Ỷ THIÊN ĐỒ LONG KÝ

11. Hữu nữ trường thiệt lợi như thương



Đàn bà hồ đã mấy tay,
Một lời gươm giáo rung cây gẫy cành.
Trương Tam Phong dắt Vô Kỵ xuống khỏi núi Thiếu Thất, nghĩ bụng tính mệnh
của thằng nhỏ không kéo dài được lâu, cũng không còn cách nào để trị bệnh
nên nói chuyện vui cho nó nghe để giải sầu. Hôm đó đến bờ sông Hán Thủy,
hai ông cháu thuê thuyền qua sông. Đến giữa giòng, nước sông cuồn cuộn,
chiếc đò ngang nhồi lên hụp xuống, trong lòng Trương Tam Phong cũng dao
động chẳng khác gì ba đào.
Trương Vô Kỵ bỗng nói: -Thái sư phụ, ông đừng quá lo, cháu chết rồi sẽ gặp
lại cha mẹ cháu, như thế cũng thích.
Trương Tam Phong nói: -Cháu đừng nói vậy, dù thế nào chăng nữa, thái sư
phụ cũng sẽ tìm cách cứu cháu được.
Trương Vô Kỵ nói: -Cháu vẫn nghĩ rằng nếu như học được Cửu Dương thần
công của phái Thiếu Lâm, cháu sẽ nói lại cho tam sư bá nghe, thế thì hay lắm.
Trương Tam Phong hỏi: -Sao lại hay?
Trương Vô Kỵ đáp: -Hi vọng là tam sư bá tu luyện võ công của cả hai phái
Thiếu Lâm, Võ Đương có thể trị được chân tay khỏi tàn phế.
Trương Tam Phong thở dài: -Du tam bá của cháu bị gân cốt ngoại thương, nội
công có cao cường thế nào cũng không trị lành được.
Ông nghĩ thầm: “Thằng bé này biết mình không sống được, vậy mà lại không
sợ chết, lại nghĩ đến việc trị cho Du Đại Nham khỏi tàn tật, tâm địa như thế
thật đúng là bản sắc của kẻ hiệp nghĩa chúng ta”. Đang định khen ngợi nó vài
câu, bỗng nghe trên sông một giọng oang oang từ xa truyền đến: -Mau dừng
thuyền lại, giao đứa trẻ cho ta, phật gia sẽ tha mạng cho, nếu không đừng
trách ta vô tình.
Tiếng nói đó từ sóng truyền đến, lọt vào tai vẫn rõ ràng, hiển nhiên kẻ đó nội
lực không phải là yếu. Trương Tam Phong cười thầm trong bụng: “Kẻ nào lớn
mật, dám bảo ta để thằng bé lại?”
Ngẩng dầu lên ông thấy có hai chiếc thuyền đang chèo như bay từ xa tới, nhìn
kỹ thấy trên một chiếc thuyền nhỏ có một đại hán râu xồm, hai tay hai mái
chèo thật gấp, trong lòng thuyền còn hai đứa bé một nam một nữ. Đằng sau
là một chiếc thuyền khá lớn, trong thuyền có bốn phiên tăng đứng đó, lại thêm
bảy tám võ quan Mông Cổ. Bọn võ quan cầm những ván gỗ làm giầm chèo
phụ. Gã râu xồm rất khỏe, mỗi lần quạt mái chèo, chiếc thuyền nhỏ vọt lên cả
trượng, thế nhưng đằng sau người nhiều thế mạnh, hai chiếc thuyền mỗi lúc
một xích lại gần nhau hơn. Chẳng bao lâu, bọn võ quan và phiên tăng lắp tên
vào cung hướng về phía đại hán nọ bắn tới, tiếng tên bay nghe vèo vèo.
Trương Tam Phong nghĩ thầm: “Thì ra bọn họ bảo gã râu xồm này để đứa bé
lại”. Ông bình sinh ghét nhất quan binh Mông Cổ tàn sát người Hán, thấy vậy
liền định bụng ra tay cứu giúp. Đại hán nọ tay trái chèo thuyền, tay phải giơ
mái giầm gạt những mũi tên bắn tới, thủ pháp thật là nhanh nhẹn. Trương
Tam Phong khen thầm: “Người này võ công không phải tầm thường, quả là kẻ
anh hùng lâm nạn, làm sao ta có thể ngồi nhìn mà không cứu?”. Ông quay đầu
nói với người lái đó: -Thuyền gia, chặn họ lại.
Người chủ thuyền thấy tên bay như mưa, đã sợ mất cả hồn vía, tay chân luống
cuống, đang lo chạy không kịp, làm sao lại dám tiến lên ngăn họ. Y run run
đáp: -Lão … lão đạo gia có nói đùa không đấy?
Trương Tam Phong thấy tình thế khẩn cấp, cướp lấy sào chống, đẩy mạnh mấy
cái xuống nước, chiếc thuyền liền quay ngang, vọt ra chặn hai chiếc thuyền
kia. Bỗng nghe “A” một tiếng thảm khốc, đứa con trai trên chiếc thuyền nhỏ bị
trúng một mũi tên. Gã râu xồm thất kinh, cúi xuống xem xét, đầu vai và lưng
lập tức trúng mấy mũi tên, mái chèo trong tay cầm không vững, rơi tõm xuống
sông, chiếc thuyền liền ngừng lại. Thuyền lớn phía sau lập tức vọt lên, bảy tám
tên quan quân Mông Cổ và phiên tăng liền nhảy lên trên thuyền nhỏ.
Gã râu xồm tuy vậy vẫn bất khuất, tay đấm chân đá, hết sức chống cự. Trương
Tam Phong kêu lớn: -Thát tử dừng tay, chớ có hành hung giết người.
Ông vội vã chèo thêm vài cái nữa cho thuyền tới gần hơn, nhún mình một cái,
hai tay áo phiêu phiêu, từ trên không nhẹ nhàng đáp xuống chiếc thuyền nhỏ.
Hai tên quan binh Mông Cổ nhắm vào ông bắn tới Trương Tam Phong vẫy tay
áo hất hai mũi tên ra ngoài. Chân ông vừa chạm thuyền, chưởng trái liền đánh
ra, lập tức hai tên phiên tăng bị văng ra xa hơn một trượng, bõm bõm hai
tiếng, rơi thẳng xuống sông. Bọn võ quan thấy ông như thiên tướng từ trời
bay xuống, vừa ra tay đã đánh hai tên phiên tăng cao cường nhất bay đi,
không khỏi kinh hãi. Tên võ quan thủ lãnh quát lớn: -Lão đạo khùng kia, ngươi
làm gì thế?
Trương Tam Phong mắng lại: -Bọn Thát tử chó má, chỉ giỏi hành hung tác ác,
tàn hại lương dân, có cút đi không nào?
Tên võ quan kia đáp: -Ngươi biết tên này là ai không? Y là dư đảng của phản
tặc ma giáo ở Viên Châu, cả thiên hạ ai ai cũng muốn tróc nã khâm phạm.
Trương Tam Phong nghe thấy “phản tặc ma giáo ở Viên Châu”, giật mình kinh
hãi, nghĩ thầm: “Không lẽ y là thuộc hạ của Chu Tử Vượng?”, quay đầu lại hỏi
đại hán râu xồm: -Y nói có đúng không?
Người râu xồm toàn thân máu me, tay trái ôm đứa con trai, hổ nhãn rưng
rưng, nói: -Tiểu chúa công … tiểu chúa công bị chúng nó bắn chết rồi.
Câu đó vô hình chung thừa nhận thân phận của mình. Trương Tam Phong
trong lòng lại càng kinh khủng hơn, hỏi: -Phải chăng đây là lang quân của Chu
Tử Vượng?
Đại hán trả lời: -Đúng thế, tiểu nhân phụ lòng ủy thác rồi, cái mạng nhỏ này
cũng không muốn sống nữa.
Y nhẹ nhàng đặt cái xác đứa bé xuống, xông vào viên quan kia. Thế nhưng y
vốn đã bị thương, trên vai trên lưng hai mũi tên còn cắm vào, đầu tên lại có
tẩm thuốc độc, vừa nhảy lên đã kêu một tiếng “Ối” rồi ngã lăn ra sàn thuyền.
Cô bé gái kia thì ôm một xác chết đàn ông ở trong khoang, khóc lớn: -Cha ơi,
cha ơi.
Trương Tam Phong nhìn trang phục người đó, hiển nhiên là người chủ thuyền.
Ông nghĩ thầm: “Nếu mình biết là nhân vật trong ma giáo, chuyện không đâu
này mình đã không nhúng tay vào. Thế nhưng mình đã ra tay thì không thể
nửa chừng rồi bỏ được”. Ông quay qua nói với tên võ quan: -Đứa trẻ này đã
chết, còn người kia đã trúng độc tiễn, trong chốc lát cũng sẽ chết theo, các
ngươi đã lập công rồi, thôi đi nơi khác.
Tên võ quan nói: -Không được, phải chặt hai cái thủ cấp đó mới xong.
Trương Tam Phong nói: -Sao ngươi lại quá quắt đến thế?
Gã võ quan hỏi lại: -Lão đạo là ai? Cớ gì lại nhúng tay vào việc này?
Trương Tam Phong mỉm cười, nói: -Ngươi hỏi ta làm gì? Việc thiên hạ thì người
trong thiên hạ ai chẳng làm được.
Tên võ qua đưa mắt, nói: -Đạo trưởng đạo hiệu là chi? Xuất gia ở đạo quan
nào?
Trương Tam Phong chưa kịp trả lời, hai tên quan quân Mông Cổ đột nhiên
vung trường đao, nhắm vai ông chém xuống. Thế hai lưỡi đao đó xuống thật
nhanh, trong chiếc thuyền nhỏ cách nhau lại gần không cách gì có thể tránh
được.
Trương Tam Phong nghiêng người, ông vốn dĩ quay mặt về phía đầu thuyền,
ông chỉ xoay nhẹ, mặt quay sang phía trái, hai lưỡi đao liền chém vào khoảng
không. Hai chưởng ông vung lên, đẩy luôn vào lưng của hai tên đó, quát: -Cút
đi.
Chưởng lực nhả ra, hai tên võ quan bay lên, nghe bình bình hai tiếng, rơi
trúng ngay cái thuyền bọn chúng vừa đi. Mấy chục năm nay ông không cùng
ai động thủ quá chiêu, lúc này ra tay quả là dùng dao mổ trâu để giết gà
nhưng vẫn nhanh nhẹn như thường. Gã võ quan đầu lãnh kia há hốc mồm, lập
cập nói: -Ngươi … ngươi … ngươi … có phải là … là …
Trương Tam Phong tay áo vũ động, quát lớn: -Lão đạo trước nay chỉ chuyên
giết Thát tử thôi.
Các võ quan và phiên tăng chỉ thấy gió thổi ập vào mặt, ai nấy đều khó thở.
Khi Trương Tam Phong ngừng tay, mọi người mặt trắng bệch, đều cùng la
hoảng, tranh nhau chạy về thuyền lớn, cứu mấy phiên tăng rơi dưới nước rồi
vội vã chèo đi.
Trương Tam Phong lấy trong bọc ra đơn được, nhét vào mồm đại hán râu xồm,
chèo chiếc thuyền nhỏ đến chiếc đò ngang, định đỡ y qua, nào ngờ đại hán đó
tính tình thật cứng cỏi, một tay ôm xác đứa con trai, một tay ôm đứa con gái,
nhẹ nhàng nhảy qua thuyền bên kia. Trương Tam Phong thầm gật đầu: “Người
này đã bị thương nặng, vậy mà vẫn trung với ấu chúa như thế, quả thực là
một hảo hán tử khí khái. Tuy lần này ta lỡ tay cứu y, nhưng người như thế ra
tay cứu cũng đáng”. Oạng qua trở lại chiếc đò ngang, giúp đại hán nọ nhổ
những mũi tên độc ra, bôi thuốc trị thương. Đứa con gái nhìn xác cha theo
chiếc thuyền trôi đi, chỉ còn nước ngồi khóc. Gã râu xồm nói: -Bọn cẩu quan
thật là tàn ác, vừa lên thuyền là bắn chết ngay thuyền phu, nếu lão đạo gia
không cứu kịp, đứa con gái nhà thuyền chài kia chắc cũng bị chúng giết chết.
