Một tràng dài chuông cửa dồn dập, khiến người gác cửa số 9 phố Hoche bừng tỉnh dậy. Cô ta vừa kéo dây, vừa lầm bầm:
– Mình cứ nghĩ là về hết rồi chứ. Giờ chắc cũng ba giờ là ít!
Chồng cô ta cũng cằn nhằn:
– Chắc lại tìm bác sĩ đây.
Quả nhiên, có một giọng nói khàn khàn cất lên:
– Xin lỗi… bác sĩ Harel ở tầng mấy ạ?
– Phía bên trái, tầng bốn. Nhưng bác sĩ không khám bệnh ban đêm đâu-Cô ta khó chịu trả lời.
– Bệnh nặng lắm rồi, không tìm ông ấy không được.
Nói xong, người đó thò đầu vào sảnh, chạy thẳng lên tầng… Nhưng ông ta không hề dừng lại ở tầng bốn, mà chạy thẳng lên tầng sáu. Đến trước một cánh cửa, ông ta lấy hai chiếc chìa khóa từ trong túi ra; dùng một cái để mở ra, còn cái kia thì dùng để mở két.
– Tuyệt quá- Hắn từ nhủ- Mọi việc quá thuận lợi. Nhưng từ từ đã, trước khi động thủ thì phải nghĩ xem rút lui như thế nào. A… đến bấm chuông cửa nhà bác sĩ, nói chuyện sau đó rút, chỉ như vậy thì có đủ không nhỉ? Được, kiên nhẫn một chút…
Mười phút sau, hắn mới xuống lầu. Hắn vừa gõ vào cái cửa sổ cạnh cửa phòng, vừa khẽ oán thán bác sĩ không… cứu giúp. Người gác cửa mở cửa cho hắn, hắn vừa bước ra, liền đóng cánh cửa đánh “rầm” một cái. Nhưng, cánh cửa không thực sự được đóng lại. Hắn ta nhân cơ hội cửa đang đóng, liền nhanh tay chặn một miếng sắt ngang lỗ then khóa, như thế thì đầu then khóa sẽ không nhô ra được.
Sau đó, thần không hay quỷ không biết, hắn lại lẻn vào trong nhà, khẽ khàng bước lên tầng sáu một cách thông thuộc. Vào được bên trong, nhờ ánh sáng của đèn pin, hắn cởi áo gió và mũ ra rồi đặt lên một chiếc ghế, tự mình ngồi lên một chiếc ghế khác, lấy ra một chiếc giầy có đế rất mềm và dày, đi ra ngoài đôi bốt mà hắn đang đi.
Sau đó, hắn mở một mảnh giấy ra xem: đó là bản vẽ mặt bằng của tòa nhà chung cư này:
– Xác định phương hướng trước đã. Ô vuông nhỏ này chính là đại tiền sảnh-nơi mà mình đang đứng. Đại sảnh, hành lang và nhà ăn… không cần đến những chỗ này làm gì cho phí thời gian. Xem ra khẩu vị của bà bá tước phu nhân này cũng xoàng thôi, một thứ đồ đáng tiền cũng không có!… Được rồi, đừng làm lỡ việc chính… A, đây chính là lối đi thông đến phòng ngủ. Từ đây tiến lên ba mét, có lẽ là cửa của một cái tủ tường. Tủ tường này đựng quần áo ấy, thông với phòng ngủ của bá tước phu nhân.
Hắn gấp bản vẽ lại, tắt đèn pin, men theo lối đi, lần mò bước tới:
– Một mét… hai mét… ba mét… Cửa đây… đúng rồi! Bây giờ chỉ cần nhẹ nhàng khoét một lỗ cạnh ổ khóa là có thể vào được rồi. Hừm, để mình nghĩ xem nào, ổ khóa này cách mặt đất khoảng một mét tư… Nhưng từ từ đã- Hắn mò được dụng cụ cần dùng từ trong túi áo, nhưng không lấy ra ngay-Từ từ nào, đừng nóng vội; không chừng trong ổ không cắm chìa khóa… Thử một cái hẵng…
Hắn khẽ khàng lay lay tay nắm cửa. Quả nhiên cánh cửa mở ra, không một tiếng động.
