Một quý ông có bộ ria màu xám. Khoác một chiếc áo rơ-danh-gót màu hạt dẻ, đội chiếc mũ rộng vành bước vào nhà tôi, ông ta nói ngay:
– Nhận được bức điện tín của ông, tôi vội vàng đến đây. Có chuyện gì thế?
Nếu tôi không chờ Arsène Lupin thì chắc là không nhận ra anh ta dưới dáng vóc người lính già hưu trí đó.
– Chuyện gì à? Tôi đáp lại – Ôi, chẳng có gì lớn lắm đâu, một sự trùng hợp khá kỳ quặc thôi. Anh vui lòng làm sáng tỏ giúp những việc bí ẩn như thế này dùm tôi chứ!
– Làm sao?
– Anh phải khẩn trương đấy.
– Quá đúng, nếu công việc anh nói không đáng gì sao tôi lại phải bận tâm đấy. Thôi nào, thẳng vào việc đi!
– Thẳng vào việc à? Thì nào, anh bắt đầu nhé! Tôi yêu cầu anh ngó qua bức tranh nhỏ này. Tuần lễ trước tôi đã phát hiện trong một cửa hàng đầy bụi ở tả ngạn, tôi đã mua để lồng vào chiếc khung trang trí bằng hình hai lá cọ… Một bức tranh tồi.
– Rất tồi, quả thế – Một lát sau Lupin nói – nhưng đề tài thì tự nó không thiếu ý vị đâu… Cái góc nầy của mảnh sân cũ với cái đình tròn này có hàng cột kiểu Hy Lạp, chiếc đồng hồ mặt trời đây và cái bể với giếng thời Phục hưng mái sụt, các bậc lên xuống và chiếc ghế dài bằng đá của nó kia. Tất cả đều đẹp.
– Và xác thực – Tôi nói thêm – Tấm vải che, tốt hay xấu chưa bao giờ vén lên khỏi cái khung. Vả lại ngày tháng đánh dấu còn đây… Này, ở phía dưới, bên trái, những chữ số màu đỏ, 15 – 4 – 2, dĩ nhiên có nghĩa là 15 tháng tư 1802.
– Quả thế… quả thế.. Nhưng anh nói đến sự trùng hợp mà cho đến lúc này, tôi chẳng nhận thấy..
Tôi lấy một chiếc ống nhòm trong góc ra lắp trên một cái giá ba chân và tôi chĩa về phía cửa sổ mở toang của một gian phòng đối diện với căn hộ của tôi ở phía bên kia đường phố. Rồi tôi đề nghị Lupin nhìn vào.
Anh khom người. Mặt trời, ở giờ này chiếu xiên vào gian phòng, trong đấy người ta nhìn thấy bàn ghế, đồ gỗ màu gụ rất đơn sơ, một chiếc giường lớn của trẻ em có rèm che bằng vải cờ-rờ-ton.
– Ồ! – Bất thình lình Lupin nói – cùng một bức tranh như thế!
– Đúng, cũng như thế! Tôi khẳng định – và ngày, tháng – Anh xem ngày tháng bằng chữ đỏ đấy chứ? 15-4-2.
– Ừ, tôi thấy… và ai ở trong phòng ấy?
– Một là người đàn bà… hay đúng hơn là một nữ lao công, buộc phải làm việc để kiếm sống… những việc khâu vá mới nuôi sống chị ta và đứa con của chị.
– Tên chị ấy là gì?
– Louise d’Ernemont… Theo tôi biết thì chị ấy là chắt của một đại điền chủ bị lên máy chém dưới chế độ khủng bố.
– Cùng ngày với André Chénier – Lupin kết luận. Theo ký ức thời gian thì ngài Ernemont ấy rất giàu có.
Anh ngửng đầu lên để hỏi tôi:
– Câu chuyện lý thú đây… Tại sao anh lại chờ đến giờ mới kể cho tôi nghe?
– Bởi vì ngày hôm nay là mười lăm tháng tư.
– Thế nào?
– Thế này, từ ngày hôm qua tôi biết – nhờ chuyện bép xép của người gác cổng ấy mà – thì ngày 15 tháng tư chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống của Louise d’Ernemont.
– Không thể thế được!
– Trái với những thói quen của mình là ngày nào chị ấy cũng làm việc sắp xếp trật tự hai gian phòng trong căn hộ của chị, chuẩn bị bữa ăn trưa cho đứa con gái đi học ở trường làng về.. thì ngày 15 tháng tư chị lại cùng con gái ra đi lúc mười giờ cho đến xẩm tối mới về. Việc đó đã nhiều năm dù thời tiết như thế nào cũng thế. Anh phải thừa nhận điều ấy là lạ thường. Cái ngày tháng mà tôi thấy ghi trên một bức tranh cũ tương tự, quy định việc ra đi định kì hàng năm của người chắt của nhà đại điền chủ d’Ernemont là bất di bất dịch.
– Lạ đấy… anh nói có lý – Lupin chậm rãi tuyên bố – không ai biết được là chị ấy đi đâu à?
– Người ta mù tịt. Chị ta chẳng thố lộ cho ai hay. Vả lại chị ấy cũng ít nói nữa.
– Anh có chắc những thông tin của anh đưa ra là đúng không?
– Hoàn toàn như thế và có những bằng chứng để nói rằng những tin ấy là chính xác. Đấy là …
Một cánh cửa mở ra phía trước cho đứa bé gái độ bảy tám tuổi ra đứng cửa sổ. Sau đấy một người đàn bà hiện ra đằng sau nó, khá cao, còn đẹp, có vẻ dịu dàng và sầu muộn. Cả hai đã sẵn sàng; trang phục giản dị, nhưng ở người mẹ tỏ ra có lo lắng và vẻ lo âu.
Tôi nói thầm.
– Anh xem, họ sẽ ra đấy.
Quả vậy, sau một lát người mẹ nắm lấy tay con, rời khỏi căn phòng.
Lupin cầm mũ:
– Đi chứ?
Một sự tò mò rất mãnh liệt lôi kéo tôi làm cho tôi không thể từ chối. Tôi bước xuống cùng Lupin.
Vừa ra đến đường phố, chúng tôi nhìn thấy người nữ láng giềng của tôi bước vào một hiệu bán bánh mì. Chị mua hai chiếc bánh đặt vào chiếc làn con của đứa bé, trong đó có lẽ đã có các thức ăn khác. Rồi cả hai người đi về phía đại lộ, thẳng đến quảng trường Ngôi Sao. Đại lộ Kléber dẫn họ đến lối vào đường Passy.
