Trác Mộc Cường Ba vốn vẫn đinh ninh rằng sói tuyết cao nguyên không hề có mối liên hệ trực tiếp nào với chiến ngao, mà gã cũng chưa bao giờ thấy một bức vẽ thế này. Gã vươn tay ra, ngón tay tưởng chứng như chạm được vào bộ lông mềm mượt và các cơ bắp căng cứng.
Lữ Cánh Nam điềm tĩnh giải thích: ” khu vực Cổ Cách có địa hình thổ lâm, nơi ấy ngoài các đụn đất ra thì toàn là bình địa, tầm nhìn của trực thăng rất rộng, cho dù bên dưới có phục binh cũng vẫn tránh được, không giống như Mặc Thoát nhiều rừng cây, rất dễ bị phục kích. Hơn nữa, chúng ta đã biết đích đến của bọn tên Ben kia rồi, nhất thiết phải tranh cướp thời gian với chúng. Theo như Đa Cát nói, bọn chúng muốn đến hang đá có tượng Phật ở Cổ Cách ít nhất phải mất thời gian 2 ngày, mà muốn mở cơ quan Phật, lấy được con mắt màu bạc cũng phải mất thêm một ngày, chúng ta vừa hay bù lại được ba ngày thời gian sai lệch. Khi đến Đảo Huyền Không tự bọn người ấy còn bị nhiều cơ quan cạm bẫy cản đường, không thể tiến lên nhanh được, vậy nên chúng ta sẽ có cơ hội bắt kịp chúng thôi.”
Nhạc Dương huýt sáo một tiếng: “Ối chà chà, vậy chẳng phải là muốn đại khai sát giới hay sao? “
Lữ Cánh Nam gật đầu: ” Ừm, biết được sĩ số và các vũ khí trang bị của bọn chúng rồi, chúgn ta cũng cần chỉnh đốn lại vũ khí trong tay một chút, ngày mai sẽ nhất loạt vận chuyển đến đây luôn thể. Tất nhiên, có thể không giao chiến là tốt nhất, dù sao thì trong chỗ đó cũng toàn là di tích cổ đại, đi thôi nào. Ba Tang, thời tiết ngày mai thế nào? “
Ba Tang đáp gọn lỏn: “Tốt”
Trác Mộc Cường Ba chợt lên tiếng: “Phải rồi, Đa Cát, tôi muốn gặp trưởng lão của các cậu.”
Đa Cát vừa bước đi vừa nói: “Trưởng lão hả, ba lão già ấy cố cháp lắm, nhưng mà…để tôi nghĩ cách đã.”
Trên đường, mọi người vây lấy Đa Cát hỏi han không ngớt. Vì nể mặt Thánh Sứ đại nhân, Đa Cát đem hết tất cả những gì mình biết ra nói hết sức tường tận, đến lúc ấy mọi người mới hiểu được đại khái sự tình, theo quy củ của thôn Công Bố này, chỉ có thợ săn ưu tú nhất trong thôn mới được làm người dẫn đường cho Thánh Sứ. nghe nói trước đây cũng đã có Thánh Sứ đến thôn làng rồi, thậm chí từ trước khi Đa Cát ra đời đã có Thánh Sứ xuất hiện ở đây, nhưng bọn họ hoặc là bỏ cuộc, hoặc là sau khi vào Cánh cửa sinh mệnh rồi thì không bao giờ trở ra nữa. Mọi người nghe kể như vậy thảy đều ngơ ngác nhìn nhau – không ngờ Thánh Sứ của thôn Công Bố này cũng không ít chút nào! Trác Mộc Cường Ba vốn biết gia tộc nhà gã xưa nay chưa nghe nói có người nào làm qua cái chức Thánh Sứ này, ít nhất thì gã biết trong bốn mươi năm nay là chưa có ai, cha gã cũng chưa từng rời khỏi làng Đạt Ngõa Nô Thố, bởi vậy bản thân gã tại sao lại được chọn làm Thánh sứ, cho đến giờ gã vẫn thấy hết sức mờ hồ khó hiểu.