Việc mở cánh cửa thứ hai đã ngốn của hắn tận nửa tiếng đồng hồ, đó là một cái cửa kính ở bên trong phòng ngủ. Hắn cẩn thận từng li từng tý, cố hết sức để không gây ra dù một tiếng động nhỏ, để ngay khi bác tước phu nhân vẫn chưa ngủ say thì bà ta cũng không thể phát giác là có người đang cạy cửa. Theo bố cục của bản vẽ, phía trước một chiếc trường kỷ là một cái ghế tựa, tiếp đó là bàn ngủ ở cạnh giường, trên bàn có một cái hộp đựng giấy viết thư… Viên trân châu đen có giá trị cao ngất trời ấy, đang nằm chính trong cái hộp này!
Hắn bò trên thảm, men theo trường kỷ, bò lên tiếp. Đến trước cái ghế tựa, hắn thò tay phải ra mò mẫm trong bóng tối, mò phải cái chân bàn. Hắn đang định đứng dậy thì đột nhiên tay trái của hắn chạm phải một vật trên thảm, hắn nhận ra ngay đó là cái giá nến, một cái giá nến bị đổ. Đúng lúc ấy, hắn lại chạm phải một cái đồng hồ nhỏ, loại đồng hồ du lịch bọc da.
Đột nhiên tay của hắn sờ phải một thứ, khiến toàn thân hắn bất giác giật thót. Hắn nín thở sờ soạng trong đêm, và nhận ra một mái tóc, một khuôn mặt… Một khuôn mặt lạnh ngắt! Hắn vội bật ngay đèn pin lên. Dưới ánh sáng lờ mờ hắn nhận ra đó là một người phụ nữ đang nằm trong vũng máu, cổ và vai bị thương rất nặng. Hắn cúi người kiểm tra một lúc, người phụ nữ đó đã chết.
Hắn đứng dậy, bật công tắc đèn điện, cả căn phòng sáng choang. Có thể thấy rõ ở đây vừa xảy ra một cuộc vật lộn vô cùng kịch liệt. Giường chiếu lộn xộn, giá nến đổ trên nền nhà; một cái đồng hồ du lịch văng ra xa, kim đồng hồ chỉ mười một giờ hai mươi phút. Cách xa một chút, chiếc ghế đổ trên nền nhà; quanh phòng toàn vết máu.
– Trân châu đen đâu rồi?- Hắn lẩm bẩm.
Hộp đựng giấy viết thư vẫn còn ở chỗ cũ. Hắn vội vàng mở hộp ra. Trong hộp giấy viết thư lại có một cái tráp nhỏ đựng đồ trang sức, nhưng bên trong tráp rỗng không.
Hắn ngồi xoay ngược vào cái ghế tựa, hay tay ôm lấy cái trán đang nóng bừng, cả người rơi vào trạng thái trầm tư.
Ngày thứ ba sau khi vụ án xảy ra, các báo đều đăng tải một tin như sau:
“Theo tin đã đưa, Victor Danegre đã bị cảnh sát bắt giữ, tên này là người giúp việc của Bá tước phu nhân D’Andillot-người bị hại hôm trước. Cục trưởng cục an ninh Dudouis đích thân đến hiện trường vụ án, và tìm thấy một bộ quần áo có số hiệu ở phòng của người giúp việc-nằm chính bên trên phòng của Bá tước phu nhân. Bộ quần áo này được giấu ở giữa tấm đệm và ga giường của hắn, thiếu một cái khuy; trên cổ áo có vết máu. Tiếp đó, lại phát hiện chiếc khuy còn thiếu kia ở dưới gầm giường của nạn nhân.
Giả thiết của cảnh sát là sau bữa tối, Danegre đã không quay trở lại phòng mình ngay, mà ngầm trốn vào trong cái tủ tường treo quần áo. Từ bên trong tủ, hắn ghé mắt nhìn trộm qua kẽ hở xem Bá tước phu nhân giấu viên trân châu đen ở chỗ nào. Sau đó, ngay trong đêm hắn đã gây án mạng, rồi lấy đi viên trân châu có giá trị rất cao ấy.