Lupin lặng lẽ bước đi với một sự lo toan dễ thấy. Còn tôi, tôi vui mừng là đã lôi kéo được sự quan tâm của anh. Thỉnh thoảng chỉ một lời nói của anh cũng đã bộc lộ cho tôi biết được dòng suy nghĩ của anh và tôi có thể nhận thấy được ẩn số hãy còn nguyên vẹn chua hé mở đối với anh cũng như với tôi.
Nhưng Louise d’Ernemont rẽ xiên sang trái vào phố Raynouard, một phố cũ yên tĩnh, nơi Franklin và Balzac đã từng sống và nó được viền quanh bằng những ngôi nhà cổ và những căn vườn kín đáo làm cho ta có cảm giác như ở một tỉnh lẻ. Dưới chân sườn đồi của phố cũ nổi trội lên ấy là con sông Seine chảy qua và những con đường hẹp đổ xuống tận bờ.
Chính một trong những con đường hẹp và ngoằn ngoèo, và náo động ấy, người nữ láng giềng của tôi đã men xuống. Đầu tiên ở mé phải có một ngôi nhà, mặt trước quay ra phố Raynouard, rồi lại một bức tường mốc meo với độ cao thường gặp, có bó trụ và cắm mảnh chai tua tủa.
Đến chỗ giữa, một cái cửa tháp hình vòm cuốn trổ qua tường. Luise d’ Ernemont dừng lại ở đấy, mở ra bằng một chiếc chìa khóa rất lớn. Người mẹ và đứa con gái bước vào.
Lupin nói với tôi:
– Dù sao, người đàn bà ấy chẳng có gì che giấu cả, vì chị ta không quay lại lần nào…
Anh vừa nói xong thì có tiếng chân bước phía sau chúng tôi. Hai người hành khất già, một nam một nữ rách rưới, bẩn thỉu, quần áo vá chằng như tổ đĩa đi qua không hề chú ý đến sự có mặt của chúng tôi. Người đàn ông móc tay vào chiếc đãy của mình lấy ra một chiếc chìa khoá giống hệt như chìa khoá của cô láng giềng của tôi, rồi tra vào ổ. Cánh cổng đóng lại sau lưng họ.
Ngay lập tức, cuối con đường hẹp, có tiếng ô tô xịch đỗ lại. Lupin kéo tôi đi xuống thấp hơn năm mươi mét vào một chỗ hẻm vừa đủ cho chúng tôi ẩn náu. Rồi chúng tôi nhìn thấy một phụ nữ duyên dáng đeo đầy đồ nữ trang, bế một con chó con trên tay, đang đi xuống. Người đàn bà ấy có cặp mắt đen lánh, cặp môi quá mọng đỏ và làn tóc quá hoe vàng. Khi đến trước cửa, vẫn cùng một thao tác, cùng một chiếc chìa khoá như vậy… Nàng và con chó con biến mất.
– Sự thể bắt đầu trở nên vui nhộn đấy-Lupin cười khẩy – có thể những con người kia có sự trùng hợp nào đấy và có mối liên quan với nhau giữa người này với người khác chăng?
Lại lần lượt hiện ra hai người đàn bà đã có tuổi gầy còm, dáng vẻ trông khốn khổ và giống nhau như hai chị em ruột, rồi đến một người hầu phòng và một viên hạ sĩ lục quân, rồi một ông to lớn mặc áo ra-két vá và bẩn, rồi một gia đình thợ thuyền, tất cả đều xanh xao, ốm yếu, có vẻ như những con người không được ăn uống khi đói lòng. Những người mới đến, ai nấy đều có một cái làn hay một cái túi lưới mang theo đựng thức ăn.
– Đúng là một buồi pic nic – tôi kêu lên.
– Mỗi lúc một lạ lùng thật – Lupin nói-và tôi chỉ yên trí khi nào biết rõ điều gì xảy ra sau bức tường này.
Trèo lên tường, điều đó không thể được. Mặt khác chúng tôi thấy ở dưới tháp của con đường hẹp cũng như trên cao, dẫn đến hai ngôi nhà thì không có một cửa sổ nào mở ra phía tường vây quanh.
Chúng tôi cố tìm một cái mẹo nhỏ khi bất thình lình cánh cửa xịch mở cho một đứa con của người lao động ùa ra. Thằng bé chạy lên tận phố Raynouard. Sau vài phút nó trở về xách hai chai nước, đặt xuống đất để móc túi lấy ra chiếc chìa khoá to tướng.
Lúc này Lupin đã rời khỏi tôi và đi chậm từng bước dọc theo bức tường như một người đang đi dạo. Sau khi đứa trẻ vào trong tường vây, đẩy cánh cửa lại, anh nhảy đến rồi cắm mũi dao vào trong lẫy ổ khoá. Khi then khoá không còn bị kìm giữ nữa, một lực nhẹ đủ để cánh cửa hé mở. Lupin nói: – Thế là xong.
Anh thận trọng chui đầu vào, rồi trước sự ngạc nhiên của tôi, anh đã hoàn toàn lách cả người vào được. Tôi làm theo anh và đã nhận ra cách mười mét sau bức tường là một lùm cây thắng vút lên như một tấm màn che, cho phép chúng tôi tiến lên mà không bị phát hiện.
Lupin đứng giữa lùm cây. Tôi đến gần và cũng như anh, rẽ cành của một cây thắng. Thế là cảnh tượng bày ra trước mắt tôi hết sức bất ngờ, đến nỗi tôi không kìm giữ được một tiếng thốt lên. Trong khi đó, về phần mình Lupin đã chửi thề qua kẽ răng: – Mẹ kiếp! Thật buồn cười.
Chúng tôi đã có trước mặt trong một không gian thu hẹp kéo dài ra giữa hai ngôi nhà không có cửa sổ, cảnh bài trí cũng giống hệt bức tranh cổ mà tôi đã mua ở một người bán sách cũ.
Cùng cảnh bài trí ấy thực ra, sát với bức tường thứ hai, cũng cái đình tròn kiểu Hy Lạp như vậy, phô ra hàng cột mảnh của nó. Chính giữa, cũng những chiếc ghế dài bằng đá cao hơn hẳn cái vòng tròn bốn bậc kéo xuống tận một cái bể có hai tấm lát mốc meo. Ở bên trái cũng một cái giếng như thế có mái phía trên bằng thép, trau chuốt công phu. Rồi rất gần, cũng cái đồng hồ mặt trời để lộ mũi tên theo kiểu của nó và cái mặt đá cẩm thạch.
Cũng cảnh bài trí ấy. Và điều lạ lùng hơn của cảnh tượng ấy là ký ức về thời gian ngày 15 tháng tư, và đấy là ý niệm về cái ngày chính xác ấy, chúng tôi đã có mặt đúng vào ngày 15 tháng tư và có từ mười sáu đến mười tám con người rất khác nhau về tuổi tác, về thân phận và về phong cách đã chọn ngày 15 tháng tư để tụ tập lại ở cái xó hẻo lánh này của Paris.