Về sau khi Đa Cát nói đến vị Thánh sứ kia và người áo xám tướng mạo đáng sợ đi cùng với y, Trác Mộc Cường Ba lập tức nghĩ đến người thổi rắn ở Putumayo, cái bóng đáng sợ đã theo chân bọn gã vào tận địa cung Ahezt. Con người ấy, hễ ai đã thoáng trông thấy một lần thì tuyệt đối không thể nào quên được. Cứ như lời Đa Cát miêu tả, chắc chắn kẻ áo xám ấy chính là y chứ chẳng sai. Sau đó Đa Cát hình như còn nói loáng thoáng thêm về tình hình trang bị của nhóm người do Ben dẫn đầu đó, chỉ có điều là nói theo cách của anh ta, cái gì mà ống thổi lửa bằng sắt, gậy sắt rỗng ruột treo thêm cái hộp kim loại trông như quả chuối tiêu…Trác Mộc Cường Ba không còn để ý lắng nghe nữa.
Còn về chuyện tại sao lại khẳng định đám người của Ben đã đi Cổ Cách, Đa Cát dùng một bài ca dài gần như sư thi để trả lời. Theo như anh ta quả quyết, mấy người bọn Ben Merkin chính là nghe xong bài ca này thì lập tức chuyển hướng đi về phía Tây. Nội dung bái ca này rất dài, suốt quãng đường, Đa Cát hầu như lúc nào cũng ngâm nga, trong đó có mấy câu thu hút được sự chú ý của Trác Mộc Cường Ba…”Một khi để máu tanh vấy bẩn bậc thang Thánh miếu, vô số tai ương sẽ ùn ùn kéo đến như tuyết lở, giáng xuống khắp nơi nơi. Tất cả thành thị đều sẽ biến thành nơi hoang phế không một bóng người, giống sài lang an cư bên dưới Thánh đàn, lũ độc xà phơi nắng trên bậc cấp, lưới nhện bịt kín khung cửa, loài hoa chết chóc nở khắp mặt đất mênh mông…” Trác Mộc Cường Ba cứ lờ mờ cảm giác như đã nghe đoạn ca từ này ở đâu đó, nhưng xới tung cả ký ức lên gã cũng không thể nhớ ra nổi.
Còn những đoạn sau đó như “Vạn tự luân thần thánh trở về phương Bắc, trong miệng sói tuyết cao nguyên rơi ra…” “Trái tim Nạp Nam Tháp phóng ra hào quang ánh bạc…” ” Khi vùng đất nơi tổ tiên yên nghỉ tắm trong ánh dương vàng rực rỡ, Đức Phật vạn năng sẽ chỉ đường dẫn lối cho kẻ một lòng thành kính…” ” Bọn họ giáu đi một mặt trăng, con mặt màu bạc có thể mang đến cho mặt trăng sức mạnh mới…” ” Nhún nhường quỳ xuống, mở ra cung điện của dũng sĩ…” ” Trời đất ảm đạm vô quang, thần thoại do chư thần kiến tạo…” ” Trải qua mười tám vong khải nghiệm, tiếp nhận hào quang của bậc dũng sĩ…” dường như đều dùng một phương thức cực kỳ khó hiểu để diễn đạt lại phương pháp khai mở cơ quan thông đạo và các khảo nghiệm họ sẽ phải vượt qua. Lạt Ma Á La và Lữ Cánh Nam lắng nghe rất kỹ, hy vọng có thể nghe ra chút đầu mối gì đó trong những lời ca này, song cả hai đều lộ vẻ mơ hồ khó hiểu. Trương Lập và Nhạc Dương thì lại phát hiện ra, anh chàng Đa Cát này dường như vô cùng sùng bái Trác Mộc Cường ba, cứ hát một hai câu, là lại phải liếc mặt nhìn Thánh sứ của anh ta bốn năm bận, ánh mắt kiểu đó, chỉ có thể thấy ở đám fan cuồng nhìn thần tượng của mình mà thôi.