Điều đáng tiếc là, cho đến nay vẫn chưa có căn cứ xác thực nào có thể chứng minh cho giả thiết trên. Hơn nữa, còn có một chi tiết khiến người ta rất khó lý giải, đó là khoảng bảy giờ sáng sau hôm xảy ra vụ án, Danegre đã đến một cửa hàng tạp hóa ở phố Courcelles, người gác cửa và ông chủ tiệm tạp hóa đã chứng thực điều này. Và bà đầu bếp cùng người hầu gái thân cận của Bá tước phu nhận đã khẳng định rằng, vào lúc tám giờ, khi họ ngủ dậy (hai người đều ngủ ở phía cuối hành lang), cửa sảnh trước và nhà bếp đều vẫn đóng chặt. Họ đã theo hầu Bá tước phu nhân hơn hai mươi năm, vì thế lời khai của họ thật đáng tin cậy. Thế nên chúng ta không thể không đặt ra câu hỏi, Danegre đã ra khỏi tòa chung cư như thế nào? Trừ phi hắn đã chuẩn bị sẵn một chiếc chìa khóa tư trước? Kết quả phiên tòa rốt cuộc như thế nào, chúng ta hãy chờ xem.
Nhưng phiên dự thẩm lại chẳng đạt được kết quả gì cả. Victor Danegre là một tên tội phạm chuyên nghiệp vô cùng nguy hiểm. Hơn nữa hắn còn nghiện rượu, sống rất bừa bãi. Cuộc điều tra để tìm ra chứng cứ dường như chẳng có tiến triển gì. Vụ án giống như một mớ bòng bong, các lời khai của nhân chứng thì mâu thuẫn với nhau.
Đầu tiên, cháu gái của người quá cố, người thừa kế tài sản duy nhất-tiểu thư De Sincleves-nói rằng một tháng trước khi bị hại, Bá tước phu nhân đã viết thư cho cô, nói cho cô ấy biết về bí mật chỗ bà cất giấu viên trân châu đen. Nhưng ngay sau cái hôm nhận được, bức thư đó đã không cánh mà bay.
Tiếp đó, trong lời khai của vợ chồng người gác cửa có nhắc đến một chuyện, đó là họ đã từng mở cửa cho một người lạ trong đêm hôm đó. Người này bảo là… lên gác tìm bác sĩ Harel. Cảnh sát hỏi bác sĩ Harel, nhưng bác sĩ nói đêm đó chẳng có ai đến gõ cửa nhà ông ta cả. Vậy người này rốt cuộc là ai? Hắn có phải là đồng phạm trong vụ này không?
Giả thuyết có đồng phạm này rất được giới thông tin và dư luận đồng tình. Ngay cả cảnh sát trưởng Ganimard tiếng tăm lẫy lừng cũng cho rằng giả thuyết này không phải là không có lý.
– Trong vụ này chắc chắn có sự can thiệp của Lupin-Cảnh sát trưởng nói với vị thẩm phán phiên dự thẩm.
– Ồ! Ngày thẩm phán không cho là như vậy; trong mắt ngài đâu đâu cũng có mặt cái tên Lupin này.
– Đúng vậy, nhưng chính là vì ở đâu hắn cũng nhúng tay vào.
– Theo như tôi thấy, mỗi lần có điểm nghi vấn nào mà ngài không thể giải thích được, ngài sẽ xướng cái tên Lupin nảy ra. Bây giờ, có một điều mà tôi muốn nhắc ngài phải chú ý: chiếc đồng hồ ở hiện trường vụ án cho thấy, vụ giết người xảy ra vào lúc mười một giờ hai mươi phút; mà theo lời khai của người gác cửa, kẻ lạ mặt kia phải ba giờ sáng mới đến cơ.
Cái kiểu tư duy “Ai vào trước, người đấy là chủ” này đã trở thành căn bệnh mãn tính của các nhân viên tư pháp khi họ làm án. Victor Danegre phạm tội có tính toán, tiền án đầy bất hảo, đã rõ rành rành ra đấy. Đối với loại nghi phạm này, dù chứng cứ có đầy đủ hay không, thì các vị thẩm phán cũng sẽ ít khi bỏ qua cho…
Ba tuần sau đó, bắt đầu được mở phiên tòa xét xử. Không khí tranh biện tại phiên tòa vô cùng nặng nề. Những lời buộc tội của Văn phòng Chưởng lý không có tính thuyết phục, lộ nhiều sơ hở. Luật sư của Dangere chiếm ưu thế rõ ràng, chỉ rõ ra rằng vụ án này chưa đủ chứng cớ buộc tội thân chủ của mình. Ông Danegre không có chìa khóa sau khi ra khỏi chung cư, thì không thể mở khóa để vào cửa quay lại được. Nếu bảo là ông ấy có một chiếc chìa khóa nữa, thì xin hỏi ai đã làm chìa khóa cho ông ấy? Và có ai đã từng nhìn thấy chiếc chìa khóa này chưa? Còn nữa, con dao mà hung thủ gây án, rốt cuộc đang nằm ở đâu?