Tất cả, ở cái giây phút mà chúng tôi trông thấy, bọn họ ngồi thành từng nhóm riêng biệt trên những chiếc ghế dài và những bậc tam cấp, đang ăn uống. Gần với người láng giềng của tôi và đứa con gái của chị là gia đình những người lao công và hai người ăn mày hợp lại trong khi đó người hầu phòng và người đàn ông mặc áo ra két cáu bẩn, người hạ sĩ lục quân và hai chị em gầy còm tập trung những lát thịt giăm bông, những hộp cá tầm và phô – mát của họ lại.
Bấy giờ đã là một giờ mười phút. Người ăn mày cũng như người đàn ông bắt đầu hút thuốc gần cái đình nóc tròn và những người đàn bà đến gặp họ. Kể ra những người ấy có vẻ quen biết nhau.
Họ ở khá xa chúng tôi đến mức chúng tôi không nghe được lời nói của họ. Tuy vậy chúng tôi thấy được cuộc chuyện trò của họ trở nên sôi nổi. Nhất là cô gái có con chó con lúc này được nhiều người săn đón, nói dông dài và làm những cử chỉ khích động con chó con để làm cho nó sủa lên dữ dội.
Nhưng bỗng nhiên có một tiếng thét và ngay lập tức những tiếng kêu la giận dữ, rồi tất cả, đàn ông và đàn bà hỗn loạn chạy đến cái giếng. Ngay lúc ấy một thằng bé con của người lao công từ đấy trồi lên, thắt lưng bị móc vào một cái móc sắt buộc ở cuối một sợi dây thừng. Ba thằng nhóc khác quay tay kéo nó lên. Người hạ sĩ nhanh nhẹn lao đến và ngay lập tức người đàn ông to lớn và người hầu phòng nắm lấy nó, trong khi đó những người ăn xin và người chị em gầy còm đánh nhau với cặp vợ chồng lao công.
Trong vài giây không còn lại một chiếc áo sơ mi cho thằng bé. Chủ của quần áo, người hầu phòng chạy đến, bị người hạ sĩ đuổi theo giật mất chiếc quần cụt và chiếc quần lại bị một trong hai chị em gầy còm chiếm lại từ người hạ sĩ.
Tôi hoàn toàn ngơ ngác, thầm thốt lên:
– Chúng nó điên rồ hết cả rồi.
– Không đâu, không đâu – Lupin nói.
– Sao thế? Anh hiểu được điều gì trong việc này à?
Cuối cùng, sau một lát bàn cãi, Louise d’Ernemont tự cho mình là người hoà giải đã làm dịu được cơn náo loạn. Người ta lại ngồi xuống, nhưng có một sự phản ứng ở tất cả những con người bực dọc ấy, vì họ đã ngồi im và ít nói giống như căng thẳng, mệt nhoài.
Và thời gian trôi đi, sốt ruột và bắt đầu cồn cào vì đói, tôi phải ra ngoài tìm thức ăn tận phố Raynouard. Chúng tôi vừa chia nhau ăn vừa theo dõi từng diễn viên hài kịch khó hiểu đang trình diễn trước mắt chúng tôi. Mỗi phút dường như đè nặng lên bọn họ một nỗi buồn lớn dần lên và bọn họ có những thái độ nản lòng mỗi lúc một còng lưng xuống, mải mê trong trầm ngâm, im lặng.
– Họ sẽ ngủ lại ở đây à? Tôi thốt lên chắn nản.
Nhưng mãi đến năm giờ, người đàn ông to cao mặc áo rakét cáu bẩn rút đồng hồ quả quýt ra. Người ta bắt chước ông và tất cả những chiếc đồng hồ của họ đã ở trong bàn tay. Họ có vẻ như lo âu chờ đợi một kết quả vô cùng quan trọng đối với họ. Sự việc không xảy ra bởi vì sau mười lăm, hai mươi phút người đàn ông cao lớn có một cử chỉ thất vọng, đã đứng lên và đội mũ.
Bấy giờ những tiếng khóc nổi lên. Hai người chị em gầy còm và vợ của người lao công quì xuống làm dấu thắnh. Cô gái có con chó và người đàn bà ăn xin ôm nhau khóc sướt mướt; chúng tôi bắt gặp Louise d’Ernemont siết chặt con gái vào lòng với một cử chỉ buồn rầu.
– Chúng ta đi thôi – Lupin nói.
– Anh tin là buổi diễn này xong rồi à?
– Ừ và chúng ta chỉ có thì giờ để chuồn khỏi đây.
Chúng tôi ra đi không có trở ngại gì. Trên cao của đường phố Raynouard, Lupin quay sang bên trái để tôi ở ngoài, anh bước vào ngôi nhà đầu tiên, ngôi nhà cao hơn khu có tường vây.
Sau một lát nói chuyện với người gác cổng, anh gặp lại tôi và chúng tôi chận một chiếc ô tô bắt nó dừng lại.
– 34 phố Turin – anh nói với người lái xe.
Ở số 34 của phố này, tầng trệt là văn phòng của công chứng viên và hầu như ngay lúc ấy chúng tôi được dẫn vào phòng làm việc của thầy Valandier, một người đàn ông đứng tuổi, nhã nhặn và tươi vui…
Lupin tự giới thiệu với cái tên là đại uý nghỉ hưu Janniot, ông muốn tậu đất xây một ngôi nhà vừa ý và người ta đã nói với ông về một mảnh đất gần phố Raynouard – Nhưng mảnh đất ấy không bán! Thầy Valandier kêu lên.
– Ồ, người ta đã nói với tôi…
– Không, tuyệt nhiên không. Người công chứng viên đứng dậy và lấy một đồ vật trong tủ ra, đưa cho chúng tôi xem. Tôi ngạc nhiên. Đấy cũng chính là bức tranh mà tôi đã mua và cũng là bức tranh như ở nhà Louise d’Ernemont.
– Nó có quan hệ đến mảnh đất mà bức tranh vải này thể hiện, bức tranh d’ Ernemont như người ta thường gọi phải không?
– Đúng thế. Người công chứng viên lại nói:
– Ờ, mảnh đất rào kín ở trong một khu vườn thuộc quyền sở hữu của người đại điền chủ d’Ernemont bị hành quyết dưới chế độ khủng bố (thời Cách mạng). Tất cả những cái có thể bán được thì những người thừa kế đã bán dần. Nhưng mảnh cuối cùng này thì để lại và sẽ để lại làm của chung. Nếu không thì…
Người công chứng viên bắt đầu cười.