Trương Tam Phong nghĩ thầm: “Hiện thời Vô Kỵ không đi lại được, hán tử này
lại là khâm phạm, nếu vào nghỉ trong khách điếm tại Lão Hà Khẩu ta phải
chiếu cố cho cả hai người, e chẳng chu toàn được”. Ông lấy ra ba lượng bạc
giao cho người lái thuyền, nói: -Chú lái đò ơi, phiền chú thuận theo dòng đi về
hướng đông, qua Tiên Nhân Độ cho chúng tôi lên Thái Bình điếm nghỉ ngơi.
Người lái đò thấy ông đánh bọn quan binh Mông Cổ một trận tơi bời hoa lá,
vốn đã vạn phần kính sợ, huống chi lại được thưởng nhiều tiền như thế, lập
tức luôn mồm vâng dạ, bẻ lái thuyền qua hướng đông.
Đại hán đó ở tại sàn thuyền khấu đầu nói: -Lão đạo gia cứu mạng cho tiểu
nhân, Thường Ngộ Xuân này xin rập đầu bái tạ.
Trương Tam Phong đưa tay đỡ dậy, nói: -Thường anh hùng không cần phải
dùng đại lễ.
Vừa nắm tay y, thấy bàn tay lạnh như băng, hơi kinh hoảng, vội hỏi: -Phải
chăng Thường anh hùng đã bị nội thương?
Thường Ngộ Xuân nói: -Tiểu nhân từ Tín Dương hộ tống tiểu chủ xuôi Nam,
giữa đường bốn lần tiếp chiến với bọn ưng trảo của Thát Đát đuổi theo, trên
ngực và sau lưng bị một phiên tăng đánh trúng hai chưởng.
Trương Tam Phong cầm cổ tay, thấy mạch nhảy rất yếu, vội cởi áo y ra để xem
vết thương, lại càng kinh hãi, thấy chỗ trúng chưởng sưng vù lên cả tấc,
không phải là nhẹ, giá như người khác chắc không chịu nổi. Người này chạy
trốn hàng ngàn dặm, lại còn phải chống trả cường địch, quả là anh hùng.
Thấy vậy ông liền khuyên y đừng nói năng nhiều, chỉ ở trong khoang tĩnh
dưỡng.
Cô bé gái tuổi chừng lên mười, quần áo cũ kỹ, hai chân không mang giày dép,
tuy con nhà thuyền chài nghèo khổ, nhung mặt mày xinh xắn, thể nào sau này
cũng thành một mỹ nhân, chỉ ngồi sụt sùi gạt nước mắt. Trương Tam Phong
thấy cô bé đáng thương, hỏi: -Cô nương, tên cô là gì?
Cô gái đáp: -Cháu họ Chu, tên là Chu Chỉ Nhược.
Trương Tam Phong nghĩ thầm: “Con nhà thuyền chài mà sao đặt tên thật hay”
nên hỏi tiếp: -Thế nhà cháu ở đâu? Trong nhà còn những ai? Để ta gọi đò đưa
cháu về.
Chu Chỉ Nhược gạt lệ đáp: -Chỉ có hai cha con cháu sống với nhau trên thuyền
thôi … chứ không có ai khác.
Trương Tam Phong ớ một tiếng, nghĩ thầm: “Cô gái này nhà tan người mất, lại
bé bỏng quá, làm thế nào bây giờ đây?”
Thường Ngộ Xuân nói: -Lão đạo gia võ công cao cường, từ xưa tới nay, tiểu
nhân chưa thấy ai như thế bao giờ, xin vô phép hỏi pháp hiệu của ngài là gì?
Trương Tam Phong cười: -Lão là Trương Tam Phong.
Thường Ngộ Xuân “A!” lên một tiếng, vội nhỏm dậy, lớn tiếng: -Hóa ra lão đạo
gia là Trương Chân Nhân của núi Võ Đương, thảo nào thần công cái thế,
Thường Ngộ Xuân hôm nay may mắn được gặp tiên trưởng.
Trương Tam Phong mỉm cười: -Lão đạo bất quá sống hơn vài năm, có gì là tiên
với lại không tiên. Xin Thường anh hùng mau nằm xuống, đừng làm động đến
vết thương.
Ông thấy Thường Ngộ Xuân khẳng khái hào sảng, ăn nói ào ào, cảm thấy mến
y vô cùng, nhưng nghĩ đến y là người trong ma giáo, nên không muốn nói
chuyện nhiều, liền nhạt nhẽo: -Ngươi bị thương không phải là nhẹ, chớ nên
nói nhiều.
Trương Tam Phong tính tình khoáng đạt, đối với chính tà hai đường, vốn không
quá thiên kiến. Trước đây ông đã từng nói với Trương Thúy Sơn: -Hai chữ
chính tà, thật khó phân biệt. Đệ tử trong chính phái mà có tâm thuật bất
chính, thì cũng là tà đồ; còn trong tà phái có người nhất tâm hướng thiện, thì
cũng là chính nhân quân tử.
Lại còn nói giáo chủ Thiên Ưng giáo là Ân Thiên Chính tuy tính tình nóng nảy,
hành sự khác người, nhưng cũng là kẻ quang minh lỗi lạc, có thể kết làm bạn
được. Thế nhưng từ khi Trương Thúy Sơn tự vẫn mà chết, ông thương đứa
học trò yêu, đối với Thiên Ưng giáo hết sức căm giận, tự nhủ đệ tử thứ ba Du
Đại Nham cả đời tàn phế, đệ tử thứ năm Trương Thúy Sơn thân tử danh liệt,
cũng do Thiên Ưng giáo mà ra. Tuy nén lòng không đi kiếm Ân Thiên Chính hỏi
tội phục thù, nhưng dù bụng dạ có rộng rãi đến đâu, hai chữ “tà ma” càng lúc
càng thấy ghét bỏ.
Kẻ tên gọi Chu Tử Vượng kia chính là đại đệ tử của Di Lặc Tông trong Minh
giáo, năm trước khởi sự tại Viên Châu đất Giang Tây, tự lập làm đế, lấy quốc
hiệu là Chu, chẳng bao lâu bị quân Nguyên tiêu diệt, còn Chu Tử Vượng bị bắt
chém đầu. Di Lặc Tông và Thiên Ưng giáo tuy không cùng một phái nhưng
đều là chi lưu của Minh giáo, có liên hệ với nhau rất sâu xa. Khi Chu Tử Vượng
khởi sự, Ân Thiên Chính có thanh viện[1] tại Triết Giang. Trương Tam Phong
hôm nay cứu Thường Ngộ Xuân, chỉ vì nhất thời lòng hiệp nghĩa khích động,
và lúc đầu cũng không biết y thuộc Minh giáo, nên không lấy gì hợp với bản
nguyện.
Canh hai đêm đó thuyền đến Thái Bình điếm. Trương Tam Phong bảo thuyền
phu rời thị trấn đến một cái bến ở xa. Người lái đò lên chợ mua đồ ăn, nấu
cơm, bày trên thuyền nào thịt gà, thịt heo, cá, rau cả thảy đến bốn bát lớn.
Trương Tam Phong bảo Thường Ngộ Xuân và Chu Chỉ Nhược ăn trước, còn tự
mình đút cho Trương Vô Kỵ ăn. Thường Ngộ Xuân hỏi nguyên do, Trương Tam
Phong nói là y bị hàn độc xâm nhập tạng phủ, đã điểm huyệt đạo các nơi, tạm
thời chưa nguy đến tính mệnh. Trương Vô Kỵ tủi thân, nghẹn ngào không nuốt
nổi miếng cơm xuống họng. Trương Tam Phong lại gặng đút nữa, y lắc đầu,
không chịu ăn.
Chu Chỉ Nhược đón lấy chén cơm trong tay Trương Tam Phong, nói: -Đạo
trưởng ăn trước đi, để cháu bón cơm cho vị tiểu tướng công này.
Trương Vô Kỵ nói: -Ta no rồi, không muốn ăn nữa.
Chu Chỉ Nhược nói: -Tiểu tướng công, nếu anh không ăn, lão đạo trưởng trong
lòng không vui, ăn cơm không nổi, chẳng hóa ra cũng bị đói ư?
Trương Vô Kỵ nghĩ cô ta nói quả không sai, nên khi Chu Chỉ Nhược đưa cơm
tới miệng vội há mồm ăn. Chu Chỉ Nhược gỡ hết xương cá, xương gà, mỗi
miếng cơm lại rưới thêm tí nước thịt, Trương Vô Kỵ ăn thấy thật ngon miệng,
hết cả một bát lớn.
Trương Tam Phong trong lòng thấy an ủi, nghĩ thầm: “Vô Kỵ số khổ, từ bé cha
mẹ chết sớm, lại bị bệnh nặng. Nếu được người con gái có ý tứ thế này chăm
sóc quả thật là hay”.
Thường Ngộ Xuân không đụng tới thịt cá, chỉ ăn sạch bát rau, tuy đang trọng
thương, nhưng cũng ăn hết bốn bát cơm trắng. Trương Tam Phong không
kiêng thịt, thấy y ăn uống thật hào sảng, nên khuyên y ăn tí thị gà. Thường
Ngộ Xuân nói: -Trương chân nhân, tiểu nhân thờ Bồ Tát nên không ăn mặn.
Trương Tam Phong “A” một tiếng: -Ồ lão đạo quên.
Lúc đó mới nhớ là người trong ma giáo qui củ rất nghiêm, không ăn mặn, từ
đời Đường tới giờ, đều thế cả. Cuối thời Bắc Tống, đại thủ lãnh của Minh giáo
là Phương Lạp khởi sự tại Triết Đông, đương thời quan cũng như dân gọi họ là
“đạo ăn chay thờ ma”. Ăn chay và phụng thờ ma vương là hai qui luật lớn của
ma giáo, đã truyền từ mấy trăm năm nay. Đời nhà Tống, quan phủ chém giết
ma giáo rất ngặt, người trong võ lâm cũng coi họ chẳng ra gì, vì thế giáo đồ
hành sự cực kỳ ẩn bí, tuy ăn chay nhưng đối với người ngoài phải giả xưng là
thờ Phật, bái Bồ Tát, không dám tiết lộ thân phận của mình.
Thường Ngộ Xuân nói: -Trương chân nhân, ngài có ơn cứu mệnh đối với tôi, lại
đã biết rõ lai lịch rồi, nên không dám giấu diếm. Tiểu nhân là người trong Minh
giáo, phụng sự Minh tôn. Triều đình quan phủ đối với chúng tôi mười phần
căm ghét, người hiệp nghĩa trong các danh môn chính phái cũng coi nhẹ
chúng tôi, thậm chí đến bọn đốt nhà cướp của, giết người không gớm tay
trong hắc đạo cũng gọi chúng tôi là yêu ma quỉ quái. Lão nhân gia đã biết rõ
lai lịch của chúng tôi mà vẫn ra tay tương cứu, cái ân đức đó, quả thực tôi
không biết lấy gì báo đáp.
Trương Tam Phong cũng đã từng nghe qua về lai lịch của ma giáo, biết ma
giáo phụng thờ đại ma vương tên là Ma Ni, người trong tôn giáo gọi là Minh
Tôn. Tôn giáo này đến trung thổ từ đời Nguyên Hòa, Hiến Tông nhà Đường,
khi đó gọi là Ma Ni giáo lại còn gọi là Đại Vân Quang Minh giáo, giáo đồ tự
xưng Minh giáo nhưng người ngoài gọi họ là Ma giáo[2]. Ông trầm ngâm giây
lát, nói: -Thường anh hùng …
Thường Ngộ Xuân vội nói: -Lão đạo gia, ngài đừng gọi anh hùng, hào kiệt gì,
cứ gọi trống không Ngộ Xuân là được rồi.
Trương Tam Phong nói: -Được rồi, Ngộ Xuân, năm nay anh bao nhiêu tuổi?
Thường Ngộ Xuân đáp: -Cháu vừa đúng hai mươi.