– Tóm lại-Luật sư nói lời cuối cùng-Thứ nhất, không có chứng cứ có thể chứng minh đương sự đã phạm tội mưu sát. Thứ hai, đối với suy luận nhân vật bí ẩn vào chung cư lúc ba giờ sáng chính là hung thủ gây ra vụ án này, chúng ta không thể bỏ qua. Người ta bảo, đồng hồ hiện trường chỉ mười một giờ hai mươi phút. Nhưng, như vậy thì có thể chứng minh được điều gì chứ? Lẽ nào kẻ gây án không thể quay ngược kim đồng hồ lại thời điểm đó ư?
Victor Danegre được tuyên bố vô tội.
Sau khi ra khỏi nhà giam, hắn đã thuê một căn phòng ở khu Montmartre, với cái tên giả là Anatole Dufour, đi làm thuê sống qua ngày. Hắn thường cảm thấy như có người theo dõi hắn. Có một điểm mà trong thâm tâm hắn biết rất rõ, đó là cảnh sát sẽ không dừng lại ở đó; chắc chắn họ sẽ giăng lưới sẵn, đợi hắn sa vào.
Một buổi tối, hắn đang ăn ở một tiệm ăn gần nơi thuê nhà, thì có một người đến ngồi xuống đối diện với hắn. Người này khoảng bốn mươi tuổi, mặc bộ lễ phục cũ màu đen may rất khéo, không được sạch sẽ cho lắm. Ông ta gọi hai bát súp, cho ít rau, hành vào; còn gọi thêm chai rượu vang đỏ.
Khi người này ăn súp, cứ đưa mắt nhìn chằm chằm vào Danegre. Mặt Danegre trắng bệch. Hắn định đứng dậy, nhưng hai chân cứ run như cầy sấy, dường như không nghe theo lệnh của hăn nữa.
Người này cầm chai rượu lên tự rót cho mình một li, rồi rót rượu vào đầy li của Danegre và nói:
– Chúng ta cùng cạn li được không, ông anh?
Victor Danegre lắp ba lắp bắp đáp:
– Được… được… Chúc mạnh khỏe, ông anh!
– Chúc anh mạnh khỏe, Victor Danegre!
Hắn giật mình kinh hãi:
– Tôi… không!… Tôi không phải…
– Anh định nói ai không phải là Danegre. Anh không phải là người giúp việc của Bá tước phu nhân ư?
– Cái gì mà người giúp việc? Tôi tên là Dufour. Không tin, anh có thể ra hỏi ông chủ quán ở đây.
– Antole Dufour-đúng vậy, ông chủ quán chỉ quen biết anh dưới cái tên này. Nhưng tòa án lại biết anh là Danegre, Victor Danegre.
– Làm gì có chuyện này! Không hề có chuyện này! Đừng có nghe người ta nói lung tung.
Người đối diện móc túi lấy ra một tấm danh thiếp đưa cho hắn. Victor thấy trên đó viết: Grimaudan-cựu cảnh sát, Sở bảo an thuộc Cục tình báo.
Hắn bất giác run lên bần bật, nói líu ríu:
– Ông là người của Sở cảnh sát?
– Bây giờ thì không phải nữa rồi. Nhưng tôi thích cái nghề này, thậm chí còn muốn dựa vào nghề cũ… để kiếm ít lộc. Gặp thời cơ thuận lợi, thì còn kiếm được một khoản kha khá đấy… Chẳng phải là cánh cửa cũng đang mở ra trước anh rồi đấy ư?
– Tôi?
– Đúng, chính là anh. Nhưng chỉ cần anh chịu ngoan ngoãn nghe lời tôi, thì hai chúng ta mới bàn bạc một cách thuận lợi được.
– Nhưng nếu tôi không nghe thì sao?