– Nếu không thì thế nào? Lupin hỏi.
– Đấy là toàn bộ một câu chuyện khá lạ lùng, vả lại, từ đó đôi khi tôi lấy làm vui thú đọc tập hồ sơ dày cộp này đây.
– Liệu có tò mò không đây?
– Không chút nào, thầy Valandier tuyên bố.
Có vẻ như ông rất vui, trái với việc sắp xếp câu chuyện ông kể. Rồi không để chúng tôi đề nghị, ông bắt đầu:
– Ngay từ lúc đầu cuộc cách mạng, Louis Agrippa d’Ernemont với cái cớ trở về gặp vợ và con gái Pauline của họ ở Geneve, ông đã đóng cửa khách sạn của mình ở ngoại ô Saint-Germain, thải hồi đầy tớ rồi cùng con trai là Chalers và bà giúp việc trung thành đến ở ngôi nhà nhỏ của mình ở Passy, nơi không ai quen biết ông cả. Ông giấu mình ở đấy suốt ba năm và ông có thể hy vọng việc ẩn cư của mình sẽ không bị phát hiện. Cho đến một hôm, sau bữa cơm, ông đang ngủ trưa thì bà đầy tớ già vội vàng bước vào phòng ông thông báo cho ông rằng bà nhác thấy một tốp tuần tra vũ trang ở cuối phố, hình như đang hướng về ngôi nhà nhỏ. Louis d’Ernemont khẩn trương chuẩn bị thì ngay lập tức bọn người có súng ống ập đến đập cửa, ông đã nhanh chóng ra cửa thông ra vườn và gọi con trai của ông bằng giọng hốt hoảng: – Giữ chúng nó lại… chỉ cần trong năm phút…
– Ba định trốn ư? Ba có trông thấy các lối thoát của căn vườn đã bị canh gác không?
Bảy tám phút sau ông ta trở lại, rất bình tĩnh trả lời các câu hỏi và không gây một trở ngại nào để đi theo những người đàn ông đó. Charles, con trai của ông mặc dù chỉ mười tám tuổi cũng bị dẫn đi.
– Việc ấy đã xảy ra?.. Lupin hỏi.
– Việc ấy xảy ra ngày 26 tháng nảy mầm năm thứ II, có nghĩa là ngày…
Thầy Valatidier dừng lại, mắt liếc về phía tấm lịch treo tường, rồi ông kêu lên:
– Nhưng chính xác là ngày hôm nay. Chúng ta đang là ngày 15 tháng tư, ngày kỉ niệm người đại điền chủ bị bắt.
– Sự trùng hợp lạ lùng – Lupin nói – và sự bắt giữ này xét về thời đại có những hậu quả nghiêm trọng ư?
– Ồ khá nghiêm trọng – người công chứng viên cười – ba tháng sau, bắt đầu vào tháng Thermidor, người con trai của ông đang ngồi tù và tài sản của họ bị tịch thu hết.
– Tài sản lớn lắm phải không? Lupin hỏi.
– Thế đấy! Chính xác là từ đấy sự việc trở nên phức tạp. Quả vậy, tài sản của ông ta rất lớn nhưng tịch thu không được bao nhiêu. Người ta nhận thấy rằng toà nhà ở ngoại thành Saint-Germain, tài sản biết rõ nhất trước cách mạng đã bán cho một người Anh cùng với các lâu đài và đất đai ở tỉnh cũng như tất cả đồ nữ trang, cổ phiếu và các bộ sưu tập của nhà đại điền chủ. Toà đốc chính xếp những cuộc điều tra tỉ mỉ, nhưng không đạt được một kết quả nào. Không tìm thấy dấu vết của những món tài sản đó.
– Ít ra cũng còn lại được ngôi nhà ở Passy chứ? – Lupin nói.
– Ngôi nhà ở Passy đã bán với giá rẻ như bèo cho chính người đại diện của công xã, người đã bắt d’Ernemont; đó là Công dân Broquet. Công dân Broquet ở trong nhà, đóng hết cửa lại ngáng hết cửa đi, gia cố tường vách và cuối cùng khi Charles d’Ernemont được tự do, trình diện để đòi nhà thì ông ta đã đón tiếp bằng báng súng. Charles đệ đơn kiện, thua cuộc nên phải cam đoan một số tiền lớn. Tay Công dân rất khó chơi, đã mua ngôi nhà và có thể giữ ngôi nhà ấy cho đến khi chết nếu Charles không được chỗ dựa của Bonaparte. Ngày 12 tháng hai năm 1803 Công dân Broquet bỏ nhà cửa ra di. Charles vui mừng đến nỗi vừa đi đến thềm của ngôi nhà mới giành lại được chưa kịp mở cửa, đã bắt đầu nhảy múa và ca hát. Có lẽ trí óc của ông ta đã bị đảo lộn dữ dội bởi tất cả những thử thách ấy, ông ta đã hoá điên Lupin cằn nhằn:
– Quái thật! Rồi ông ta ra sao?
– Mẹ và chị Pauline của ông ta đã lấy chồng là người anh họ con cậu ở Genève – cả hai đã chết; bà đầy tớ già nhận trách nhiệm chăm sóc ông và họ cùng sống trong ngôi nhà Passy. Nhiều năm trôi qua, không có biến cố nào đáng kể, nhưng bỗng dưng năm 1812, một chuyển biến bất ngờ xảy ra. Ở cạnh giường ông Charles nằm chết, bà đầy tớ già đã tiết lộ những chuyện rất lạ trước hai người làm chứng mà bà mời đến. Bà nói rằng khi bắt đầu cuộc cách mạng, người đại điền chủ, ông Luis ấy, đã chuyển bao đựng vàng và bạc đến ngôi nhà Passy và những bao ấy đã biến mất trước khi ông bị bắt giữ vài ngày. Theo lời kể trước đây của Charles d’Ernemont thì anh thừa kế những báu vật cha anh cất giấu trong vườn giữa cái đình mái tròn, cái đồng hồ mặt trời và cái giếng. Như là bằng chứng, bà đầy tớ già chỉ vào ba bức tranh hay đúng hơn là ba mảnh vải (vì những bức tranh không đóng khung) mà người đại điền chủ đã vẽ suốt thời gian ông bị cầm tù. Ông đã yêu cầu bà giao các bức tranh cho vợ của ông, cho con trai và con gái của ông. Bị cái mùi phú quí cám dỗ, Charles và bà vú đã giữ im lặng. Nhưng rồi vụ kiện đã nổ ra, việc chiếm lại ngôi nhà, hành động điên rồ của Charles, những cuộc tìm kiếm của cá nhân Charles và của bà đầy tớ già đều vô vọng. Những báu vật vẫn còn đấy.