Trương Tam Phong hỏi như thế vì thấy y tuy mặt đầy râu ria, nhưng ăn nói cử
chỉ xem chừng còn trẻ lắm, nghe xong gật đầu: -Anh như thế cũng chỉ mới
lớn, tuy đầu nhập ma giáo, nhưng sa chân chưa sâu, nếu biết sớm quay đầu
lại thì cũng chưa muộn. Ta có một câu muốn khuyên anh, anh nghe cũng
đừng giận.
Thường Ngộ Xuân nói: -Lão đạo gia dạy bảo, tiểu nhân làm sao dám giận.
Trương Tam Phong nói: -Tốt lắm, ta khuyên anh hôm nay thay lòng đổi dạ, bỏ
tà giáo đi. Nếu anh không hiềm phái Võ Đương bản lĩnh kém cỏi, lão đạo sẽ
bảo đại đồ nhi Tống Viễn Kiều thu anh làm đệ tử. Sau này anh hành tẩu giang
hồ, hiên ngang oai phong, không ai dám coi thường anh cả.
Tống Viễn Kiều đứng đầu bảy đệ tử, danh chấn thiên hạ, những người tầm
thường trong võ lâm được gặp một lần cũng không phải dễ. Võ Đương chư
hiệp đến những năm gần đây mới bắt đầu thu đồ đệ nhưng tuyển chọn thật
nghiêm, nếu không phải người có căn cốt tư chất, phẩm hạnh tính tình đều
tốt, thì không thể nào được nhận vào làm môn hạ phái Võ Đương. Thường
Ngộ Xuân xuất thân ma giáo, người thường nghe tới đã nhíu mày, vậy mà
được Trương Tam Phong biệt đãi, muốn y đầu nhập môn hạ Tống Viễn Kiều,
cứ như người trong võ học thì thật là một phúc duyên cực kỳ khó gặp trên đời.
Nào ngờ Thường Ngộ Xuân khẳng khái nói: -Tiểu nhân được Trương chân
nhân coi trọng, thực cảm kích không để đâu cho hết. Thế nhưng tiểu nhân đã
thuộc Minh giáo rồi, suốt đời không thể nào bội giáo được.
Trương Tam Phong lại khuyên thêm mấy câu nữa, Thường Ngộ Xuân kiên
quyết không nghe. Trương Tam Phong thấy y chấp mê không tỉnh ngộ, chỉ còn
nước lắc đầu thở dài, nói: -Còn tiểu cô nương này …
Thường Ngộ Xuân nói: -Lão đạo trưởng không lo, cha cô này vì tôi mà chết,
tiểu nhân sẽ tìm cách chiếu liệu cho.
Trương Tam Phong nói: -Được rồi, nhưng anh không được để cho nó gia nhập
quí giáo đâu nhé.
Thường Ngộ Xuân đáp: -Không biết chúng tôi có làm tội ác gì lớn lao mà ai ai
đều khinh thị, coi người trong Minh giáo như rắn độc, thú dữ. Vâng, đạo
trưởng đã dặn như thế, tiểu nhân xin tuân mệnh.
Trương Tam Phong ôm Vô Kỵ vào lòng, nói: -Nếu thế thì mình từ biệt nhau nơi
đây.
Ông không muốn dây dưa với người trong ma giáo, nên bốn chữ “sau này gặp
lại” không nói ra. Thường Ngộ Xuân lại bái tạ một lần nữa. Chu Chỉ Nhược nói
với Trương Vô Kỵ: -Tiểu tướng công, tướng công mỗi ngày nhớ ăn cho no, để
lão đạo gia khỏi lo lắng.
Trương Vô Kỵ nước mắt tuôn tràn, nghẹn ngào nói: -Đa tạ cô có lòng tốt, thế
nhưng … thế nhưng ta cũng chẳng còn bao nhiêu ngày để ăn đâu.
Trương Tam Phong lòng buồn bã, lấy tay áo, chùi nước mắt trên má Vô Kỵ.
Chu Chỉ Nhược kinh hãi hỏi lại: -Sao thế? Ngươi … ngươi …
Trương Tam Phong nói: -Tiểu cô nương, lòng dạ cô thật tốt, chỉ mong sau này
cô đi theo con đường chính đáng, nhất quyết đừng rơi vào vòng tà ma.
Chu Chỉ Nhược đáp: -Vâng, thế còn vị tiểu tướng công này nói là chẳng còn
bao nhiêu ngày để ăn là sao?
Trương Tam Phong lặng lẽ không trả lời. Thường Ngộ Xuân nói: -Trương chân
nhân, lão nhân gia công lực thâm hậu, thần thông quảng đại, vị tiểu gia này
trúng độc dĩ nhiên không phải nhẹ, có thể hóa giải được chăng?
Trương Tam Phong đáp: -Được chứ.
Thế nhưng tay trái ông thõng bên dưới xua xua mấy cái, ý muốn nói là mặc dù
bệnh tình y coi như vô phương nhưng không muốn cho Vô Kỵ biết. Thường
Ngộ Xuân thấy ông xua tay, giật mình kinh hoảng, nói: -Tiểu nhân bị nội
thương nặng, đang định đi nhờ một vị thần y chữa cho, sao không cho vị tiểu
gia này đi luôn thể?
Trương Tam Phong lắc đầu đáp: -Hàn độc đã chạy khắp tạng phủ, thuốc men
tầm thường chữa không khỏi được đâu, chỉ còn … chỉ còn từ từ hóa giải thôi.
Thường Ngộ Xuân nói: -Thế nhưng vị thần y này quả có năng lực cải tử hoàn
sinh.
Trương Tam Phong sững người, chợt nghĩ ra bèn hỏi: -Ngươi có phải định nói
tới “Điệp Cốc Y Tiên” chăng?
Thường Ngộ Xuân đáp: -Chính ông ta, thì ra lão đạo trưởng cũng đã nghe tới
tên Hồ sư bá của tiểu nhân.
Trương Tam Phong trù trừ, nghĩ thầm: “Ta đã nghe gã Điệp Cốc Y Tiên Hồ
Thanh Ngưu này tuy y đạo cực kỳ cao minh, nhưng lại là người trong ma giáo,
xưa nay võ lâm nhân sĩ không ai muốn nói tới. Huống chi tính tình y lại hết sức
quái dị, chỉ cần là người trong ma giáo y sẽ tận lực cứu chữa, không lấy một
đồng, còn người ngoài cầu y, dù cả vạn lượng vào chồng trước mặt y cũng
không đoái hoài đến, thành thử còn một cái ngoại hiệu “Kiến Tử Bất Cứu”. Nếu
quả là người đó thì đành để Vô Kỵ hàn độc phát tác mà chết còn hơn để y rơi
vào vòng ma giáo”.
Thường Ngộ Xuân thấy ông nhíu mày suy nghĩ, hiểu rõ tâm ý của Trương Tam
Phong liền nói: -Trương chân nhân, Hồ sư bá tuy trước nay không chữa bệnh
cho người ngoại đạo, nhưng tiểu nhân được lão đạo trưởng cứu, đại ân thâm
trọng, Hồ sư bá không thể không phá lệ. Nếu ông ấy không chịu ra tay thì tiểu
nhân nhất định không để yên.
Trương Tam Phong nói: -Vị Hồ tiên sinh đó y thuật như thần, ta cũng đã từng
nghe tiếng. Có điều hàn độc trong thân thể Vô Kỵ, không phải tầm thường …
Thường Ngộ Xuân lớn tiếng nói: -Vị tiểu gia này nếu như cùng lắm trị không
xong, thì đằng nào cũng chết, còn có gì mà phải lo?
Y tính tình sảng trực, bụng nghĩ sao liền nói ra không kiêng dè gì cả. Trương
Tam Phong nghe nói “thì đằng nào cũng chết”, trong lòng chấn động nghĩ
thầm: “Tên này ăn nói lỗ mãng nhưng quả không sai, xem ra Vô Kỵ chỉ còn
sống được độ một tháng nữa thôi, thôi thì đành đánh liều cầu may vậy”. Ông
trước nay giao thiệp với ai luôn luôn hết lòng hết dạ, coi ai cũng như mình
không nghi ngại, Thường Ngộ Xuân này quả là người trọng nghĩa, thế nhưng
Vô Kỵ là giọt máu duy nhất của đứa học trò yêu, nay bảo ông giao vào tay một
đệ tử ma giáo, tà ác nổi danh, làm sao có thể yên tâm, thành ra nhất thời
không sao quyết định được.
Thường Ngộ Xuân nói: -Trương chân nhân không muốn đến gặp Hồ sư bá,
điều đó cháu cũng hiểu rồi. Trước nay chính tà hai bên không đứng chung,
Trương chân nhân là đại tông sư đương thời, lẽ nào đi cầu tà ma ngoại đạo?
Hồ sư bá tính tính cổ quái, gặp Trương chân nhân ăn nói vô lễ, hai bên lại gây
chuyện không chừng. Vị Trương huynh đệ này tốt hơn do cháu đưa tới, nhưng
chắc Trương chân nhân không an lòng. Thôi thì thế này, cháu đưa Trương
huynh đệ tới nhờ Hồ sư bá xin ông ấy từ từ cứu chữa, sau đó cháu sẽ lên núi
Võ Đương làm con tin. Trương huynh đệ nếu như có gì, Trương chân nhân cứ
một chưởng đánh cháu chết là xong.
Trương Tam Phong không khỏi bật cười, nghĩ thầm nếu như Trương Vô Kỵ có
gì sơ sẩy, ta đánh ngươi chết để làm chi? Nếu ngươi không lên núi Võ Đương
thì ta biết đi đâu mà tìm? Thế nhưng trước mắt Vô Kỵ hàn độc đã đi vào gan
phổi rồi, quả đúng là” đằng nào cũng chết”, ở lúc sinh tử này đành phải quyết
định dứt khoát, bèn nói: -Thế thì đành gửi anh vậy. Thế nhưng phải nói trước,
Hồ tiên sinh không được ép Vô Kỵ nhập giáo, phái Võ Đương chúng tôi cũng
không chịu ơn quí giáo đâu.
Ông biết ma giáo hành sự ngụy bí, nếu như dính dấp với họ, họ sẽ luẩn quẩn
với mình hoài, không biết hậu hoạn đến chừng nào, Trương Thúy Sơn đã thân
bại danh liệt, thật là rành rành ra đấy. Thường Ngộ Xuân ngang nhiên đáp: –
Trương chân nhân coi Minh giáo chúng tôi chẳng ra gì cả, nhưng thôi cứ theo
đúng lời dạy bảo là xong.
Trương Tam Phong nói: -Anh thay ta chăm sóc cho Vô Kỵ, nếu như âm độc
trong thân thể trừ được, thì anh dẫn nó lên núi Võ Đương. Còn việc anh lên
núi làm con tin, cái đó không cần thiết.
Thường Ngộ Xuân đáp: -Tiểu nhân xin hết sức cố gắng.
Trương Tam Phong nói: -Còn tiểu cô nương này, ta dẫn lên núi Võ Đương, sẽ
thu xếp lo liệu sau.
Thường Ngộ Xuân lên bờ dùng tay đào một cái hố dưới một gốc cây to, đem
Chu công tử lột hết quần áo rồi mới đem chôn, quì trước phần mộ lạy mấy lạy.
Thì ra qui củ của Minh giáo là “khỏa táng”, khi sinh ra không một mảnh vải che
thân, thì khi chết đem chôn cũng không mặc quần áo. Trương Tam Phong
không hiểu lý do, chỉ nghĩ thầm bọn người này làm gì cũng tà môn thần bí.
Sáng hôm sau, Trương Tam Phong dắt Chu Chỉ Nhược, chia tay cùng Trương
Vô Kỵ và Thường Ngộ Xuân. Trương Vô Kỵ từ khi cha mẹ chết đến giờ, coi
Trương Tam Phong như ông nội, bây giờ bất ngờ phải xa, không khỏi nước mắt
ròng ròng. Trương Tam Phong ôn tồn nói: -Vô Kỵ, khi nào cháu khỏi bệnh rồi,
Thường đại ca sẽ đưa cháu về núi Võ Đương. Cháu ngoan, chỉ xa ông vài
tháng, không có gì phải buồn.