– Anh sẽ nghe thôi. Với cái cảnh ngộ hiện tại của anh, thì anh không thể không nghe được.
Danegre chột dạ, rụt rè hỏi:
– Rốt cuộc là có chuyện gì?… Hãy nói đi!
– Vậy thì được-Grimaudan nói-chúng ta đừng vòng vo nữa: Tôi được tiểu thư De Sincleves cử đến.
– De Sincleves?
– Người thừa kế tài sản của Bác tước phu nhân D’Andillot.
– Vậy thì sao chứ?
– Vậy thì sao! Tiểu thư De Sincleves nhờ tôi đòi anh viên trân châu đen đó.
– Viên trân châu đen? – Danegre chực chồm lên.
– Chính là viên anh lấy trộm ấy.
– Nhưng tôi không lấy trộm-Hắn cố cãi.
– Anh đã lấy!
– Nếu như tôi đã lấy nó, thì chẳng phải tôi chính là hung thủ ư?
– Anh chính là hung thủ!
Danegre tỏ ra rất lì lợm, hắn cười lớn:
– Xin ngài hãy nghe cho rõ đây, may mà tòa án không nói như ngài. Ngài hãy xem đi, bồi thẩm đoàn đã nhất trí phán quyết là tôi vô tội. Tôi là một người trong sạch, rất tôn trọng mười hai vị bồi thẩm chính trực ở đó…
– Thôi đủ rồi, đừng có bốc phét nữa đi. Bây giờ anh phải nghe tôi nói cho kỹ đây, điều này rất có ích với anh đấy. Danegre, ba tuần trước khi vụ án xảy ra, anh đã vào bếp lấy trộm chìa khóa cửa sau, rồi đến tiệm khóa Outard số 244 phố Oberkampf để làm một cái khóa y như thế.
– Làm gì có chuyện này. Không hề có chuyện như vậy-Victor ngoan cố- Ai đã nhìn thấy chiếc chìa khóa đó chứ?
– Nó đang nằm trong tay tôi đây
Sau khoảnh khắc im lặng, Grimaundan nói tiếp:
– Anh đã dùng một con dao nhíp ba dao nhón giết chết Bá tước phu nhân. Anh mua con dao này ở quảng trường Cộng hòa, cùng với ngày làm chìa khóa…
– Anh đừng có ngậm máu phun người. Có ai từng trông thấy con dao ấy chứ?
– Nó đang nằm trong tay tôi đây.
Victor Danegre lảo đảo lùi lại vài bước.
Viên cựu cảnh sát nói tiếp:
– Trên con dao vẫn còn dính vết máu đỏ. E là chẳng cần thiết phải giải thích cho anh về nguồn gốc vết máu đó chứ?
– Nhưng như thế thì sao nào?… Anh có một cái chìa khóa, một con dao… Nhưng ai có thể chứng minh được chúng là của tôi chứ?
– Có hai người có thể chứng minh được. Một là người thợ khóa, một là chủ cửa hàng. Tôi đã bảo họ nhớ lại các chi tiết về thân hình, khuôn mặt của anh rồi. Khi đối chất trực tiếp, họ chỉ cần nhìn là nhận ra anh ngay.
Ông ta nói rất dứt khoát, lưu loát, không có chỗ nào sơ hở. Danegre sợ đến nỗi co giật toàn thân. Nhưng hắn vẫn không cam chịu khuất phục.
– Chắc anh cũng chỉ có đồ hung khí vớ vẩn này thôi chứ gì!- Hắn rít qua kẽ răng.
– Còn nữa đây. Sau khi hung bạo gây án, anh đã men theo đường cũ chuồn ra ngoài. Nhưng khi đến cạnh tủ tường, anh sợ quá đến nỗi chân mềm nhũn, vì thế anh đã dựa vào tường nghỉ một lúc.
– Sao anh có thể biết được điều này chứ?- Victor há hốc mồm hỏi-Chẳng ai có thể biết được điều này cả.
– Đương nhiên, mấy ông già ở văn phòng chưởng lý sẽ chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện thắp nến kiểm tra tường cả. Thực ra, chỉ cần chiếu sáng bức tường một chút, là có thể nhìn thấy trên bức tường trắng có lưu lại dấu vân tay màu đỏ nhạt. Và anh cần phải biết rằng, dựa vào dấu vân tay của ngón cái ấy, là có thể dễ dàng tìm ra hung thủ.