– Thế là kho báu vẫn còn. Lupin cuời khẩy.
– Vẫn còn đấy-thầy Valdndier nói – Trừ phi gã Công dân Broquet có lẽ đã đánh hơi được điều gì mà hắn chưa tìm được. Giả thuyết này rất ít có khả năng vì Công dân Broquet đã chết trong cảnh đói nghèo.
– Sao?
– Thế là người ta lại tìm. Mấy đứa con của người chị gái Pauline từ Genève nhào về – người ta cho biết là Charles đã lén lút cưới vợ và đã có con. Tất cả những người thừa kế ấy đều bắt đầu vào việc.
– Nhưng Charles?
– Charles triệt để sống cuộc đời ẩn cư. Không đi khỏi phòng của mình.
– Không bao giờ à?
– Có chứ, thật ra có cái gì đấy thật lạ lùng, thật kỳ quặc trong cuộc phiêu lưu. Cứ mỗi năm một lần, do ý muốn vô ý thức thúc đẩy, Charles d’Ernemont đã xuống theo con đường mà cha của ông ta đã lần đi, xuyên qua căn vườn và ngồi xuống khi thì trên những bậc tam cấp của cái đình tròn mà ông đã thấy ở bức vẽ đây, khi thì trên thành giếng này. Đến năm giờ hai mươi bảy phút ông đứng dậy ra về, và cứ thế, cho đến lúc ông chết đột tử vào năm 1820, không năm nào ông thiếu vắng cuộc hành hương khó hiểu ấy. Nhưng cái ngày ấy, ngày 15 tháng tư, ngày kỉ niệm cuộc bắt giữ…
Thầy Vanlandier không cười nữa, tự thầy cũng bối rối về câu chuyện thầy kể cho chúng tôi.
Sau một lát ngẫm nghĩ, Lupin hỏi:
– Thế từ khi Charles chết?
Người công chứng viên lại nói với vẻ trịnh trọng:
– Từ thời ấy đã đến một trăm năm, những người thừa kế của Charles và của Pauline d’Ernemont tiếp tục cuộc hành hương 15 tháng tư. Những năm đầu, nhiều cuộc đào bới, khai quật tỉ mỉ đã được thực hiện. Không một tấc vườn nào, người ta không dò xét tìm kiếm. Không một hòn đất nào không được lật lên. Bây giờ thì đã hết. Vừa mới tìm kiếm xong, dù không có nguyên cớ gì, thỉnh thoảng người ta vẫn nhấc một tảng đá lên hay người ta thăm dò đáy giếng. Không thì người ta ngồi trên những bậc tam cấp của đỉnh tròn như anh chàng điên rồ, đáng thương và người ta chờ đợi. Và ông xem, đấy là nỗi buồn của số phận họ. Từ một trăm năm nay tất cả bọn họ nối tiếp nhau, đời cha rồi đến đời con, tất thảy, họ đều thất bại. Mà rồi như thế nào nhỉ?… Sức mạnh của hy vọng. Họ không còn can đảm, không còn sáng kiến. Họ chờ đợi. Họ chờ ngày 15 tháng tư đến, họ chờ một phép lạ xảy ra. Cuộc sống, rồi kiếp khốn cùng lại chiến thắng họ. Các bậc tiền nhiệm của tôi và tôi, dần dần chúng tôi bán đi trước tiên là ngôi nhà, để xây lên một ngôi nhà mới ở nơi khác có lợi hơn. Rồi đến những mảnh nhỏ của căn vườn rồi đến những mảnh khác, nhưng cái góc ấy, họ thà chết hơn là chuyển nhượng. Duy nhất việc đó là mọi người nhất trí như Louise d’Ernemont người trực tiếp thừa kế của Pauline, như những người ăn xin, những người thợ, người hầu phòng, người nghệ sĩ nhào lộn của rạp xiếc v.v…; họ đại diện cho chàng Charles khốn khổ ấy.
Lại một sự im lặng mới. Lupin nói:
– Ý kiến của thầy như thế nào, thầy Valandier?
– Ý kiến cùa tôi là chẳng có gì cả. Tin gì được lời nói của một bà vú già ốm yếu vì tuổi tác? Quan trọng gì lại chú ý đến những ý ngông của một người điên? Vả lại nếu người đại điền chủ đã bán hết cơ nghiệp của mình đi, thì ông đừng nghĩ rằng cơ nghiệp ấy ấy sẽ tìm thấy lại được, phải không? Trong một không gian chật hẹp như chỗ ấy người ta giấu một tờ giấy, một vật quí giá thì có lý, chứ không thể là kho báu được.
– Nhưng những bức tranh?
– Vâng, tất nhiên. Nhưng không sao, chúng có phải là một bằng chứng đầy đủ đâu?
Lupin cúi người trên bức tranh mà người công chứng viên đã lấy trong tủ ra và sau khi xem xét rất lâu, anh nói:
– Thầy đã nói ba bức tranh cơ mà?
– Đúng, một bức là ở đây do những người thừa kế của Charles trao lại cho người tiền nhiệm của tôi: Louise d’Ernemont có một bức. Còn về bức tranh thứ ba, người ta không biết nó ra sao.
Lupin nhìn tôi và nói tiếp:
– Và mỗi bức tranh đều có ghi cùng một ngày tháng như nhau chứ?
– Vâng, Charles d’Erneniont đã ghi lúc ông ta đưa người đóng khung trước khi ông qua đời một thời gian ngắn… Cũng ngày tháng ấy, 15-4-2 tức là ngày 15 tháng tư, năm II theo lịch Cách mạng, và việc bắt giữ xảy ra hồi tháng tư năm 1794.
– Ồ! Tốt lắm, tuyệt vời – Lupin nói – con số 2 có nghĩa là…
Anh còn ngẫm nghĩ một lát rồi lại nói:
– Xin hỏi một câu nữa, thấy đồng ý chứ? Chưa bao… giờ có ai tự đứng ra giải bài toán này à?
Thầy Valandier nhún vai:
– Ông nói gì đấy! Người công chứng viên thốt lên – nhưng đấy là nỗi đau của nghiên cứu. Từ năm 1820 đến năm 1843, một trong những vị tiền nhiệm của tôi, thầy Turbon đã mười tám lần được nhóm người thừa kế mời đến Passy. Bọn họ là những tên bịp bợm, những thầy bói bài tây, những kẻ cuồng tưởng đã hứa là tìm ra các kho báu của người đại điền chủ. Cuối cùng một qui ước được đề ra: bất cứ một người lạ nào muốn tiến hành những cuộc tìm kiếm, điều kiện tiên quyết là phải đặt một khoản tiền nhất định.
– Số tiền là bao nhiêu?