Đợi đến khi Đa Cát hát trọn bài ca đó thì cả đoàn người đã gần về đến thôn Công Bố rồi. Lạt Ma Á La hỏi: Đa Cát, bài ca này xưa nay vẫn lưu truyền trong thôn làng của các cậu hả, tôi nghe nội dung ca từ và các vần chân, thấy lẽ ra ở giữa còn phải có mấy đoạn nữa mới đúng chứ.”
Đa Cát đáp: ” Đúng vậy ạ, ở giữa không chỉ thiếu mấy đoạn thôi đâu, mà là thiếu cả một phần lớn. Nghe nói bài ca này ban đầu vốn hoàn chỉnh, được chép lại trong một cuốn sách, về sau…” Đa Cát ngưng lại giây lát, kế đó nói, “về sau tên mắt xanh đó mượn, rồi không đòi về được. Lúc ấy, trưởng lão trong thôn đã dựa vào ký ức của mình để viết lại, nhưng vị trưởng lão đó già lắm lắm rồi, thế nên để sót mất rất nhiều.”
Mấy người bọn Trác Mộc Cường ba đều cảm thấy vô cùng đáng tiếc, ấn tượng về Stanley theo đó cũng càng thêm xấu đi.
Gần về đến thôn Công Bố, bóng người đỏ rực như ngọn lửa và đàn cừu trắng muốt ấy lại một lần nữa khắc họa giữa trời đất bức tranh đẹp mê hồn. Đa Cát nhìn thấy cái bóng đỏ như ráng mây chiều, dường như hơi ngẩn người ra trong thoáng chốc. Cái bóng đỏ cũng đã trông thấy Đa Cát, cô gái vung vẩy ngọn roi cừu hân hoan chạy tới, niềm vui lộ rõ trong ánh mắt, khiến ai nấy đều lấy làm ngưỡng mộ.
Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ: ” Xem ra cô gái này chính là Ca Ca rồi.”
Cô gái trẻ ấy cao hơn Đa Cát hẳn một cái đầu, đôi mày lá liễu cong cong, khuôn mặt thon dài như trái trứng ngỗng, nước da hồng háo khỏe mạnh, nụ cười hết sức đáng yêu, xét về bất cứ khía cạnh nào cũng đều là một tiểu mỹ nhân hàng tiêu chuẩn. Vậy mà tên tiểu tử Đa Cát kia cứ vênh mặt lên câu được câu mất, làm bộ làm tịch, còn cô gái duyên dáng yêu kiều thi đứng mân mê vạt áo, ánh mắt chan chứa niềm vui. Trương Lập nhìn mà tức muốn xịt khói ra mồm, đến cả Trác Mộc Cường Ba cũng không khỏi thầm lắc đầu.
Không hiểu Đa Cát dùng cách gì mà khiến cô gái trẻ ấy ngoan ngoãn xua đàn dê về trước, còn anh ta thì dẫn Thánh sứ đại nhân vào thôn, trông như cáo mượn oai hùm, rất lấy làm vênh vang đắc ý. Trác Mộc Cường ba nói: ” Đó là Ca Ca phải không? Cô bé ấy đối với cậu cũng tốt lắm mà, sao vừa gặp mặt đã quở trách người ta rồi? “
Đa Cát làu bàu: ” Cái con bé đần ấy, tôi là thợ săn ưu tú nhất trong thôn cơ mà, còn cô ta chẳng qua chỉ biết chăn cừu với dệt vải thôi, bọn nha đầu trong thôn đứa nào mà chẳng biết làm mấy việc ấy. Nếu bây giờ mà nói chuyện tử tế ôn tồn với thị, sau này làm sao dạy dỗ được. Nhiệm vụ chủ yếu của đàn bà là sinh con đẻ cái với cả phục vụ đàn ông, tôi thật chẳng thể hiểu nổi, sao lại có loại đàn bà có thể đi khắp mọi nơi với các bậc lão gia thế cơ chứ.” Trác Mộc Cường Ba vội cảnh giác đưa mắt liếc nhìn, cũng may là Lữ Cánh Nam đứng ở phía sau không nghe thấy, bằng không nắm đấm của bà mợ giáo quan này mà giáng xuống, e rằng sẽ khiến chàng lùn này lại lùn thêm một mẩu nữa mất.