Trương Vô Kỵ chân tay không cử động được nhưng nước mắt không ngừng
chảy dài trên má. Chu Chỉ Nhược trở lại thuyền, lấy trong bọc ra một cái khăn
tay, lau nước mắt cho nó, mỉm cười rồi nhét chiếc khăn vào trong túi Vô Kỵ,
sau đó mới lên bờ.
Trương Vô Kỵ nhìn theo thái sư phụ cùng Chu Chỉ Nhược đi về hướng tây, thấy
cô gái không ngớt quay đầu giơ tay vẫy nó, mãi đến khi đi khuất sau một hàng
dương liễu mới thôi. Lúc này thằng bé thấy mình thê lương lẻ bóng, đau khổ
vô chừng, không nhịn nổi khóc òa lên. Thường Ngộ Xuân nhíu mày hỏi: –
Trương huynh đệ, năm nay chú bao nhiêu tuổi?
Trương Vô Kỵ nghẹn ngào đáp: -Mười hai tuổi.
Thường Ngộ Xuân nói: -Hay nhỉ, mười hai tuổi rồi, đâu có còn bé bỏng gì nữa,
vậy mà khóc hu hu, không biết xấu. Hồi ta mười hai tuổi, bị đánh không biết
mấy trăm lần, nhưng không bao giờ phải chảy nước mắt cả. Nam tử hán đại
trượng phu, máu chảy thì được, nước mắt chảy thì không. Nếu chú mày còn
thút thít không nín, ta sẽ cho chú mày mấy cái tát.
Trương Vô Kỵ nói: -Tôi không muốn rời xa thái sư phụ nên tôi khóc, còn ai
đánh tôi tôi không khóc đâu. Anh muốn đánh tôi cứ việc đánh, hôm nay anh
đánh tôi một quyền, ngày sau tôi đánh lại anh mười quyền.
Thường Ngộ Xuân ngạc nhiên, cười ha hả, nói: -Hảo huynh đệ, hảo huynh đệ,
thế mới là một nam tử có cốt khí chứ. Chú mày ghê gớm như thế, làm sao ta
dám đánh chú mày.
Trương Vô Kỵ nói: -Tôi cử động còn không được, tại sao đại ca không dám
đánh tôi?
Thường Ngộ Xuân cười đáp: -Hôm nay ta đánh chú mày, sau này chú mày
theo học thái sư phụ võ công, thần quyền của phái Võ Đương, làm sao ta chịu
mổi mười cú đấm.
Trương Vô Kỵ nghe vậy cũng bật cười, thấy vị Thường đại ca này tuy tướng
mạo hung dữ nhưng không phải là người xấu. Thường Ngộ Xuân thuê giang
thuyền đi xuống Hán Khẩu, đến Hán Khẩu đổi qua thuyền lớn đi theo Trường
giang xuôi về hướng đông. Nơi Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu ẩn cư là Hồ
Điệp Cốc[3], ở tại bên cạnh hồ Nữ Sơn, thuộc Hoàn Bắc[4].
Trường giang từ Hán Khẩu đến Cửu Giang, chảy theo hướng đông nam, qua
Cửu Giang rồi mới bẻ theo hướng đông bắc đi vào cảnh giới đất Hoàn. Hai
năm trước, Trương Vô Kỵ từng đi thuyền ngược lên hướng bắc, nhưng lúc đó
có cha mẹ cùng đi, lại có nhị bá Du Liên Châu đồng hành, đường đi biết bao
nhiêu thích thú. Hôm nay cha mẹ đều đã mất cả rồi, còn mình sống dở chết dở
theo Thường Ngộ Xuân đi chữa bệnh, sướng khổ hai đằng, thật cách nhau
một trời một vực. Thế nhưng y sợ Thường Ngộ Xuân nổi cáu, tuy trong lòng
đau buồn nhưng không dám chảy nước mắt. Lúc đó trên thân thể y những
huyệt đạo Trương Tam Phong điểm đã tự động giải khai rồi, mỗi khi hàn độc
phát tác đau đớn chịu không nổi, y chỉ còn cách nghiến răng cố chịu, đến nỗi
môi trên môi dưới đầy vết răng, mà âm hàn xâm nhập mỗi ngày mỗi nặng
thêm.
Khi đến Qua Phụ ở hạ du Tập Khánh, Thường Ngộ Xuân bỏ thuyền lên bờ,
mướn một cỗ xe lớn, đi về hướng bắc, vài ngày sau đến Quang Minh ở phía
đông của Phượng Dương. Thường Ngộ Xuân biết rằng vị Hồ sư bá này không
thích người ngoài biết được chỗ ông ta ẩn cư, khi đến cách hồ Nữ Sơn khoảng
hai chục dặm thì bắt xe phải quay đầu, cõng Trương Vô Kỵ trên lưng, băng
băng đi tới.
Y vẫn tưởng hai chục dặm đi một mạch là tới, nào ngờ vì bị trúng hai âm
chưởng của phiên tăng, nội thương khá nặng, chỉ đi được một dặm thì gân cốt
đã mỏi nhừ, đau nhức, thở hồng hộc bước đi không nổi. Trương Vô Kỵ không
nỡ để y đi tiếp nên nói: -Thường đại ca, để tiểu đệ đi một mình cũng được, đại
ca đừng phí sức.
Thường Ngộ Xuân tức khí, giận dữ nói: -Bình thời ta đi một hơi cả trăm dặm
chưa thấy mệt, không lẽ mấy tên tặc hòa thượng đánh có hai chưởng, đã đi
không nổi sao?
Y hiếu thắng càng ra sức đi nhanh hơn. Thế nhưng nội thương vốn đã trầm
trọng, lại thêm nóng nảy cố sức, chỉ được vài chục trượng, đã thấy các khớp
xương trong người như muốn rời ra, nhưng không chịu nhận mình yếu, cũng
không chịu bỏ Vô Kỵ xuống, chỉ còn loạng choạng đi từng bước một.
Đi như thế thật là chậm, đến lúc trời tối, chưa được một nửa đường, đường
núi lại cheo leo, càng vào sâu càng khó đi. Đi đến giữa một khu rừng, Thường
Ngộ Xuân bỏ Trương Vô Kỵ xuống đất, nằm thẳng cẳng nghỉ mệt. Y lấy trong
bọc ra mấy cái bánh trái chia cho Vô Kỵ một nửa cùng ăn. Thường Ngộ Xuân
nghỉ độ nửa giờ, lên đường đi tiếp. Vô Kỵ cực lực khuyên y nên ngủ lại trong
rừng một đêm, đợi trời sáng hãy tiếp tục. Thường Ngộ Xuân nghĩ quả thực
nếu trời tối thế này mà đi tiếp, nửa đêm nửa hôm đến kinh động Hồ Thanh
Ngưu, thể nào cũng làm ông ta nổi giận, đành nghe lời. Hai người ngồi dưới
một gốc cây to, dựa vào nhau mà ngủ.
Ngủ đến nửa đêm, hàn độc trong người Trương Vô Kỵ lại phát tác, run rẩy
không ngừng. Y sợ sẽ làm Thường Ngộ Xuân tỉnh dậy nên không dám kêu, chỉ
cố chịu đựng. Ngay lúc đó bỗng có tiếng binh khí va chạm nhau từ xa vọng tới,
lại có tiếng người: -Định chạy đi đâu?
-Chặn bên phía đông, dồn y vào trong rừng.
-Kỳ này nhất định không cho thằng trọc chạy thoát.
Sau đó có tiếng bước chân, có mấy người chạy vào trong rừng. Thường Ngộ
Xuân kinh hoảng tỉnh giấc, tay phải rút đơn đao ra, tay trái ôm Trương Vô Kỵ,
định sẽ vừa đánh vừa chạy. Trương Vô Kỵ nói khẽ: -Hình như không phải họ đi
kiếm bọn mình đâu.
Thường Ngộ Xuân gật đầu, nép mình sau gốc cây nhìn ra, trong đêm tối thấy
có bảy tám người vây đánh một người, người đó tay không, song chưởng bay
múa, ép cho địch nhân không thể tới gần được. Đánh nhau một hồi, vòng vây
những người kia dần dần thắt lại.
Một hồi sau, ánh trăng non từ trong đám mây chui ra chiếu xuống, dãi khắp
bốn bề, thấy người bị vây kia là một nhà sư cao gầy chừng bốn chục tuổi mặc
áo bào trắng. Những người vây đánh y có tăng có đạo, lại có người mặc theo
lối tục gia, lại có thêm hai người đàn bà, tổng cộng tám người cả thảy. Hai nhà
sư mặc áo màu xám tro một người cầm thiền trượng, một người cầm giới đao,
mỗi lần thiền trượng đánh ngang giới đao múa che bên cạnh thì gió bay ra
khiến lá cây rụng xuống lả tả. Một đạo nhân tay cầm trường kiếm, thân pháp
nhanh nhẹn, dưới ánh trăng múa ra lấp lóe kiếm hoa từng vùng. Một hán tử
thấp bé cầm song đao, lăn qua lăn lại dưới đất, dùng Địa Đường đao pháp tấn
công hạ bàn của nhà sư áo trắng.
Hai người đàn bà thân hình mảnh dẻ, đều cầm trường kiếm, kiếm pháp thật là
linh động nhẹ nhàng. Đấu được một hồi, một trong hai người quay ngang, nửa
mặt chiếu dưới ánh trăng, Trương Vô Kỵ bất giác suýt tí nữa kêu lên: “Kỷ cô
nương”. Người đó chính là vị hôn thê của Ân Lê Đình Kỷ Hiểu Phù. Lúc mới
xem tám người vây đánh một người, Trương Vô Kỵ thấy họ lấy nhiều chống ít
không công bình, lòng mong thầm hòa thượng nọ có thể đột phá vòng vây
chạy thoát. Bây giờ nhận ra được Kỷ Hiểu Phù rồi, tin chắc nhà sư nọ là kẻ
địch của Kỷ cô nương ắt không phải kẻ tốt, lòng liền xoay qua ủng hộ phe Kỷ
Hiểu Phù.
Năm xưa khi cha mẹ tự tận, Kỷ Hiểu Phù từng ngọt ngào an ủi nó, tuy Vô Kỵ
không nhận cái vòng vàng đeo cổ cô ta cho, nhưng sau nghĩ lại cái hảo ý của
cô ta thật đáng cảm kích. Vô Kỵ thấy hòa thượng bị vây kia võ công thật cao
cường, chưởng pháp lúc nhanh lúc chậm, hư hư thực thực, biến huyễn đa
đoan, khi ra tay nhanh thì ngay cả đường đi của bàn tay y cũng không nhìn rõ.
Bên Kỷ Hiểu Phù tuy đông người nhưng đánh lâu y vẫn không chịu kém.
Bỗng nghe một hán tử quát lên: -Dùng ám khí tấn công.
Một hán tử và một đạo nhân liền dạt qua hai bên, sau đó nghe tiếng vèo vèo
liên tiếp, thiết đạn và phi đao bắn ào ào vào hòa thượng áo trắng khiến cho
nhà sư không chống đỡ nổi. Đạo nhân râu dài cầm kiếm quát lên: -Bành hòa
thượng, bọn ta không muốn giết ngươi đâu, việc gì ngươi phải đánh đến
cùng? Ngươi đem Bạch Qui Thọ đưa ra, chúng ta sẽ cười mà tha liền, có phải
hay không?
Thường Ngộ Xuân giật mình kinh hãi, hạ giọng: -Vị đó là Bành hòa thượng?
Khi trước đi thuyền, Vô Kỵ từng nghe cha mình kể chuyện dương đao lập uy
trên Vương Bàn Sơn đảo cho Du nhị bá nghe, biết tại sao các môn phái kết
oán thù với Thiên Ưng giáo. Bạch Qui Thọ chính là đàn chủ Huyền Võ đàn còn
sống sót, lâu nay các môn phái đánh nhau với Thiên Ưng giáo cũng vì muốn
Bạch đàn chủ thổ lộ tung tích của Tạ Tốn. Y nghĩ thầm: “Không lẽ vị Bành hòa
thượng này cũng là nhân vật trong giáo phái của mẹ ta?”.