– Năm nghìn phơ-răng. Trong trường hợp thành công, một phần ba của cải thuộc về cá nhân người phát hiện. Nếu thất bại, số tiền đặt phải ở lại với những người thừa kế được hưởng. Như vậy đấy, tôi yên tâm.
– Đây năm nghìn phơ-răng đây.
Người công chứng viên sửng sốt.
– Hử? Ông nói gì?
Lupin nhắc lại và rút năm tờ giấy bạc trong túi ra trải trên mặt bàn với thái độ bình thản:
– Tôi nói là tiền đặt năm nghìn phơ-răng đây. Đề nghị thầy cho tôi biên lai và nhờ gọi tất cả những người hưởng thừa kế đến ngày 15 tháng tư năm sau có mặt ở Passy.
Người công chứng viên hết sức lúng túng. Ngay cả tôi, dù thường thấy Lupin thay đổi bất ngờ nhưng tôi cũng khá ngạc nhiên.
Thầy Valandier hỏi:
– Ông nghiêm túc đấy chứ?
– Hoàn toàn nghiêm túc.
– Thế nhưng tôi không giấu ông quan điểm của tôi. Tất cả những câu chuyện khó tin ấy không dựa trên một bằng chứng nào cả.
– Tôi không đồng ý với ý kiến của thầy – Lupin tuyên bố.
Người công chứng viên nhìn anh như nhìn một người đàn ông mà lý trí không thật tỉnh táo. Nhưng ông vẫn quyết định cầm bút viết một bản giao kèo trên trang giấy có đóng sẵn dấu, trong đó nêu lên số tiền đặt trước của viên đại uý nghi hưu Janniot và lời đảm bảo chi cho ông một phần ba giá trị của kho báu nếu ông tìm được.
– Nếu ông thấy cần thay đổi ý kiến-người công chứng viên nói thêm-tôi đề nghị ông báo trước cho tôi tám ngày. Tôi chỉ thông báo cho gia đình d’Ernemont vào giờ chót để không làm cho những người khốn khổ ấy hy vọng nhiều quá.
– Thầy có thể báo cho họ ngay ngày hôm nay, thấy Valandier ạ. Như vậy họ sẽ có một năm tốt hơn.
Chúng tôi chia tay với thầy công chứng. Ngay khi đã ở trên đường phố, tôi hỏi Lupin:
– Thế anh đã biết được điều gì rồi à?
– Tôi hả? Chẳng biết gì cả. Đúng thế, việc ấy làm cho tôi vui thôi.
– Nhưng đã có một trăm năm người ta tìm kiếm rồi cơ mà!
– Vấn đề là thời gian bỏ ra tìm kiếm ít hơn thời gian bỏ ra suy nghĩ, nhưng tôi lại có ba trăm sáu mươi ngày để suy nghĩ. Thế là quá rồi đấy, tôi sẽ cố quên việc này, nó hết sức bổ ích với tư cách của chính nó. Bạn thân mến, bạn hãy làm ơn nhắc tôi nhớ việc này, có được không?
Trong những ngày tháng tiếp theo, tôi đã nhiều lần nhắc anh nhớ lại, tuy nhiên anh tỏ ra khồng coi đấy là quan trọng. Rồi một thời gian dài tôi không có dịp gặp anh. Đấy là thời kỳ anh đi xa, đến nước Arménie và biết được cuộc đấu kinh khủng mà anh tiến hành chống ông vua Hồi giáo độc ác; cuộc đấu kết thúc bằng sự sụp đổ của ông vua chuyên chế.
Tuy nhiên tôi đã viết thư cho anh theo địa chỉ anh cho và như thế, tôi đã có thể thông báo cho anh biết được một số tình hình có được xung quanh người nữ láng giềng của tôi. Louise d’Ernemont. Những tình hình ấy đã để lộ cho tôi biết được mối tình của chị ta vài năm trước đây với một anh chàng rất giàu có còn yêu chị, nhưng do gia đình bắt ép đã phải ruồng bỏ chị. Tôi cũng biết được sự thất vọng của người đàn bà trẻ, cuộc sống can đảm của chị cùng đứa con gái của chị.
Lupin không trả lời một bức thư nào của tôi. Anh có nhận được thư của tôi không? Nhưng thời hạn ngày tháng đã đến gần và tôi không thể tự hỏi có phải chính vì nhiều công việc mà anh tiến hành đã cản trở anh đến đúng hẹn cố định không?
Thực tế sáng ngày 15 tháng tư đã đến, tôi đã ăn trưa xong, mà anh chưa có ở đấy. Đến 12 giờ 15 phút trưa, tôi đi đến Passy.
Ngay lập tức, trên con đường hẻm tôi đã trông thấy bốn thằng nhóc, con của người thợ đang đứng trước cửa. Thầy Valandier được chúng báo cho biết, chạy ra đón tôi: – Chà, ông đại úy Janniot đấy à? Thầy kêu lên.
– Ông ấy chưa có đây à?
– Chưa, tôi đề nghị ông hiểu cho là người ta đang sốt ruột chờ ông ấy.
Quả vậy nhiều tốp đang chen chúc nhau quanh người công chứng viên. Tất cả những khuôn mặt mà tôi đã nhận ra không còn ủ ê và chắn nản như năm trước.
Thầy Valandier nói với tôi:
– Bọn họ đang mong đợi và đấy là lỗi của tôi. Ông nghĩ như thế nào? Ông bạn của ông đã để lại cho tôi một kỷ niệm như thế và tôi đã nói với những con người tử tế này bằng một lòng tin ….mà tôi không chứng tỏ được. Nhưng dù sao đấy là một hạng người thật nực cười, cái ông đại uý Janniot ấy…
Ông hỏi tôi và tôi cho ông biết về người đại uý, những dấu hiệu hơi phóng túng về anh. Những người thừa kế nghe mà lắc đầu.
Louise d’Ernemont lẩm bẩm:
– Nếu ông ấy không đến thì sao?
– Chúng ta vẫn có năm nghìn phơ-răng để chia nhau cơ mà – người ăn xin nói.
– Quan trọng quái gì cái đó! Lời nói của Louise d’Ernemont đã giội một gáo nước lạnh vào bầu không khí hồ hởi. Những bộ mặt trở nên cau có. Tôi cảm thấy một bầu không khí nặng nề đến kinh hoàng đè nặng lên chúng tôi.
Đến một giờ rưỡi, hai người chị em gầy còm ngồi xuống, ủ rũ. Rồi người đàn ông to lớn mặc áo ra-két cáu bẩn, đột ngột trách cứ ông công chứng viên.
– Đúng thế, thầy Valandier ạ, thầy phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Dù muốn hay không, thầy phải dẫn ông đại uý đến… Dĩ nhiên lại là một tên pha trò rồi.
