát hiện, biểu thị mình cũng có thể làm được, nhưng khi thấy người trẻ tuổi đó hạ xuống mà cả cánh bèo đã không hề rung rinh dao động chút nào pháp sư cũng không khỏi nhíu mày.
Khác với pháp sư Á La, những người còn lại đều ngẩng đầu nhìn vệt lửa trên mặt tường. Vệt lửa bám theo vách tường, lượn vòng lên trên như một con rắn khổng lồ, ở những phương vị khác nhau, người ta lại có thể trông thấy những cảnh tượng hoàn toàn khác nhau. Con rắn lửa bắt đầu khuếch tán, tựa như cây sinh mệnh đâm chồi sinh ra cành mới, một tách thành hai, hai phân thành bốn, mỗi lúc một nhiều hơn. Bốn mặt cột đá khổng lồ tựa như một chiếc màn quay đầy khói lửa đã được chôn dây dẫn hỏa từ trước. Những con rắn lửa lúc thì quấn vào nhau bốc lên cao, lúc lại chia tách như con sông rẽ dòng, dần dần hình thành nên một tấm lưới lửa khổng lồ. Chỉ có điều, lớp vật chất cháy bám trên mặt tường rất mỏng, thoáng cái đã cháy hết, nên nhìn vệt lửa lại càng giống vô số con rắn đang không ngừng trườn về phía trước. Cuối cùng, ở cả bốn mặt cột đá đều có thể trông thấy vô số rồng vàng lao vút lên trên, tốc độ cực nhanh, dần dần lên đến độ cao mắt thường khó lòng nhìn thấy được, hồ nước trong gian đại sảnh khổng lồ lại chìm vào bóng đêm mịt mùng. Đúng lúc cả bọn nghĩ rằng ánh lửa đã lụi tàn, thì bỗng một luồng sáng chói mắt bùng lên trên đỉnh cột đá khổng lồ, ngọn lửa bùng bùng phát ra một tiếng “bùm” lớn, khiến cả đám người vây quanh ngước nhìn đều thót tim nghẹt thở, tưởng chừng toàn bộ không khí trong không gian đều bị hút sạch về phía đỉnh cột đá trong khoảnh khắc tiếng nổ vừa vang lên đó.
Ngọn lửa hừng hực ấy cơ hồ cháy lên đến đỉnh vòm bên trên, trên trần lập tức lại sinh ra vô số con rắn lửa, tỏa ra khắp bốn phía như những tia nắng, cuối cùng rơi xuống phía rìa gian đại sảnh vĩ đại, đốt cháy lên vô số chậu lửa, hoặc quấn quanh chạy xuống bên dưới những trụ đá khác, đốt cháy lên hết trụ đá này đến trụ đá khác; thậm chí còn có những ngọn lửa nhỏ rơi xuống như giọt nước, đốt cháy những trụ đá vốn không đủ cao để tiếp xúc với đỉnh vòm. Cả quá trình ấy như ở một trung tâm thương mại khổng lồ, trước tiên thắp sáng ngọn đèn trần bằng pha lê ở giữa, sau đó những ngọn đèn trang trí nhỏ hơn cũng lần lượt sáng lên. Các loại gương phản quang trong khu thương mại cũng góp phần khiến không gian càng thêm rực rỡ, những ngọn đèn trang trí tạo hình khác nhau liên tục sáng bừng lên khiến người ta hoa hết cả mắt.
Bọn lính đánh thuê trên mặt hồ lúc này đều có chung một cảm giác, mỗi nơi được thắp sáng lên đều khiến người ta phải kinh ngạc trầm trồ. Thì ra, gian đại sảnh này không chỉ có ba tầng, mà là bốn tầng, những dòng thác cao thấp không đều nhưng lại phẳng lì như mặt gương quay thành một tấm màn nước xung quanh gian đại sảnh. Những chỗ bị trụ đá tách lìa ra, vốn chẳng phải hành lang mà là những khảm thờ Phật. Tranh Phật được vẽ lên tường, giữa hai cây cột lại có một bức tranh, chỉ là niên đại đã quá lâu, rất nhiều bức bị bong tróc không còn màu sắc nữa. Trên mặt hồ, cũng chỉ có trụ đá trung tâm chỗ bọn họ đang đứng là bốn mặt nhẵn nhụi, còn những trụ đá khác thảy đều được điêu khắc thành tượng Phật với đủ loại tạo hình khác nhau. Nhiều bức bám vào trụ đá theo nhiều tư thế, nhưng chủ yếu vẫn là những bức tượng đứng sừng sững dưới hồ, cao một chút thì lộ ra đầu và vai, thấp hơn chút nữa thì chỉ ló lên mỗi chỏm mũ.
Những bức tượng Phật ấy và các khảm thờ xung quanh đều bám đầy một loại dây leo kỳ quái, rễ trắng muốt, vừa mảnh vừa dài, như tầng lông trắng mọc ra trên tượng Phật và cột đá vậy. Ngoài ra, còn có một loài thực vật, thoạt nhìn đen đúa to lớn như khúc cây, đường kính cỡ bằng cái thùng nước, dường như trên vỏ cây còn mọc rất nhiều gai nhọn và những đóa hoa nhỏ màu đỏ. Loài thực vật màu đen ấy hiển nhiên rất thích mọc trong khe hốc, chúng đã đâm xuyên qua khá nhiều tượng Phật, thậm chí một số bức tượng còn bị quấn chặt hằn cả vết. Người duy nhất cảm thấy thứ màu đen đó không giống thực vật là Mẫn Mẫn. Không hiểu tại sao, cảm giác đầu tiên của cô khi nhìn thấy thứ ấy, chính là nó không phải thực vật, nếu bỏ đi những đóa hoa nhỏ màu đỏ, thoạt trông nó khá giống cái vòi của con sao biển, chỉ to gấp vạn số lần mà thôi. Có điều, cô cũng không nói ra cảm giác của mình với bất cứ ai.
“Ủa? Chúng mày nhìn kìa!” Một tên lính đánh thuê khác chỉ vào tượng Phật kêu lên, cùng với tiếng kêu ấy, cả bọn đều chú ý thấy những bức tượng vốn nhô một phần lên mặt nước đang chìm xuống.
Không chỉ một hai pho tượng, mà tất cả các bức tượng Phật đều đang chìm xuống, nhưng ngay lập tức bọn lính đánh thuê lại phát hiện ra, không phải tượng Phật chìm xuống, mà là mực nước hồ đang dâng lên! Lượng nước ở sông Phù sinh đổ vào không hề tăng, sao nước hồ lại đột nhiên nhiên dâng lên thế này?
“Đây là cơ quan gì thế?”
“Thần kỳ quá!” Bọn lính đánh thuê bắt đầu xì xào bàn luận.