Trở về thôn Công Bố, có không ít dân làng chen nhau ra phía trước xem Thánh sứ, tự nhiên cả đoàn lại được sắp xếp về gian phòng lớn đêm qua để nghỉ ngời, được dâng lên dê nướng cả con và bánh rán thượng hảo hạng. Cũng không hiểu Đa Cát nói gì mà thuyết phục được ba vị trưởng lão đồng ý với yêu cầu của Trác Mộc Cường ban, nhưng họ chỉ chịu gặp một mình gã thôi.
Căn phòng rất lớn, rất trống trải, sàn nhà trải thảm lông cừu Phổ Lỗ màu đỏ, bốn vách sáng đèn, trần nhà vẽ hình báo bảo cát tường; chính giữa có một cái lò, khói hương vấn vít, phía sau lò đặt một hương án bày các loại pháp khí và đồ thờ, sau lưng hương án là một bệ đá, một pho tượng thần ba mặt mười tám tay từ trên cao nhìn xuống, dõi mắt quan sát chúng sinh; các bức tường chính hai bên đều có cửa ngách, rèm buông che kín. Ba vị trưởng lão trong cửa ngách bước ra, Trác Mộc Cường Ba đứng giữa sảnh chăm chú quan sát, chỉ thấy cả ba trưởng lão đều là bậc cao niên, râu tóc bạc trắng, trên người khoác áo choàng Phổ Lỗ, đeo Phật châu pháp khí, tay cầm chuyển luân. Nhờ có Đa Cát, Trác Mộc Cường Ba biết được vị trưởng lão có vầng trán rộng đứng giữa tên là Niết Trát Tây Đơn Ba, người mũi sư tử đứng bên phải tên là Côn Giang Anh Đạt Kiệt, người lông mi dài đứng bên trái gọi là Nương Đa Cát Cách Liệt. Ba vị trưởng lão trông thấy Trác Mộc Cường Ba chẳng buồn nói năng gì, cứ thế người cầm tay, kẻ sờ trán, lại vạch mí mắt lên xem nữa, làm như đang kiểm tra toàn bộ thân thể gã vậy. Trác Mộc Cường Ba cho rằng đây là lễ tiết đặc thù của địa phương, bản thân gã lại chẳng biết trả lễ thế nào, chỉ đành đờ ra như người gỗ mặc ba vị trưởng lão điều khiển. Nghi lễ gần như là kiểm tra sức khỏe này diễn ra gần ba mươi phút đồng hồ mới kết thúc, vị trưởng lão tên là Đơn Ba cất tiếng hỏi: ” Không biết Thánh sứ hẹn gặp ba lão già chúng tôi có chuyện gì vậy? “
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi muốn làm rõ thân phận Thánh sứ này của mình. Dám hỏi ba vị đại sư tại sao lại phán đoán tôi là Thánh sứ vậy? “
Cách Liệt trưởng lão nói: ” Tại sao Thánh sứ lại hỏi vấn đề này? Phải chăng ngài hoài nghi bọn lão? “
Trác Mộc Cường Ba vội nói: ” Không, không phải. Tôi chỉ muốn biết thôi, vì xưa nay tôi chưa từng nghe nói chuyện này bao giờ, liệu có liên quan đến Thiên Châu trên người tôi hay không? “
Đơn Ba trưởng lão lắc đầu: ” Thiên châu này đích thực là một món thánh vật tột cùng quý giá, nhưng không liên quan đến thân phận Thánh sứ của ngài, mong rằng Thánh sứ hãy bảo quản cho tốt, chớ nên tùy tiện cho người ta thấy.”