Mặt Danegre biến sắc thảm hại. Những giọt mồ hôi to bằng hạt đậu rơi lã chã từ trên trán xuống. Mặt hắn đờ đẫn, ngây dại nhìn chằm chằm vào người lạ mặt đang ngồi đối diện; người này sao lại có thể thuật lại quá trình xảy ra vụ án một cách rõ ràng chính xác, giống như chính mắt ông ta đã chứng kiến vậy.
Đầu hắn gục xuống. Mấy tháng nay, hắn đã tiếp xúc với đủ các hạng người, nhưng đối diện với kẻ lạ mặt bí hiểm, hắn cảm thấy mình hoàn toàn không còn chút sức mạnh nào để kháng cự nữa.
– Nếu như tôi đưa viên trân châu đen cho ông-Hắn lắp bắp-Thì ông đưa tôi bao nhiêu?
– Một xu cũng không đưa.
– Cái gì? Ông đùa đấy à! Tôi đưa cho ông một viên trân châu có giá trị lớn như thế, mà kết quả lại chẳng thu được tí lợi lộc gì ư?
– Thu được một mạng sống.
Tên vô lại ấy run lẩy bẩy. Grimaundan nói với hắn bằng một giọng ôn hòa hơn:
– Được rồi, Danegre, viên trân châu đen này nằm trong tay anh thì chẳng đáng một xu. Anh đã không có cách nào bán nó đi, thì còn giữ nó lại làm gì?
– Tôi sẽ tìm được người mua… Đợi đến lúc ấy, dù người ta có ra giá bao nhiêu…
-… Tất cả đã quá muộn rồi.
– Ý ông là sao?
– Ý tôi là sao! Chẳng phải là vì cảnh sát sẽ sớm tóm anh về quy án ư. Tôi sẽ giao cho họ toàn bộ chứng cứ: con dao, chìa khóa, dấu vân tay trên tường. Anh hãy đợi mà xem, ngày tận thế của anh sắp đến rồi đấy.
Victor giơ hai tay ôm lấy đầu bất lực, hắn đã ý thức được rằng, lần này đã hoàn toàn nằm trong tay đối phương rồi. Không còn chút sinh lực nào hắn thở hổn hển hỏi:
– Lúc nào ông cần?
– Đêm nay, trước một giờ.
– Nếu không thì sao?
– Nếu không, thì tôi sẽ nhét thư tố cáo của tiểu thư de Sincleves vào hòm thư.
Danegre rót cho mình hai lý rượu đầy, uống ừng ực hết sạch, sau đó đứng dậy nói:
– Ông thanh toán! Chúng ta đi thôi… Cái mầm xúi quẩy này coi như tôi đã gánh chịu đủ rồi.
Đêm khuya, hai người men theo phố Lepic, tới quảng trường Ngôi sao. Đến công viên Monceau, Victor thì thầm nói:
– Nó ở cạnh căn phòng đó…
Cả hai men theo hàng rào sắt công viên, tiếp tục đi về phía trước, rồi lại đi qua một con phố. Nhưng cứ đi mãi, Danegre càng đi càng chậm, càng lúc càng do dự. Cuối cùng, hắn ngồi vào một cái ghế băng công công bên đường.
– Sao thế?- Grimaundan ngạc nhiên hỏi.
– Ở đây, đến rồi-Danegre chán nản nói.
– Rốt cuộc thì là ở đâu?
– Giữa hai viên gạch lát đường.
– Hai viên nào?
– Ông tự tìm đi.
– Rốt cuộc là hai viên nào?- Grimaundan phát cáu hỏi lại lần nữa.
Victor không lên tiếng.
– Được đấy! Anh định cho tôi ăn bả à?
– Không… nhưng… dạo này, tôi khó khăn lắm.
– À, thế nên anh định đổi ý hả? Được, tôi chấp nhận, anh muốn bao nhiêu?- Grimaundan thỏa thuận.
– Phải đủ để mua một vé tàu thủy đi đến Châu Mỹ.
– Được.
– Còn phải đưa tôi 100 đồng tiền vàng để lo liệu khi mới đến đó.