Chỉ nghe Bành hòa thượng lớn tiếng nói: -Bạch đàn chủ đã bị các ngươi đánh
trọng thương, không nói gì ta với y có chút uyên nguyên, dù chẳng liên quan
gì cũng đâu có thể thấy người chết mà không cứu?
Đạo nhân râu dài nói: -Cái gì mà “kiến tử bất cứu”? Bọn ta có định giết y đâu,
chỉ muốn biết tin tức của một người thôi.
Bành hòa thượng đáp: -Các ngươi muốn hỏi chỗ ở của Tạ Tốn, sao không đến
tìm phương trượng chùa Thiếu Lâm mà hỏi?
Một tăng nhân mặc áo xám tro liền kêu lên: -Đó là ác kế của yêu nữ Thiên Ưng
giáo Ân Tố Tố giá họa cho chùa Thiếu Lâm ta, ai tin cho nổi?
Nhà sư đó hiển nhiên thuộc phái Thiếu Lâm. Trương Vô Kỵ nghe y nhắc đến
tên của mẹ mình, vừa hãnh diện, vừa đau lòng, nghĩ thầm: “Mẹ ta qua đời đã
hai năm, nhưng vẫn còn làm cho các ngươi phải đau đầu”. Bỗng nghe đạo
nhân đứng bên ngoài vòng kêu lên: -Tất cả nằm xuống.
Sáu người nghe thế, vội vàng hụp xuống, chỉ thấy bạch quang lấp loáng, năm
thanh phi đao vù vù phóng ra, nhắm thẳng vào đầu Bành hòa thượng. Đúng
ra Bành hòa thượng chỉ cần cúi đầu, khom lưng nhào về phía trước, hay dùng
thiết bản kiều ngửa người về sau là phi đao đã bay trượt ra rồi, nhưng khi đó
dưới đất sáu người cùng dựng binh khí lên, chặn hết hạ tam lộ của y, làm sao
cúi mình né tránh được?
Trương Vô Kỵ kinh hãi, thấy Bành hòa thượng nhảy vọt lên, năm ngọn phi đao
bay dưới chân, tuy y né được nhưng thiền trượng giới đao của hai nhà sư
Thiếu Lâm, kiếm của đạo nhân râu dài vẫn đâm tới đùi y. Bành hòa thượng còn
đang ở trên không, đành phải mạo hiểm, chưởng trái đánh ra, nghe bịch một
tiếng, trúng đầu một tăng nhân, tay phải liền móc một cái, cướp ngay được
giới đao của y, thuận thế gạt vào thiền trượng, mượn sức thân hình liền bay ra
xa hai trượng.
Nhà sư Thiếu Lâm bị đánh trúng thiên linh cái chết ngay lập tức. Những người
khác liền giận dữ hò hét đuổi theo, còn Bành hòa thượng chân khập khiễng
ngã lăn ra đất, bảy người liền bao quanh y. Nhà sư cầm thiền trượng chẳng
khác gì con hổ điên, liên tiếp đánh xuống mồm gào: -Bành hòa thượng, ngươi
giết sư đệ ta, ta quyết thí mạng với ngươi.
Đạo nhân râu dài kêu lên: -Đùi y trúng yết vĩ câu[5] ám khí của ta rồi, chỉ chốc
lát chất độc phát tác là chết thôi.
Quả nhiên chân Bành hòa thượng không đứng vững, lảo đảo không yên.
Thường Ngộ Xuân nghĩ thầm: “Y là một đại nhân vật trong Minh giáo ta, không
thể không cứu”. Dù y đang bị trọng thương nhưng vẫn định xông ra cứu
người, nên hít một hơi dài, chân trái nhảy tới. Nào ngờ y hô hấp quá nhanh,
bước lại dài liền động đến vết thương trên ngực, đau quá muốn xỉu. Ngay lúc
đó Bành hòa thượng nhảy vọt lên, cũng ngã lăn ra, có lẽ chất độc làm y chết
rồi. Thường Ngộ Xuân cố nhịn đau, giương mắt xem động tĩnh, thấy bảy người
kia vẫn không dám đến gần Bành hòa thượng.
Đạo nhân râu dài nói: -Hứa sư đệ, ngươi bắn hai ngọn phi đao xem thế nào.
Đạo nhân nọ liền giơ tay phải lên, nghe cách cách hai tiếng, một ngọn phi đao
bắn trúng vai phải, một ngọn phi đao bắn trúng đùi trái của Bành hòa thượng.
Bành hòa thượng không động đậy, hiển nhiên không còn sống nữa. Đạo nhân
râu dài nói: -Tiếc quá, tiếc quá, y chết mất rồi, không biết y giấu Bạch Qui Thọ
ở đâu?
Bảy người lập tức tiến lên vây quanh xem xét. Bỗng nghe bình bình bình bình
bình liên tiếp, năm người bị đánh văng ra ngoài. Bành hòa thượng liền đứng
lên, đầu vai và đùi vẫn còn cắm phi đao. Thì ra đùi y trúng ám khí tẩm độc,
biết rằng không thể tiếp tục đấu, bèn giả cách chết, dụ địch tới gần, dùng Đại
Phong Vân Phi Chưởng thủ pháp nhanh như điện chớp đánh vào ngực năm
người đàn ông. Y nằm trên mặt đất đã ám vận chân khí chờ sẵn, nên năm
chưởng đó thật là cương mãnh lợi hại.
Kỷ Hiểu Phù và sư tỉ đồng môn Đinh Mẫn Quân giật mình kinh hãi, vội vàng
nhảy ra ngoài, nhìn lại năm người đồng bạn, người nào cũng ứa máu mồm, hai
người công lực kém hơn luôn mồm kêu la. Thế nhưng Bành hòa thượng vận
kình gấp rút, cũng đứng không vững lảo đảo muốn ngã. Gã đạo nhân râu dài
nói: -Đinh Kỷ hai vị cô nương, mau dùng kiếm đâm y đi.
Hai bên chín người thì một tăng nhân Thiếu Lâm đã chết, Bành hòa thượng và
năm người khác đều bị trọng thương, chỉ còn Kỷ Hiểu Phù và Đinh Mẫn Quân
là chưa sao cả. Đinh Mẫn Quân nghĩ thầm: “Bộ ngươi tưởng ta không biết
dùng kiếm hay sao mà ngươi phải chỉ điểm?” Thị liền sử chiêu Hư Thức Phân
Kim vung kiếm lên chém xuống cổ Bành hòa thượng. Bành hòa thượng thở dài
một tiếng, nhắm mắt chờ chết, bỗng nghe một tiếng leng keng binh khí chạm
nhau, mở mắt ra nhìn, thì ra Kỷ Hiểu Phù vung kiếm gạt binh khí của sư tỉ ra.
Đinh Mẫn Quân ngạc nhiên hỏi: -Sao thế?
Kỷ Hiểu Phù đáp: -Sư tỉ, Bành hòa thượng chưởng hạ lưu tình, mình không
nên đuổi tận giết tuyệt.
Đinh Mẫn Quân nói: -Cái gì mà chưởng hạ lưu tình, đó là vì y không còn sức
đấy chứ.
Thị liền gay gắt nói: -Bành hòa thượng, sư muội của ta lòng dạ từ bi, cứu
mạng cho ngươi, vậy Bạch Qui Thọ đang ở đâu mau nói cho ta nghe.
Bành hòa thượng ngửa cổ lên cười lớn, nói: -Đinh cô nương, cô xem Bành
Oánh Ngọc này nhẹ quá. Trương Thúy Sơn Trương ngũ hiệp của phái Võ
Đương đành chịu tự vẫn mà chết, nhưng quyết không nói ra chỗ ở của nghĩa
huynh. Bụng dạ của Bành Oánh Ngọc này tuy không can đảm nghĩa liệt được
như Trương ngũ hiệp, dù bất tài nhưng cũng cố học cho được như thế.
Nói tới đây y hộc máu, phải ngồi bệt xuống. Đinh Mẫn Quân bước tới, giơ chân
phải đá luôn ba cái vào chỗ mạng sườn để y không còn cách nào bất ngờ tập
kích được nữa. Mấy câu đó của Bành hòa thượng khiến nhiệt huyết trong lòng
Vô Kỵ dâng lên, đối với y vừa thấy thân cận, lại sinh cảm kích. Cha y Trương
Thúy Sơn tự vẫn chết, những người trong danh môn chính phái khi nói tới đều
cho rằng: “Một thiếu niên anh hiệp tài tuấn như thế, chỉ vì lụy phải tà giáo yêu
nữ, sẩy một bước thành cái hận nghìn thu, đến nỗi thân tử danh liệt, để cả
phái Võ Đương đều phải chịu chung cái nhục”.
Những câu đó tuy Trương Vô Kỵ không nghe thấy nhưng y tại thái sư phụ và
các sư thúc bá ngôn ngữ thần sắc, thấy họ ngoài việc thương tâm không khỏi
oán trách giận dữ đối với mẫu thân, cho rằng cha y suốt đời việc gì cũng tốt,
chỉ vì lấy vợ nhầm mà ra nông nỗi, chưa ai như Bành hòa thượng tỏ lời khâm
phục cả.
Đinh Mẫn Quân lạnh lùng đáp: -Trương Thúy Sơn mắt mù nên mới kết hôn
cùng tà giáo yêu nữ, cái đó chính là tự hạ mình, có gì đáng phải học? Phái Võ
Đương của y …
Kỷ Hiểu Phù xen vào: -Sư tỉ …
Đinh Mẫn Quân nói: -Ngươi đừng lo, ta không nói gì tới Ân lục hiệp đâu mà sợ.
Thị rung kiếm một cái chỉ vào mắt phải của Bành hòa thượng, nói: -Nếu ngươi
không nói, ta đâm mù mắt phải của ngươi trước, sau đó sẽ đâm mù mắt trái,
kế đó đâm thủng tai phải, rồi đâm thủng tai trái, rồi cắt mũi ngươi, nói chung
là ta không cho ngươi chết yên chết lành đâu.
Mũi kiếm của thị sáng quắc chỉ cách mắt Bành hòa thượng chừng nửa tấc,
không ngừng rung động. Bành hòa thượng giương to đôi mắt, lạnh lùng nói: –
Ta thường ngưỡng mộ Diệt Tuyệt sư thái của phái Nga Mi hành sự ác độc,
những học trò bà ta cũng chẳng khác bao nhiêu. Bành Oánh Ngọc hôm nay rơi
vào tay ngươi, ngươi cứ việc giở những trò kiệt tác của phái Nga Mi xem thử.
Đinh Mẫn Quân lông mày dựng lên, hằn học nói: -Thằng trọc chết toi, ngươi
dám làm nhục sư môn của ta ư?
Trường kiếm liền lập tức phóng tới, đâm mù mắt phải của Bành Oánh Ngọc, rồi
đưa qua đụng vào mí mắt bên trái. Bành hòa thượng cười ha hả, mắt phải
máu chảy ròng ròng, mắt bên trái vẫn trừng trừng nhìn y thị. Đinh Mẫn Quân
bực mình, quát lên: -Ngươi không phải là người của Thiên Ưng giáo, việc gì
phải vì chết vì Bạch Qui Thọ?
Bành Oánh Ngọc hiên ngang đáp: -Đại trượng phu có đạo lý của mình, dù ta
có nói cho ngươi nghe, ngươi cũng chẳng hiểu được đâu.
Đinh Mẫn Quân thấy y không còn cách gì phản kháng, nhưng thần sắc đối với
mình vẫn tỏ vẻ khinh miệt, trong cơn phẫn nộ liền đâm tới cho y mù nốt mắt
trái. Kỷ Hiểu Phù vung kiếm nhẹ nhàng gạt ra, nói: -Sư tỉ, gã hòa thượng này
cứng đầu lắm, làm cách nào y cũng không nói đâu, giết y cũng uổng thôi.
Đinh Mẫn Quân nói: -Y dám chửi sư phụ tâm địa độc ác, để ta cho y coi tâm
địa độc ác cỡ nào. Bọn yêu nhân trong ma giáo, để sống trên đời chỉ làm hại
người lương thiện, giết được đứa nào là thêm công đức đứa ấy.