Trác Mộc Cường Ba lại nói gần xa vòng vo hỏi thêm mấy câu nữa, từ đầu đến cuối nhất nhất đều do Đơn Ba trưởng lão và Cách Liệt trưởng lão trả lời, Đạt Kiệt trưởng lão không hề hé môi, nét mặt nghiêm trang như một vị phán quan quyền uy. Mà hai vị trưởng lão kia mồm miệng cũng hết sức kín kẽ, nếu không phải nói những chuyện không liên quan thì đều cố ý lảng tránh, tuyệt đối ngậm miệng không nhắc đến nguồn gốc thân phận Thánh sứ của Trác Mộc Cường Ba chút nào.
Liên tiếp mấy lần đều không hỏi ra được, Trác Mộc Cường Ba đã hơi sốt suột, lời lẽ dần trở nên đanh sắc hơn. Lúc này, Đạt Kiệt trưởng lão từ đầu đến giờ vẫn chưa nói lời nào mới lên tiếng: ” Vấn đề xác nhận thân phận của Thánh sứ đại nhân, chúng tôi tuyệt đối sẽ không để lộ ra chút gì đâu, bởi ở thê giới ngoài kia, rốt cuộc có bao nhiều kẻ muốn tìm kiếm Hương Ba La, ấy là điều chúng tôi không thể xác định được. Nếu cách thức xác nhận thân phận Thánh sứ bị tiết lộ ra ngoài, đám người tham lam ấy sẽ lấy chiêu bài Thánh sứ đi khắp nơi lừa gạt. Thôn làng chúng tôi vì dễ dãi tin người mà đã phải chịu tổn thất nặng nề không sao bù đắp nổi, vì thế…chắc chắn ngài có thể hiểu cho chúng tôi phải không, Thánh sứ đại nhân? “.
Trác Mộc Cường Ba chỉ muốn biết tại sao Merkin lại trở thành Thánh sứ, nghe Đạt Kiệt trưởng lão nói thế, đoán chừng là không có khả năng hỏi ra được rồi, nặng nề “hừ” khẽ một tiếng, gật gật đầu.
Đạt Kiệt trưởng lão lại tức thì hỏi ngay: ” Có điều, tôi muốn hỏi Thánh sứ một vấn đề, không hiểu có được hay chăng? “
Trác Mộc Cường Ba lại gật gật đầu. Đạt Kiệt trưởng lão bèn nói: ” Thánh sứ đại nhân từ Châu Mỹ xa xôi ngàn dặm về đất Tạng này, kết nên mối duyên không thể tháo gỡ với Bạc Ba La thần miếu, ngài có cảm thấy rằng, một loạt những chuyện xảy ra với mình chỉ là một sự trùng hợp hay không? “
Trác Mộc Cường Ba đã đoán biết ý của Đạt Kiệt trưởng lão, gã mỉm cười hỏi: ” Không biết đại sư muốn nói với tôi chuyện gì vậy? “
Đạt Kiệt trưởng lão chậm rãi nói: ” Thánh sứ đại nhân có bao giờ nghĩ rằng tất cả mọi chuyện này đều không ngẫu nhiên, mà do Phật tổ vạn năng đã sắp đặt từ ngàn năm về trước hay không? Đời này Thánh sứ đại nhân đã được định sẵn là gắn liền với Bạc Ba La thần miếu, mặc dù ngài ở đâu, mặc cho ngài là thân phận gì, rốt cuộc ngài vẫn sẽ biết về sự tồn tại của thần miếu và lên đường tìm kiếm. Không phải ngài đi tìm nó, mà là nó đang gọi ngài, đây là một con đường trở về.” Nhìn điệu bộ nghiêm túc lại như cố tình làm ra vẻ thần bí của Đạt Kiệt trưởng lão, Trác Mộc Cường Ba thản nhiên cười đáp: ” Xin lỗi, đã vô ý mạo phạm đến địa vị của Thần hay Phật trong lòng đại sư rồi, nhưng tôi là kẻ theo thuyết vô thần, tôi chỉ tin vào khoa học. Tôi tin rằng, trên thế gian này không có Thần mà cũng chẳng có Phật, tất cả đều do chính con người sáng tạo ra thôi.” Nói xong, gã im lặng chăm chú quan sát nét mặt Đạt Kiệt trưởng lão.