Gã nhìn tôi bằng con mắt thiếu thiện cảm, còn người hầu phòng thì cáu gắt, tung ra những lời chửi thề cạnh khoé về phía tôi.
Nhưng đứa lớn tuổi nhất của mấy thằng nhóc con hiện ra ở cửa ra vào và nói to:
– Có ai đến kìa!… Một chiếc xe bình bịch!
Tiếng động cơ rú lên ở mé bên kia bức tường. Một người đàn ông cưỡi xe máy lao xuống con đường hẻm. Ngay lập tức, trước cửa lớn, anh ta hãm phanh, dừng lại, rồi nhảy ra khỏi xe.
Dưới lớp bụi phủ lên người như một cái vỏ bọc ngoài, ta có thể nhìn thấy quần áo của anh ta đỏ quạch, rồi chiếc quần xếp li thành nếp không phải là quần áo của một nhà du lịch, và cái mũ phớt của anh cũng chẳng phải màu đe, đôi giày cao cổ cũng chẳng còn lớp xi đánh bóng.
– Không phải ông đại uý Janniot rồi – người công chứng viên do dự chưa nhận ra đấy là ai.
– Tôi đây – Lupin khẳng định, chìa tay ra cho chúng tôi – đúng là đại uý Janniot đây, có điều là tôi đã cạo râu rồi… Thầy Valandier? Xin đưa biên lai của thầy đã ký đây.
Anh nắm cánh tay một thằng nhóc và nói với nó:
– Chạy đến bến xe, dẫn một chiếc ô tô đến phố Raynouard. Nhanh lên. Đến hai giờ mười lăm phút tôi có cuộc hẹn khẩn đấy.
Bằng một cử chỉ quyết đoán, đại uý Janniot rút đồng hồ quả quýt ra.
– Chà! Mới hai giờ kém mười hai. Tôi còn mười lăm phút nữa. Lạy trời, tôi mệt muốn chết được! Nhất là đang đói nữa.
Người hạ sĩ vội đưa cho anh mẩu bánh mì, anh cắn một miếng ngập răng rồi ngồi xuống. Anh tỏ lời:
– Các bạn thứ lỗi cho. Tàu tốc hành Marseille trệch bánh giữa Difon và Laroche. Có chừng mười lăm người chết và nhiều người bị thương. Tôi thoát nạn. May là trong toa hành lý, tôi tìm được chiếc mô – tô này… Thầy Valandier, thầy vui lòng làm ơn giao lại cho chủ của nó giúp. Phiếu còn buộc ở ghi – đông, ồ! Chú mày đã quay về à, nhóc con? Ô tô ở đấy chứ? Góc phố Raynoiuard? Tuyệt vời!
Anh xem đồng hồ.
– Này! Này! Không có thì giờ để mất đâu nhé.
Tôi tò mò nhìn anh. Nhưng cảm xúc của những người thừa kế d’Ernemont đã rút kiệt đi thật mãnh liệt. Hẳn là họ không có lòng tin đối với đại uý Janniot như lòng tin của tôi đối với Lupin. Những khuôn mặt của họ nhợt nhạt và co dúm lại.
Đại uý Janniot chậm chạp đi sang bên trái, đến gần đồng hồ mặt trời. Bệ của đồng hồ được cấu tạo hình một người đàn ông, thần Atlas, nửa mình trên lực lưỡng ghé vai vác một cái mặt bảng bằng đá cẩm thạch mà thời gian đã bào mòn bề mặt của nó; người ta chỉ hơi nhận ra những vạch đánh dấu giờ được khắc lên đấy. Phía trên là một tượng thần Ái tình với đôi cánh giang rộng cầm một mũi tên dài làm Kim.
Người đại uý vẫn cúi xuống chừng một phút, cặp mắt chăm chú.
Rồi ông hỏi:
– Có ai, cho mượn con dao con được không?
Tiếng chuông điểm hai giờ đâu đó. Đúng khi ấy trên mặt đồng hồ sáng rực ánh mặt trời, bóng của mũi tên in hình theo một vết rạn của đá hoa, cắt cái mặt đồng hồ gần như ở giữa.
Ông đại uý cầm con dao người ta vừa trao cho, mở ra. Bằng mũi nhọn, rất nhẹ nhàng, ông bắt đầu gạt cái hỗn hợp đất rêu và rẽ địa y lấp đầy vết nứt.
Ngay lập tức, cách mép đá chừng mười hai xen – ti – mét, ông dừng lại. Hình như con dao của ông gặp một vật cản. Ông dùng ngón tay trỏ và ngón cái gắp ra một vật nhỏ, ông xát vật nhỏ vào hai lòng bàn tay và đưa ngay cho người công chứng viên.
– Đây, thầy Valandier, có cái gì đây này.
Đấy chính là một viên kim cương rất lớn, bằng một hạt phỉ, được gọt đẽo rất đẹp. Viên đại uý tiếp tục việc làm của mình. Hầu như ngay tức khắc, một lần nữa, ông dừng lại. Một viên kim cương thứ hai tuyệt đẹp và trong suốt như viên đầu tiên hiện ra.
Rồi viên thứ ba, và thứ tư.
Một phút sau, mũi dao của ông đã đi từ mép đến đầu kia của kẽ nứt và không phải khơi sâu thêm, tức là chỉ hơn một xen-ti – mét rưỡi, ông đại uý đã lấy ra được tất cả là mười tám viên kim cương cùng kích cỡ.
Suốt hơn một phút, không một tiếng động nào phát ra quanh cái mặt đồng hồ mặt trời, không một tiếng kêu nhỏ, không một cử động nào. Những người thừa kế hầu như sững sờ trong chốc lát như quên cả thở. Rồi người đàn ông to cao thầm thì: – Mẹ kiếp thật!
Và viên hạ sĩ rì rầm:
– Ôi! Ồng đại uý… ông đại uý!
Hai người chị em ngất xỉu. Cô gái có con chó quỳ sụp xuống cầu nguyện, còn tên đầy tớ thì lảo đảo như người say rượu, gục đầu vào hai lòng bàn tay, và Louise d’ Ernemont thì khóc ròng.
Khi yên lặng đã trở lại, người ta định cám ơn viên đại uý Janniot thì họ mới nhận ra rằng ông đã đi khỏi đó.
Sau nhiều năm tôi mới có dịp hỏi Lupin nguyên do về việc này. Anh hứng thú trả lời tôi:
– Việc mười tám viên kim cương à? Lạy Chúa, khi tôi nghĩ tới ba hay bốn thế hệ đồng loại của tôi đi tìm lời giải cho vấn đề ấy mà không được! Mười tám viên kim cương vẫn còn đấy, chỉ dưới một lớp bụi mỏng.