Kỷ Hiểu Phù nói: -Tên này xem ra là một hán tử cứng cỏi. Sư tỉ, theo ý tiểu
muội mình nên tha cho hắn.
Đinh Mẫn Quân lớn tiếng nói: -Hai vị sư huynh phái Thiếu Lâm một chết một bị
thương, hai vị đạo trưởng phái Côn Lôn bị thương nặng, hai vị đại ca phái Hải
Sa bị thương cũng không nhẹ, chẳng lẽ y hạ thủ không độc ác hay sao? Để ta
đâm mù nốt mắt trái y đi, rồi hãy tra hỏi.
Tiếng “hỏi” vừa dứt, kiếm liền lóe lên đâm luôn vào mắt trái Bành hòa thượng.
Kỷ Hiểu Phù liền vung kiếm, nhẹ nhàng khéo léo gạt kiếm của Đinh Mẫn Quân
ra, nói: -Sư tỉ, người này dĩ nhiên không còn sức lực chống trả, nếu mình đả
thương y, trên giang hồ truyền ra, không khỏi không tốt cho phái Nga Mi
chúng ta.
Đinh Mẫn Quân nhướng lông mày, quát: -Đứng tránh ra, đừng xen vào chuyện
của ta.
Kỷ Hiểu Phù đáp: -Vâng.
Trường kiếm của Đinh Mẫn Quân lại rung động đâm vào mắt trái của Bành hòa
thượng, lần này tăng thêm ba phần kình lực. Kỷ Hiểu Phù trong lòng không
nỡ, lại đưa kiếm gạt ra. Nàng thấy sư tỉ kiếm thế mạnh mẽ, khi đưa kiếm gạt
phải dùng nội lực, hai thanh kiếm chạm nhau, nghe keng một tiếng tóe lửa.
Hai người bị chấn động khiến tay tê chồn, phải lùi hai bước. Đinh Mẫn Quân
giận quá, quát lên: -Ngươi năm lần bảy lượt bảo vệ cho tên yêu tăng ma giáo,
chẳng hay có ý gì?
Kỷ Hiểu Phù nói: -Tiểu muội chỉ muốn sư tỉ đừng hành hạ y, muốn y nói nơi
chốn của Bạch Qui Thọ cứ từ từ hỏi được rồi.
Đinh Mẫn Quân cười khẩy: -Bộ ngươi tưởng ta không biết bụng dạ ngươi hay
sao. Ngươi thử hỏi lòng thì biết: “Tại sao Ân lục hiệp của phái Võ Đương mấy
lần thúc giục làm đám cưới ngươi cứ việc cớ này cớ nọ, ngay cả cha ngươi hối
thúc, ngươi thà bỏ nhà ra đi chứ không nghe?”.
Kỷ Hiểu Phù nói: -Việc riêng của tiểu muội có liên quan gì đến chuyện này
đâu? Tại sao sư tỉ lại giằng hai chuyện làm một?
Đinh Mẫn Quân nói: -Hai đứa mình ai chẳng biết, có điều trước mặt người
ngoài không nên vạch áo cho người xem lưng đấy thôi. Ngươi thì thân tại Nga
Mi nhưng lòng dạ thì để trong ma giáo.
Kỷ Hiểu Phù mặt tái nhợt, run run nói: -Tiểu muội lúc nào cũng kính trọng sư
tỉ, không bao giờ dám đắc tội, sao hôm nay sư tỉ lại làm nhục tiểu muội?
Đinh Mẫn Quân nói: -Được rồi, nếu lòng dạ ngươi không phải hướng về ma
giáo, thì ngươi thay ta dùng kiếm đâm mù mắt trái y xem nào.
Kỷ Hiểu Phù nói: -Bản môn từ khi Tiểu Đông Tà Quách tổ sư sáng phái tới nay,
đồng môn không xuất gia làm ni cô, hay không chịu lấy chồng thật là nhiều,
tiểu muội không muốn xuất giá cũng là chuyện thường. Tại sao sư tỉ cứ nhất
định phải ép tiểu muội?
Đinh Mẫn Quân lạnh lùng đáp: -Ta không phải muốn nghe ngươi nói chuyện vờ
vĩnh. Ngươi không đâm mù mắt y, ta sẽ nói toạc chuyện của ngươi ra cho mọi
người biết đó.
Kỷ Hiểu Phù dịu dàng nói: -Sư tỉ, mong sư tỉ niệm tình đồng môn, đừng bức
bách tiểu muội.
Đinh Mẫn Quân cười đáp: -Ta có bắt ngươi làm điều gì khó khăn đâu. Sư phụ
sai chúng ta đi nghe ngóng tin tức Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, gã hòa thượng
này là đầu mối duy nhất có thể biết được. Y đã không cho biết lại còn sát
thương bao nhiêu đồng bạn, ta đâm mù mắt phải của y, ngươi đâm mù mắt
trái của y, cái đó cũng phải thôi, vì cớ gì ngươi không chịu xuống tay?
Kỷ Hiểu Phù hạ giọng: -Y đối với chúng ta thủ hạ lưu tình, mình cũng nên nghĩ
lại mà không nên đuổi tận giết tuyệt. Tiểu muội lòng dạ mềm yếu, không hạ
thủ được.
Nói rồi nàng tra kiếm vào vỏ. Đinh Mẫn Quân cười nhạt: -Ngươi lòng dạ mềm
yếu ư? Sư phụ vẫn thường khen ngươi kiếm pháp tàn độc, tính tình cương
nghị, rất giống sư phụ, đã có ý truyền y bát cho ngươi, ngươi làm sao lòng dạ
mềm yếu được?
Hai sư tỉ muội đồng môn lời qua tiếng lại, mọi người nghe chẳng hiểu đâu vào
đâu, bây giờ nghe nói thế, xem ra Diệt Tuyệt sư thái, chưởng môn phái Nga Mi
rất thương yêu Kỷ Hiểu Phù, đã có ý truyền y bát cho nàng, Đinh Mẫn Quân
trong lòng đố kỵ, lần này không biết nắm được cái bí mật gì của sư muội, nên
định nói xấu nàng trước mặt mọi người. Trương Vô Kỵ vẫn cảm kích chuyện Kỷ
Hiểu Phù đối với mình thân thiết, chăm lo khi trước, nay thấy nàng bị bức
bách, chỉ hận không thể nhảy ra cho Đinh Mẫn Quân mấy cái tát tai.
Lại nghe Đinh Mẫn Quân nói: -Kỷ sư muội, để ta hỏi đây. Hôm đó sư phụ triệu
tập tất cả đồng môn đệ tử trên núi Nga Mi truyền thụ hai pho Diệt Kiếm và
Tuyệt Kiếm chính lão nhân gia sáng tác, tại sao ngươi không đến? Để cho lão
nhân gia phải nổi cơn lôi đình?
Kỷ Hiểu Phù đáp: -Tiểu muội ở Cam Châu đột nhiên bị bệnh, không cử động
được. Việc đó tiểu muội đã bẩm rõ sư phụ rồi, sao sư tỉ lại tự nhiên hỏi đến?
Đinh Mẫn Quân cười khẩy: -Chuyện này ngươi che mắt được sư phụ, nhưng
đâu có che mắt được ta. Ta còn một câu hỏi, nếu ngươi chịu đâm mù mắt gã
hòa thượng kia thì ta không truy vấn nữa.
Kỷ Hiểu Phù cúi đầu không trả lời, trong lòng dường như có điều khó nghĩ, nói
nhỏ: -Sư tỉ không còn nghĩ gì đến tình nghĩa đồng môn đồng học nữa ư?
Đinh Mẫn Quân hỏi: -Ngươi đâm hay không đâm?
Kỷ Hiểu Phù nói: -Sư tỉ cứ yên tâm, sư phụ nếu muốn truyền y bát cho, tiểu
muội cũng nhất định không dám nhận đâu.
Đinh Mẫn Quân giận dữ nói: -Giỏi nhỉ. Ngươi nói như thế, chẳng hóa ra ta vì
ghen tức với ngươi sao? Ta có điểm nào không bằng ngươi mà phải vị tình, mà
phải để ngươi nhường cho? Ngươi có đâm hay không thì bảo?
Kỷ Hiểu Phù nói: -Tiểu muội có làm gì sai quấy, nếu sư tỉ muốn trách phạt, tiểu
muội đâu có dám không tuân theo? Ở đây có các bằng hữu môn phái khác,
nếu sư tỉ bức bách …
Nói đến đây nàng sụt sùi rơi lệ.
Đinh Mẫn Quân cười khẩy: -Hừ, ngươi đừng giả vờ làm như đáng thương lắm
đấy, trong bụng không biết đang rủa thầm ta những gì. Năm đó ngươi ở Cam
Châu, không nhớ ba năm hay bốn năm trước nhỉ, ta nhớ không rõ lắm, chỉ có
ngươi mới nhớ được thôi. Lúc đó có thực ngươi sinh bệnh không? Sinh thì có
sinh, nhưng là sinh con thì có.
Kỷ Hiểu Phù nghe nói thế, lập tức xoay mình chạy đi. Đinh Mẫn Quân đã đoán
trước nàng sẽ đào tẩu, phi thân lên trước, giơ trường kiếm ra cản ngay trước
mặt, nói: -Ta khuyên ngươi mau đâm mù mắt Bành hòa thượng đi, nếu không
ta sẽ hỏi cha của đứa bé đó là ai? Sẽ hỏi tại sao ngươi là đệ tử danh môn
chính phái mà lại đi che chở cho yêu tăng của ma giáo?
Kỷ Hiểu Phù ấp úng nói: -Chị … chị để tôi đi.
Đinh Mẫn Quân chỉ trường kiếm vào ngực nàng, lớn tiếng: -Ta hỏi ngươi,
ngươi nuôi đứa nhỏ đó ở đâu? Ngươi là vị hôn thê của Ân Lê Đình Ân lục hiệp
của phái Võ Đương, sao lại sinh con với người khác?
Câu nói trắng trợn đó vào tai mọi người ai nấy đều giật mình. Trương Vô Kỵ
trong lòng hoang mang: “Kỷ cô nương là người tốt sao lại đối xử không phải
với Ân lục thúc như thế?”. Y đối với việc trai gái dĩ nhiên chưa hiểu biết, nhưng
Thường Ngộ Xuân, Bành hòa thượng, đạo nhân râu dài của phái Côn Lôn mọi
người, ai ai cũng đều kinh ngạc.
Kỷ Hiểu Phù mặt nhợt nhạt, chạy lao về phía trước. Đinh Mẫn Quân đột nhiên
hạ sát thủ, đâm tới một kiếm lút vào vai bên phải của sư muội tới tận xương.
Kỷ Hiểu Phù bị thương không phải nhẹ, cũng không nhịn nữa, tay trái rút
kiếm, nói: -Sư tỉ, chị đã khăng khăng làm khó, tiểu muội không thể nể nang
được nữa.
Đinh Mẫn Quân biết rằng hôm nay đã làm cho sư muội mất mặt, nói toạc
chuyện bí mật của nàng ra rồi, ắt sẽ giết mình để bịt miệng. Võ công y thị
không bằng Kỷ Hiểu Phù, thể nào cũng đánh thí mạng, sự việc thật là nguy
hiểm, thành thử thừa cơ đâm trước một kiếm vào vai bên phải. Nghe nàng nói
thế, Đinh Mẫn Quân lập tức sử chiêu Nguyệt Lạc Tây Sơn, đâm thẳng vào
bụng dưới của sư muội. Kỷ Hiểu Phù vai phải đau đớn, thấy sư tỉ sử chiêu thứ
hai không chút dung tình, lập tức dùng tay trái trả lại một chiêu.
Hai chị em đều biết rõ kiếm pháp của nhau, thế công thế thủ tuy rất nghiêm
nhặt nhưng cũng rất kịch liệt. Những người khác ai nấy đều bị trọng thương,
không cách nào khuyên giải, cũng không giúp bên nào được, chỉ còn cách
giương mắt nhìn, trong lòng không khỏi ngầm bội phục: “Phái Nga Mi là một
trong bốn đại môn phái hiện nay, kiếm thuật quả nhiên cao minh, danh bất hư
truyền”.