Nằm ngoài dự đoán của Trác Mộc Cường Ba, Đạt Kiệt trưởng lão dường như đã biết trước gã sẽ trả lời như vậy, lại tiếp tục nói: ” Không, không phải Thánh sứ đại nhân không tin, mà chỉ là thời cơ chưa tới. ngài vẫn còn chưa thức tỉnh, khi ngài thức tỉnh, ngài sẽ tin vài Đức Phật toàn năng. Người ở ngay bên cạnh ta, người quan tâm săn sóc hết thảy chúng sinh, đồng thời chủ đường dẫn lối cho ta. Thế giới bên ngoài kia không như ngài nhìn thấy đâu, có những sự thật đã bị che đậy đi rồi, càng đến gần Bạc ba La, Thánh sứ đại nhân sẽ càng đến gần chân tướng sự thật. Cuối cùng rồi sẽ đến một ngày, ngài sẽ thức tỉnh.”
Trước ánh mắt chằm chặp của ba vị trưởng lão, Trác Mộc Cường Ba hờ hững nói: “Ba vị đại sư, với Thánh sứ nào các vị cũng đều nói như vậy phải không? “
“Không” Đạt Kiệt trưởng lão khẳng định chắc chắn: ” chỉ có ngài. Bởi vì ngài là vị Thánh sứ có pháp tướng và huệ căn nhất mà chúng tôi từng gặp, Phật Tổ vạn năng đã minh thị, cửa lớn của Thánh miếu sẽ được bàn tay ngài mở ra” Nói xong, ba vị trưởng lão đều hơi cúi đầu về phía trước, ánh mắt nghiêm trang nhìn Trác Mộc Cường Ba chằm chằm, nửa như dò xét, lại nửa như đang khẳng định những lời vừa nói ra.
Bị ba ông già nhìn xoáy chòng chọc, Trác Mộc Cường Ba hơi có chút lúng túng không biết phải làm sao, ngượng ngập cười, chuyển sang hỏi câu khác: ” Vậy các vị trưởng lão biết được bao nhiêu chuyện về Thánh địa mà các vị bảo vệ? Ví dụ Đảo huyền Không tự và Hương ba La là gì chẳng hạn? “
Đơn Ba trưởng lão nói: “Khởi nguyên và vị trí địch xác của Thánh địa thì chúng tôi không rõ tường tận, chúng tôi chỉ là người canh gác, tất thảy những chuyện liên quan tới Thánh địa đều chỉ biết được qua lời kể của đời trước và ghi chép trong thôn. Đảo Huyền Không tự là nơi tu hành của thánh nhân thời xưa, một nơi quanh năm không thấy ánh mặt trời, thuở trước tất cả mọi ôn dịch, bệnh tật, yêu ma quỷ quái đều sinh sôi nảy nở ở chốn ấy. Các thánh nhân đã lấy thân mình xua đuổi bóng đêm, mang đại đức đại trí đối kháng với loài ma quỷ, xây dựng ở đó tượng Thần Thông thông thiên triệt địa, trấn áp tất cả mọi yêu ma, từ đó đất Tây tạng mới được bình yên. Còn Bạc Ba La mà Thánh sứ đại nhân đang tìm kiếm, chúng tôi chắc chắn chính là Thánh địa Hương Ba La trong ghi chép của thông Công Bố này, nơi ấy là chốn tịnh địa cuối cùng của nhân gian. Nhưng các vị thần minh không chịu dễ dàng để con người đạt đến, vì vậy đã đem đặt vào trung tâm địa ngục A Tỳ, chỉ có vị dũng sĩ dám vượt qua địa ngục mới có thể tìm thấy…” Mặc dù các vị trưởng lão không nói gì về bộ tộc Qua Ba và Đạo quân Ánh sáng, mà từ đầu chí cuối câu chuyện truyền thuyết chỉ nhắc tới thánh nhân và tiên tổ, song Trác Mộc Cường ba vẫn phảng phất nhận ra bóng dáng của bộ tộc Qua Ba qua lời kể. Hương Ba La trong lời các vị trưởng lão và trong truyền thuyết không khác nhau nhiều lắm, đều là chốn thiêng liêng thanh khiết, muốn đến được phải vượt trùng trùng hiểm nguy và có thần minh phù hộ nữa. Lần này đúng là Trác Mộc Cường ba không tìm hiểu được mấy thông tin hữu dụng, mà ngược lại còn phải nghe thêm một đống chuyện thần thoại khác.