– Nhưng làm sao mà anh đoán được?…
– Tôi không đoán. Tôi suy nghĩ. Việc như thế liệu tôi có cần phải suy nghĩ không? Ngay từ đầu việc ấy đập vào mắt tôi: toàn bộ cuộc phiêu lưu bị chi phối bởi một vấn đề chủ yếu, vấn đề thời gian! Khi đang còn tỉnh táo Charles d’Ernemont đã ghi ngày tháng lên ba bức tranh.
Về sau trong cảnh ngu muội mà ông ta vật lộn, mỗi tia nhỏ của sự thông minh mỗi năm lại dẫn ông ta đến trung tâm của vườn cũ và cũng chính tia sáng ấy lại đưa ông ta ra khỏi đấy mỗi năm, ở cùng thời khắc, có nghĩa là lúc năm giờ hai mươi bảy phút. Cái gì đã điều chỉnh bộ máy rối loạn của trung tâm trí não ấy như thế? Sức mạnh cao siêu nào làm cho người điên đáng thương ấy hành động? Không còn nghi ngờ gì nữa, khái niệm do bản năng về thời gian mà đồng hồ mặt trời đã biểu thị trên những bức tranh của người đại điền chủ. Đó là chu kỳ quay vòng của trái đất xung quanh mặt trời trong một năm đã đưa Charles d’Ernemont trở lại căn vườn ở Passy vào ngày tháng nhất định. Và cũng là sự quay vòng trong ngày ấy đã đưa anh ta ra khỏi đấy vào giờ cố định, có nghĩa là giờ, hẳn khi ấy mặt trời bị che lấp bởi những vật chướng ngại nên không còn chiếu sáng được căn vườn ở Passy nữa. Nhưng toàn bộ cái đồng hồ mặt trời ấy chính là biểu tượng của sự quay vòng. Cho nên ngay lập tức tôi biết mình phải tìm ở đâu.
– Nhưng giờ tìm kiếm, làm sao anh xác định được?
– Theo như các bức tranh, thì hoàn toàn đơn gian. Một người sống ở thời kỳ ấy như Charles d’Ernemont đáng ra phải ghi 26 tháng nẩy mầm, năm II hay là 15 tháng tư 1794 chứ không phải là 15 tháng Tư năm II. Tôi lấy làm kinh ngạc là không có ai nghĩ đến điều đó.
– Vậy con số 2 có nghĩa là hai giờ phải không?
– Dĩ nhiên. Và thế là điều gì phải xảy ra? Người đại điền chủ đã bắt đầu chuyển đổi tài sản của mình thành tiền vàng và tiền bạc. Và thêm vào đấy là sự thận trọng nữa. Với vàng và bạc đó, ông ta mua mười tám viên kim cươnq tuyệt đẹp. Ngạc nhiên khi thấy đội tuần tra đi đến, ông đã trốn vào vườn. Phải giấu những viên kim cương vào đâu? Tình cờ, mắt của ông nhìn lên chiếc đồng hồ mặt trời. Đã hai giờ. Khi ấy bóng của mũi tên trùng vào thớ nứt của mặt đá cẩm thạch, ông tuân theo dấu hiệu của cái bóng, nhét sâu mười tám viên kim cương vào lớp bụi của kẽ nứt, rồi rất bình tĩnh trở lại. Tự mình phó mặc số phận cho bọn lính.
– Nhưng ngày nào cái bóng của mũi tên cũng đến hai giờ là chập với kẽ nứt của đá cẩm thạch chứ không phải chỉ có ngày 15 tháng tư.
– Anh quên rồi đấy, anh bạn thân mến. Anh nên biết rằng ông ta, Charles người thừa kế ấy, là một người điên và ông ta chỉ nhớ có ngày tháng ấy thôi, ngày 15 tháng tư.
– Được, nhưng vì anh đã hiểu được điều bí ẩn thì chuyện đó đối với anh là dễ. Sao từ một năm nay anh không đột nhập vào bên trong tường vây và lấy trước những viên kim cương đó đi?
– Rất dễ và hẳn là tôi không do dự, nếu tôi không có quan tâm tới những con người ấy. Nhưng thực ra, những con người khốn khổ ấy đã làm cho tôi thương xót. Vả lại, anh biết tên Lupin ngu ngốc này đấy: đùng một cái, hiện ra một cách tài tình, tốt bụng và làm cho đồng loại của hắn phải ngạc nhiên trước cả trí tuệ và lòng nhân từ của hắn, dù hắn sẽ phạm phải tất cả những điều vô nghĩa lý nhất.
– Ô hay! Tôi kêu lên – Điều ngu ngốc của anh không lớn đến thế đâu. Sáu viên kim cương tuyệt vời! Đúng theo bản giao kèo mà những người thừa kế d’Ernemont phải vui vẻ tuân thủ!
Lupin nhìn tôi, rồi bỗng nhiên anh bật cười:
– Vậy anh không biết à? Thật vớ vẩn, những người thừa kế d’Ernemont vui vẻ ư?.. Nhưng ông bạn thân mến của tôi ơi, ngay hôm sau cái lão đại uý Janniot tử tế ấy có bao nhiêu là tử thù! Ngày hôm sau hai chị em gầy còm và cái gã to cao, tổ chức cuộc chống cự lại. Bản giao kèo ư? Không có một giá trị nào cả, bởi vì cái đó rất dễ để phản bác, khi không có một đại uý Janniot nào cả. “Ông đại uý Janniot! Tên phiêu lưu ấy, hắn từ đâu ra? Hắn ta kiện chúng ta thì hắn sẽ thấy.
– Loiuse d’Ernemont cũng thế chứ?…
– Không, Louise d’Ernemont phản đối sự bội tín bỉ ổi đó, nhưng chị ta có thể làm được gì? Vả lại khi đã trở nên giàu có, chị ta đã gặp lại người chồng chưa cưới. Tôi không còn nghe nói đến chị ta nữa.
– Thế rồi sao nữa?
– Thế rồi, ông bạn thân mến của tôi ạ. Tôi bị sa bẫy một cách hợp pháp; bất lực, tôi phải nhân nhượng, thoả hiệp và nhận về phần mình một phần khiêm tốn, một viên kim cương bình thường, nhỏ nhất và không được đẹp cho lắm. Nào, anh cứ dùng đủ cách để giúp đỡ đồng loại của mình đi!
Rồi Lupin càu nhàu giữa kẽ răng:
– Ôi! Tôi thú nhận, chuyện ba láp! Thật may sao khi những con người trung thực có được lương tâm và sự thoả mãn về nghĩa vụ đã làm!