Vết thương trên vai Kỷ Hiểu Phù xuất huyết không ngừng, càng đấu máu chảy
càng nhiều, nàng phải luôn luôn sử sát chiêu mong đẩy được Đinh Mẫn Quân
giãn ra, để có đường bỏ chạy. Thế nhưng nàng dùng tay trái sử kiếm nên
không mấy thành thục, lại thụ thương nên võ công chỉ còn độ ba phần. Thế
nhưng Đinh Mẫn Quân vốn dĩ rất ngại người sư muội này, không dám tiến vào
thật gần, chỉ cố đánh dây dưa chờ nàng chảy máu nhiều tự nhiên sẽ suy kiệt.
Kỷ Hiểu Phù cước bộ chậm dần, kiếm pháp bắt đầu tán loạn, xem ra không
còn chịu nổi nữa. Đinh Mẫn Quân lại đâm soẹt soẹt hai cái trúng đầu vai phải
của Kỷ Hiểu Phù, khiến cho một nửa người nàng dính đầy máu tươi.
Bành hòa thượng đột nhiên cao giọng: -Kỷ cô nương, cô lại đâm mắt trái tôi đi,
Bành hòa thượng này đối với cô cảm kích không cùng.
Y nghĩ đến Kỷ Hiểu Phù cam chịu hi sinh tính mạng bảo vệ cho mình đã là
chuyện khó, huống chi Đinh Mẫn Quân lại còn đem thanh danh trinh bạch ra
uy hiếp, đối với đàn bà còn nặng hơn cái chết nhiều. Thế nhưng lúc này dù Kỷ
Hiểu Phù có đến đâm mù mắt Bành hòa thượng thì Đinh Mẫn Quân cũng
không bỏ qua, y thị biết nếu hôm nay không thừa cơ hạ thủ trừ khử người sư
muội này, ngày sau họa hoạn không biết đâu mà lường được.
Bành hòa thượng thấy Đinh Mẫn Quân kiếm chiêu độc ác, liền lớn tiếng chửi: –
Đinh Mẫn Quân, ngươi thực là mặt dầy. Thảo nào trên giang hồ gọi ngươi là
Độc Thủ Vô Diệm Đinh Mẫn Quân cũng phải. Ngươi bụng dạ như rắn rết, mặt
mày xấu hơn cả Chung Vô Diệm. Nếu trên đời này đàn bà con gái ai ai cũng
xấu như ngươi, khiến cho vừa gặp đã buồn mửa, đàn ông con trai chắc đi tu
hết. Nếu như Độc Thủ Vô Diệm mà đứng ở trước mặt, Bành hòa thượng này
đã đi tu rồi xem ra cũng chưa đủ, nếu mù thêm cả hai mắt mới thật là sướng.
Thực ra Đinh Mẫn Quân tuy không phải là một mỹ nhân nhưng cũng có đôi
chút nhan sắc, mặt mũi dễ nhìn không đến nỗi nào. Bành hòa thượng hiểu rõ
tâm lý, biết trên đời này người con gái nào dù xấu hay đẹp đều ghét kẻ chê
mình khó coi, nếu bị ai chê thể nào cũng căm giận thấu xương. Y thấy tình thế
nguy cấp, liền thuận mồm nói lăng nhăng, ban cho nàng ta cái tên Độc Thủ Vô
Diệm, mong y thị nổi cơn tam bành lục tặc lên, quay qua đối phó với mình, Kỷ
Hiểu Phù sẽ thừa cơ thoát thân, hay ít nhất cũng tìm cách buộc vết thương lại.
Thế nhưng Đinh Mẫn Quân đã định sẽ giết cho bằng được Kỷ Hiểu Phù, có còn
sợ Bành hòa thượng chạy đi đâu được nữa, nên những lời nhục mạ của y chỉ
để ngoài tai.
Bành hòa thượng lại lớn tiếng nói: -Kỷ nữ hiệp băng thanh ngọc khiết, trên
chốn giang hồ có ai không nghe, không biết? Thế nhưng con mụ Độc Thủ Vô
Diệm Đinh Mẫn Quân kia vốn dĩ lẳng lơ, toan tính mồi chài Ân Lê Đình của phái
Võ Đương. Ân Lê Đình đâu thèm ngó ngàng gì tới, mụ mới tính đường gia hại
Kỷ nữ hiệp. Hà hà, ngươi gò má cao nghệu, mồm rộng đến mang tai, nước da
đen như ma lem, thân hình gầy như que củi, kẻ anh tuấn tiêu sái như Ân lục
hiệp đời nào thèm ngó tới. Sao ngươi không soi gương cho thấy cái bản mặt,
lại năm lần bảy lượt liếc mắt tống tình …
Đinh Mẫn Quân nghe tới đây giận muốn điên người, nhảy một cái tới trước
Bành hòa thượng, giơ kiếm đâm thẳng vào miệng y. Đinh Mẫn Quân quyền cốt
quả có hơi cao, miệng thì không phải loại nhỏ như trái anh đào, nước da cũng
không trắng nõn, thân thể bẩm sinh cao dong dỏng, vẫn thấy quả mình có đôi
điểm không được vừa ý cho lắm. Thế nhưng người ngoài nếu không để ý kỹ
cũng chẳng ai nhìn ra. Nào ngờ Bành hòa thượng mục quang sắc bén, không
những đã nhận được lại còn thêm dầu thêm mỡ, một nói thành mười, khiến thị
không nổi giận sao được?
Hơn nữa y thị chưa gặp Ân Lê Đình bao giờ, cái chuyện “năm lần bảy lượt liếc
mắt tống tình” gì gì đó làm sao có thể? Kiếm của y thị vừa đâm tới, từ trong
rừng đột nhiên một người phóng ra, quát lên một tiếng, chặn ngay trước mặt
Bành hòa thượng. Người đó thân pháp cực nhanh, Đinh Mẫn Quân không kịp
thu chiêu, trường kiếm vẫn còn đâm tới. Người này so với Bành hòa thượng
thấp hơn đến nửa cái đầu, thanh kiếm đâm luôn vào trán y.
Cũng ngay trong giờ khắc như một ánh chớp lòe ấy, người nọ múa chưởng
đánh ra, trúng ngay ngực Đinh Mẫn Quân, nghe bình một tiếng, y thị văng xa
mấy bước, ngã lăn ra, hộc máu mồm, còn thanh trường kiếm vẫn cắm vào trán
người nọ, xem ra y không sống được nữa rồi.
Đạo nhân râu dài của phái Côn Lôn đi tới mấy bước, kinh hoảng kêu lên: -Bạch
Qui Thọ! Bạch Qui Thọ!
Nói xong hai gối y nhũn xuống, ngồi bệt xuống đất. Thì ra người nhảy ra chịu
thay cho Bành hòa thượng nhát kiếm đó, chính là Huyền Võ Đàn đàn chủ Bạch
Qui Thọ của Thiên Ưng giáo. Y bị trọng thương rồi, nghe tin Bành hòa thượng
vì che giấu cho mình nên bị hảo thủ các phái Thiếu Lâm, Côn Lôn, Nga Mi, Hải
Sa vây đánh, nên cố hết sức kiếm tới nơi. Y chưởng lực hùng hậu, lúc sắp chết
đánh ra khiến Đinh Mẫn Quân bị gãy mấy rẻ xương sườn.
Kỷ Hiểu Phù kinh hoàng cố gắng trấn định, xé vạt áo buộc vết thương trên vai,
đưa tay giải những huyệt đạo bị điểm ở hông Bành Oánh Ngọc, không nói một
lời, quay mình đi thẳng. Bành hòa thượng nói: -Kỷ cô nương, xin dừng bước
để Bành Oánh Ngọc này lạy cô một lạy.
Nói xong quì xuống hành lễ. Kỷ Hiểu Phù né qua một bên không nhận đại lễ
của ông ta. Bành hòa thượng nhặt trường kiếm của đạo sĩ râu dài lên, nói: -Mụ
Đinh Mẫn Quân này nói năng láo lếu, hủy báng thanh danh của cô nương,
không nên để cho y thị sống.
Nói xong đưa kiếm lên nhắm yết hầu cô ta đâm tới. Kỷ Hiểu Phù tay trái giơ
kiếm gạt ra nói: -Y là đồng môn sư tỉ của tôi, tuy y thị đối với tôi vô tình,
nhưng tôi không thể là kẻ vô nghĩa.
Bành hòa thượng nói: -Sự đã đến thế này, nếu không giết y thị, người đàn bà
này về sau sẽ rất bất lợi cho cô.
Kỷ Hiểu Phù rơi lệ đáp: -Tôi là người con gái thật là xui xẻo, thiếu may mắn,
nhưng số mệnh sao thì chịu vậy. Bành đại sư, ông đừng giết sư tỉ của tôi.
Bành hòa thượng đáp: -Kỷ nữ hiệp đã bảo như thế, đâu dám không tuân theo.
Kỷ Hiểu Phù quay qua nói với Đinh Mẫn Quân: -Sư tỉ, chị tự bảo trọng lấy
thân.
Nói xong tra kiếm vào vỏ, đi ra khỏi rừng. Bành hòa thượng nói với năm người
bị trọng thương nằm dưới đất: -Bành hòa thượng ta với các ngươi nguyên
không có oán cừu gì ghê gớm, vốn không cần giết các ngươi làm gì. Thế
nhưng hôm nay những gì mụ họ Đinh này vu miệt Kỷ nữ hiệp, tất cả đều nghe
vào tai, nếu như truyền ra giang hồ, Kỷ nữ hiệp còn sao là người được nữa? Ta
bất đắc dĩ không thể để một ai sống sót, bọn ngươi cũng đừng trách ta.
Nói xong mỗi người một nhát kiếm, giết hai đạo nhân của phái Côn Lôn, nhà
sư phái Thiếu Lâm, hai hảo thủ của phái Hải Sa rồi tới rạch một đường vào vai
Đinh Mẫn Quân. Đinh Mẫn Quân sợ đến mất cả hồn vía, nhưng bị trọng
thương rồi, không còn cách gì kháng cự, chửi: -Thằng giặc trọc, ngươi đừng
giở trò hành hạ, mau đâm ta một kiếm chết cho xong.
Bành hòa thượng cười đáp: -Đàn bà xấu xa, mồm rộng da vàng như ngươi, ta
đâu có dám giết. Chỉ sợ ngươi vào địa ngục rồi, khiến cho hàng nghìn hàng
vạn ác quỉ dưới âm sợ quá chạy cả lên trần, Diêm vương phán quan thượng
thổ hạ tả, không phải tội nghiệt sao?
Nói xong cười lên ba tiếng, ném trường kiếm, ôm thi thể Bạch Qui Thọ, lại
khóc ba tiếng rồi bỏ đi.
Trận đấu trong rừng kinh tâm động phách đêm hôm đó, Thường Ngộ Xuân và
Trương Vô Kỵ hai người chứng kiến từ đầu đến cuối, nghe rõ từng lời, đến khi
Đinh Mẫn Quân đi rồi, hai người mới thở ra. Trương Vô Kỵ nói: -Thường đại ca,
Kỷ cô nương là vợ chưa cưới của Ân lục thúc tôi, cái bà họ Đinh kia lại nói …
nói cô ấy có con với người khác, đại ca nghĩ cái đó thật hay giả?
Thường Ngộ Xuân đáp: -Con mụ đó nói năng quấy quá, đừng tin làm gì.
Trương Vô Kỵ đáp: -Đúng thế, sau này tiểu đệ sẽ nói với Ân lục thúc dạy cho
mụ một trận, để cho Kỷ cô nương khỏi bực mình.
Thường Ngộ Xuân vội đáp: -Đừng, đừng, nhất định không nên nói cho Ân lục
thúc của ngươi biết chuyện này, hiểu chưa? Ngươi nói ra là hỏng việc hết đấy.
Trương Vô Kỵ lạ lùng: -Sao thế?
Thường Ngộ Xuân nói: -Thì những ngôn ngữ khó nghe như thế, ngươi chẳng
nên nói cho ai cả.