Trác Mộc Cường Ba biết có hỏi nữa cũng không được thêm cái gì hữu ích, chuẩn bị đứng dậy rời đi. Trước khi cáo từ ba vị trưởng lão, gã làm như vô tình hỏi một câu: “Ba vị trưởng lão dường như biết rất nhiều truyền thuyết và thần thoại Tây Tạng cổ, không rõ các vị có từng nghe nói đén truyền thuyết về Tử kỳ lân bao giờ chưa? “
Có lẽ ngôn ngữ có sự sai biệt, nên ba vị trưởng lão không hiểu ra ngay lập tức. Trác Mộc Cường Ba cũng ý thức được vấn đề này, liền vội càng giải thích: “Chiến ngao, Tạng ngao, chó lớn, lông dài, con chó lớn cao ngần này này.” Gã vừa nói vừa khua tay múa chân diễn tả.
Cuối cùng, Đơn ba trưởng lão là người đầu tiên hiểu ra, lập tức bật ra một tràng âm thanh dài liên miên. Trác Mộc Cường Ba nghe lơ mơ chữ được chữ mất, chỉ biết đại khái nghĩa là: “bảo hộ, canh giữ”, “linh hồn kiên định”, “chí cao vô thượng”…nhưng rốt cuộc là để biểu đạt điều gì thì gã lại không hiểu cho lắm.
Nhìn vẻ mặt hoang mang của Trác Mộc Cường Ba, Cách Liệt trưởng lão liền bật ra một từ mà dường như tất cả dân Tạng đều đã nghe mãi quen tai: “Sói tuyết cao nguyên.”
“Hả, không, không phải” Trác Mộc Cường Ba lắc đầu. “Không, sói tuyết cao nguyên tôi cũng biết, nhưng đó là một loại thần thú khác trong truyền thuyết, không phải là chiến ngao, ” Dứt lời, gã dợm đứng lên định bỏ đi. Nhưng câu hỏi của gã dường như đã khiến ba vị trưởng lão hết sức hứng thú, chỉ nghe Cách liệt trưởng lão nói: “Thánh sứ đại nhân đợi một lát.” Ông già nói xong quay người đi vào nhà trong luôn, không lâu sau run rẩy bưng ra một tấm thang- ka (tranh thờ) cuộn tròn, mở ra thấy có vô số hình am thờ Phật nho nhỏ được vẽ trên các đường quỹ đạo hình vuông và hình tròn, trong mỗi am thờ lại có vẽ một tượng Phật hình thù quái dị. Trác Mộc Cường Ba chưa bao giờ trông thấy những hình vẽ tượng Phật như thế, tất cả đều mặt xanh ba mắt trợn trừng răng nhe ra giận dữ, nhiều đầu nhiều tay, cầm các loại pháp khí bằng xương người, dáng dấp rất giống các tượng Phật gã gặp ở Cánh cửa sinh mệnh. Ở chính giữa bức thangka, có vô số am thờ Phật bao vây chung quanh, là một bức vẽ tượng Phật lớn màu đỏ rực, ba mắt giận dữ, mình khoác giáp trụ, bốn cánh tay dang ra, tay trên cầm pháp khí đầu lâu, xâu chuỗi đầu người, tay dưới cầm đao và rìu chiến bằng xương, hai bên tả hữu có hai đồng tử tướng mạo phẫn nộ, tay đao tay gậy, cưỡi trên tọa kỵ là một con tuyết ngao toàn thân trắng toát.