– Cho anh 200. bây giờ thì nói mau!- Grimaundan quát.
– Tính từ cống ngầm, đếm sang bên phải, nó nằm giữa viên gạch thứ hai mươi hai và hai mươi ba.
Grimaundan quan sát kỹ chung quanh. Ngoài chiếc xe điện đang đi qua ở đằng xa, trên đường không một bóng người. Ông ta lôi một con dao ra, cắm vào khe giữa hai viên gạch lát đường.
– Sâu bao nhiêu?
– Khoảng mười xăng-ti-mét.
Grimaundan móc lên một đống đất cát ẩm ướt. Đột nhiên, mũ dao chạm phải một vật cưng cứng. Ông dùng tay bậy cái lỗ cho to ra, quả nhiên nhìn thấy bọc lụa màu vàng gói rất cẩn thận. Mở ra, quả nhiên có viên trân châu đen ở trong.
– Đây, 200 đồng tiền vàng cho anh! Còn vé tàu thủy đi Châu Mỹ tôi sẽ cho người mang đến sau.
Ngày hôm sau, báo “Tiếng vọng nước Pháp” đã cho đăng một bản bin, mà sau đó các báo khác đều lũ lượt đăng tải:
“Viên trân châu đen nổi tiếng gần xa ấy, ngày hôm qua đã được Arséne Lupin thu hồi từ tay tên hung thủ đã mưu sát Bá tước phu nhân d’Andillot. Bản sao của viên trân châu này, nội trong vài ngày tới sẽ được triển lãm tại London, St. Petersburg, Calucutta, Buenos Aires và New York.”
Arséne Lupin vô cùng hoan nghênh quan khách các giới đến bàn bạc về sự kiện này.
– Đây gọi là ác giả ác báo, thiện hữu thiện báo-Sau khi thuật lại đầu đuôi vụ án với tôi, Arséne Lupin đã cảm khái thốt lên-Anh cũng biết đấy, sau khi phát hiện Bá tước phu nhân bị giết hại, tôi đã ở trong phòng bà ta tròn 40 phút. Trong thời gian 40 phút này, tôi đã phân tích rõ các chi tiết mà mình nhìn thấy, suy luận quá trình gây án của hung thủ. Từ trong đống dấu vết rối như tơ vò ấy, tôi đã rút ra kết luận: tôi phạm chính là gã giúp việc của Bá tước phu nhân. Hơn nữa tôi còn hiểu rằng, nếu muốn lấy được viên trân châu đen này thì phải để cảnh sát bắt giữ tên giúp việc ấy trước. Vì thế, tôi đã để một khuy áo của hắn ở lại hiện trường. Nhưng lại không thể để cho cảnh sát nắm được chứng cứ chính xác để phá án, thế nên tôi đã lấy con dao gây án mà hắn để quên trên thảm; giấu cái chìa khóa mà hắn để quên ở ổ khóa đi; khóa chặt cửa sau, và còn xóa dấu vân tay trên tường nữa. Tôi cảm thấy, lúc ấy trong đầu tôi có…
– Linh tính-Tôi xen vào.
– Có lẽ là linh tính. Cái y bắt trước thả sau, rõ ràng là được nhờ linh tính mà nghĩ ra. Tôi quyết định phải để cảnh sát và Văn phòng Chưởng lý cho tên này nếm mùi lợi hại, sau đó đợi hắn được thả ra, tôi liền cho hắn sa lưới tôi đã giăng sẵn!…
– Cái tên trộm cắp tội nghiệp này…
– Tội nghiệp? Anh cho hắn là tội nghiệp ư! Sao anh không nghĩ đến chuyện hắn là một kẻ giết người chứ? Để viên trân châu đen ở trong tay hắn mới là trời không có mắt. Hắn vẫn giữ được cái mạng là do tôi đã nhân nhượng lắm rồi đấy!
Anh lấy viên trân châu đen từ trong một cái túi da ra, ngắm nhìn nó với một vẻ say mê, và nhẹ nhàng mân mê nó. Lúc sau anh thở dài nó:
– Thứ châu báu vô giá đã từng được đeo trên chiếc cổ trắng nõn nà của Bá tước phu nhân d’Andillot ấy, chẳng biết lúc nào sẽ lủng lẳng trước ngực của một bà già giàu có ở Mỹ đây…