Túm lông bờm trắng như tuyết xõa tung, bốn chân thô chắc bám vững chãi trên mặt đất, những đường nét của cơ thịt được người họa sĩ vẽ thấp thoáng lúc ẩn lúc hiện dưới lớp lông trắng khiến thân thể con tuyết ngao lồ lộ tất cả mọi vẻ tráng kiện. Đặc biệt là đôi mắt, nhãn châu trong suốt sáng như viên ngọc lưu ly, tàng ẩn sát khí hừng hực, ánh nhìn dõi khắp bốn phương, khiến người đối diện không ai dám nhìn thẳng. Nhưng điều làm Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc nhất, chính là trên mình con tuyết ngao này, ngoài tấm nệm ngồi của tượng Phật, từ đầu đến đuôi còn phủ thêm một lớp giáp mềm ánh kim nữa. Lớp giáp mềm mại bằng sợi tơ vàng chói mắt và màu lông trắng như tuyết đó tương phản nhau rất mạnh, khiến con tuyết ngao càng thêm giống một vị đại tướng quân chuẩn bị xông ra trận tiền, khí phách phi phàm thừa đủ để trấn áp tất thảy mọi loài yêu ma quỷ quái.
Vì con tuyết ngao được vẽ rõ mồn một như thế, Trác Mộc Cường Ba gần như không cần nhìn kỹ đã tức khắc kêu lên: “Chiến ngao! ” Gã từng nghe vô số truyền thuyết về chiến ngao, nhưng rốt cuộc chiến ngao hình dáng như thế nào gã thật khó mà tưởng tượng nổi. Giờ được thấy con tuyết ngao mình phủ áo giáp oai phong lẫm liệt, rạng rỡ uy nghi trên bức thangka này, Trác Mộc Cường Ba lập tức hiểu ngay đây không phải là tuyết ngao thông thường mà là một con chiến ngao, đấu sĩ nắm giữ vận mệnh của cả chiến trường trong truyền thuyết cổ đại.
Cách Liệt trưởng lão đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, nói với giọng khẳng định: “Sói tuyết cao nguyên.”
“Chuyện này rốt cuộc là sao? ” Trác Mộc Cường Ba vỗn vẫn đinh ninh rằng sói tuyết cao nguyên không hề có mối liên hệ trực tiếp nào với chiến ngao, mà gã cũng chưa bao giờ thấy một bức vẽ thế này. Gã vươn tay ra, ngón tay tưởng chừng như chạm được vào bộ lông mềm mượt và các cơ bắp căng cứng.
Đơn Ba trưởng lão nói: “Đây là di vật của tổ tiên để lại. Vị này là Quỷ Vương Liệt Lệ Để, bảo vệ phía Tây Nam, tọa kỵ của ngài chính là sói tuyết cao nguyên.”
“Sói tuyết cao nguyên chính là chiến ngao? ” Trác Mộc Cường Ba nhíu mày suy nghĩ, đây là lần đầu tiên gã nghe nói vậy.