Trương Vô Kỵ hừ một tiếng, một hồi sau mới hỏi lại: -Thường đại ca, có phải
đại ca sợ rằng việc này có thật, đúng không?
Thường Ngộ Xuân thở dài: -Quả thật ta cũng không biết nữa.
Đến khi trời sáng, Thường Ngộ Xuân đứng lên, cõng Trương Vô Kỵ trên lưng,
hăng hái đi tiếp. Y nghỉ ngơi đã nửa đêm, tinh thần khôi phục, bước đi nhanh
nhẹn hơn nhiều. Đi được vài dặm, chuyển qua một con đường lớn. Thường
Ngộ Xuân nghĩ thầm: “Hồ sư bá ẩn cư Hồ Điệp Cốc là nơi thật hoang tịch, sao
lại có đường lớn đi tới là sao? Hay mình đi nhầm đường rồi?”
Y đang định tìm người dân vùng này hỏi thăm, bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn
dập, bốn tên lính Mông Cổ tay múa trường đao phi ngựa đến, kêu lớn: -Mau
lên, mau lên!
Đi đến sau lưng Thường Ngộ Xuân, giơ đao nhứ nhứ xua y đi về phía trước.
Thường Ngộ Xuân kêu khổ thầm” Không ngờ hôm nay thân vào miệng cọp, lại
còn chết thêm cái mạng của Trương huynh đệ nữa”.
Lúc này y võ công mất hết, dù một tên lính tầm thường cũng không đánh nổi,
đành lết từng bước đi tới. Chỉ thấy trên đường bách tính lục tục kéo ra, tất cả
đều bị quân Nguyên dồn như súc vật. Thường Ngộ Xuân bụng nghĩ thầm “Thì
ra Thát tử đang lùa dân chứ không phải định bắt ta may ra mình còn có đường
sống”. Y bèn đi theo đoàn người, đến một ngã ba, thấy một tên quân quan
Mông Cổ ngồi trên lưng ngựa, chỉ huy sáu bảy chục tên lính, người nào cũng
cầm đại đao. Người dân đi ngang qua đầu ngựa, ai ai cũng quì xuống khấu
đầu. Một tên người Hán thông dịch hỏi: -Họ gì?
Người đó đáp xong, tên Nguyên binh bên cạnh thuận chân liền đá vào mông
một cái, có khi thì một cái bạt tai, người dân liền vội vàng chạy đi. Gặp một
người dân nói họ Trương, tên lính Mông Cổ liền giữ lại, bắt y đứng qua một
bên. Có người dân khám trong giỏ thấy có một chiếc dao cắt rau mới mua ở
chợ, tên Nguyên binh cũng bắt đứng qua một bên.
Trương Vô Kỵ xem thấy tình thế không ổn, ghé vào tai Thường Ngộ Xuân nói
nhỏ: -Thường đại ca, đại ca giả vờ vấp ngã lăn qua một bên chui vào đám cỏ
cởi bỏ chiếc đao đi.
Thường Ngộ Xuân vỡ lẽ, lập tức hai chân khụy xuống, lăn luôn vào trong đám
cỏ dày, cởi bội đao ra, giả đò suýt soa, khập khiễng đi đến trước tên quan
quân. Tên Hán nhân thông dịch chửi: -Đồ mọi, không biết qui củ gì hết, thấy
quan lớn sao không khấu đầu?
Thường Ngộ Xuân nghĩ tới toàn gia của cố chủ Chu Tử Vượng bị quân Mông
Cổ giết, lúc này thà chết chứ không chịu lạy tên Thát tử. Một tên Nguyên binh
thấy chàng cứng đầu, liền quét vào khoeo chân, Thường Ngộ Xuân đứng
không vững liền phải quị xuống. Tên thông dịch người Hán quát hỏi: -Họ gì?
Thường Ngộ Xuân chưa kịp hồi đáp, Trương Vô Kỵ nói thay: -Họ Tạ, đây là anh
tôi.
Tên lính Nguyên giơ chân đá đít Thường Ngộ Xuân một cái, nói: -Cút mau.
Thường Ngộ Xuân tức giận vô cùng, đứng dậy, ngấm ngầm lập một trọng thệ:
“Trong đời ta nếu không đuổi được bọn Thát tử ra ngoài sa mạc, Thường Ngộ
Xuân này không kể là người”. Chàng cõng Trương Vô Kỵ lên, hối hả đi về
hướng bắc, chỉ mới được vài chục bước nghe tiếng người kêu la thảm thiết,
hai người quay đầu lại, thấy hơn chục người dân bị bắt đứng qua một bên đã
đầu một nơi, thân một nẻo nằm chết trên mặt đất.
Thì ra thời đó chính sách bạo ngược, dân chúng nổi lên thật nhiều, đại thần
Mông Cổ có ý giết sạch người Hán, nhưng giết sao cho xuể. Thái sư Ba
Diên[6] lại ra một pháp lệnh rất tàn ác, giết tất cả những người Hán nào mang
các họ Trương, Vương, Lưu, Lý, Triệu. Người Trung Hoa bốn họ Trương, Vương,
Lưu, Lý là đông nhất, còn họ Triệu là hoàng tộc Tống triều. Nếu bốn họ đó giết
hết rồi, nguyên khí người Hán ắt tổn thất nặng nề.
Về sau những người trong các họ đó hàng Nguyên làm quan cũng rất đông, có
đại thần Mông Cổ khuyến cáo hoàng đế, mới bãi bỏ cái lệnh đồ sát quái gở đó,
nhưng dân đen chết vì lệnh dụ này cũng không biết bao nhiêu mà kể.
Thường Ngộ Xuân đi nhanh hơn, đến những vùng hoang vắng, biết rằng Hồ
Thanh Ngưu ẩn cư chắc ở đâu đó, chỉ cần kiên nhẫn tìm kiếm. Trên đường đi
hoa cỏ rực rỡ đủ màu, khắp núi rừng chỗ nào cũng toàn là hoa, nắng xuân
nhấp nhô nhưng nghĩ đến thảm trạng vừa qua còn lòng dạ nào mà thưởng
ngoạn. Đi qua mấy chỗ quẹo, thấy trước mặt là một vách núi, đường đã hết
rồi.
Chính khi còn đang ngơ ngác chưa biết đâu, bỗng thấy mấy con bướm từ
trong những khóm hoa bay ra. Trương Vô Kỵ nói: -Nơi đó nếu gọi là Hồ Điệp
Cốc thì mình cứ đi theo những con bướm này xem sao.
Thường Ngộ Xuân nói: -Tốt lắm.
Y liền đi vào trong khu rừng hoa. Đi khỏi rừng hoa, trước mặt là một con
đường mòn. Thường Ngộ Xuân đi thêm một quãng thấy mỗi lúc bướm một
nhiều, có con trắng có con vàng, con đen con tím dập dìu. Bướm cũng không
sợ, đến gần đậu cả lên đầu, trên vai, trên tay hai người. Hai người biết đã đến
Hồ Điệp Cốc nên đều thấy phấn khởi. Trương Vô Kỵ nói: -Để tiểu đệ đi chầm
chậm được rồi.
Thường Ngộ Xuân bèn bỏ y xuống đất. Đi đến quá ngọ, thấy có một giòng suối
chảy lượn quanh sáu, bảy gian nhà tranh, trước sau mỗi gian nhà đều có
vườn, trồng đủ loại hoa cỏ. Thường Ngộ Xuân nói: -Đến rồi, đây hẳn là vườn
thuốc của Hồ sư bá.
Y đến trước những căn nhà tranh, cung kính lớn tiếng gọi: -Đệ tử Thường Ngộ
Xuân khấu kiến Hồ sư bá.
Một lúc sau, trong nhà đi ra một tiểu đồng, nói: -Mời vào.
Thường Ngộ Xuân liền dắt tay Trương Vô Kỵ đi vào trong nhà, thấy một người
tuổi trạc trung niên, thần thanh cốt tú, chăm chú xem một đồng nhi khác quạt
lò đun thuốc, trong nhà đầy mùi dược thảo. Thường Ngộ Xuân quì xuống khấu
đầu, nói: -Hồ sư bá mạnh khỏe chứ.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm, người này chắc hẳn phải là Điệp Cốc Y Tiên Hồ
Thanh Ngưu nên cũng hành lễ chào một câu: -Hồ tiên sinh.
Hồ Thanh Ngưu nhìn Thường Ngộ Xuân gật đầu, nói: -Việc của Chu Tử Vượng
ta cũng đã có biết. Âu cũng là cái số, bọn Thát tử khí vận chưa tuyệt, bản giáo
chưa đến thời kỳ quang đại.
Ông ta đưa tay cầm mạch trên cổ tay Thường Ngộ Xuân, cởi áo ra nhìn vết
thương trên ngực, nói: -Ngươi trúng phải Tiệt Tâm Chưởng của phiên tăng,
đúng ra thì cũng không sao cả, nhưng vì sau khi trúng chưởng rồi sử lực quá
nhiều, hàn độc công tâm, trị cho khỏi cũng mất khá nhiều công phu.
Chỉ vào Trương Vô Kỵ hỏi: -Còn thằng bé này là ai?
Thường Ngộ Xuân đáp: -Sư bá, y tên là Trương Vô Kỵ, là con trai của Trương
ngũ hiệp của phái Võ Đương.
Hồ Thanh Ngưu ngạc nhiên, mặt có vẻ giận dữ, nói;
-Người của phái Võ Đương ư? Ngươi đem y đến đây làm gì?
Thường Ngộ Xuân liền đem chuyện y bảo vệ con của Chu Tử Vượng đào tẩu ra
sao, bị quan binh Mông Cổ vây bắt, Trương Tam Phong giải cứu thế nào nói
cho Hồ Thanh Ngưu nghe, sau cùng kết luận: -Đệ tử được thái sư phụ của y
cứu mạng, cầu khẩn sư bá phá lệ, cứu y một lần.
Hồ Thanh Ngưu cười nhạt đáp: -Ngươi khẳng khái nhỉ, biết báo đáp ân tình.
Hừ, thế nhưng Trương Tam Phong cứu ngươi chứ có phải cứu ta đâu. Ngươi
đã thấy ta phá lệ bao giờ chưa?
Thường Ngộ Xuân quì xuống đất, liên tiếp rập đầu, nói: -Sư bá, cha của tiểu
huynh đệ này vì không chịu bán rẻ bạn bè, cam nguyện tự vẫn, là một hảo
hán tử tiếng tăm lừng lẫy.
Hồ Thanh Ngưu cười khẩy: -Hảo hán tử? Trong thiên hạ biết bao nhiêu là hảo
hán tử, ta trị được bao nhiêu người? Y chẳng phải là người của phái Võ Đương
ư? Là người danh môn chính phái sao còn kẻ tà giáo ngoại đạo như ta chữa
trị?
Thường Ngộ Xuân nói: -Mẫu thân của Trương huynh đệ là con gái của Bạch Mi
Ưng Vương Ân giáo chủ, y có một nửa là người của bản giáo.
Hồ Thanh Ngưu nghe đến đây, lòng thấy dịu lại, gật đầu: -Thôi, ngươi đứng
dậy. Nếu y là cháu ngoại của Ân Bạch Mi Thiên Ưng giáo thì lại khác.
Y đến trước mặt Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng nói: -Này cháu, ta từ trước đến nay
có qui củ, quyết không chữa trị cho người xưng là hiệp nghĩa, danh môn chính
phái. Nếu mẹ cháu là người trong bản giáo, trị thương cho cháu không phải là
phá lệ. Ông ngoại cháu Bạch Mi Ưng Vương vốn là một trong tứ đại pháp
vương của Minh giáo, sau này y sáng lập Thiên Ưng giáo vì bất hòa với anh
em, chứ không phải vỉ phản lại Minh giáo, có thể coi như một chi phái của
Minh giáo. Cháu phải đáp ứng một điều, sau khi ta chữa cháu khỏi rồi, cháu
phải quay về với ông ngoại cháu Bạch Mi Ưng Vương Ân giáo chủ, từ nay
không còn là đệ tử của phái Võ Đương nữa.
Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, Thường Ngộ Xuân đã nói: -Sư bá, chuyện đó
không được. Trương Tam Phong Trương chân nhân đã nói từ trước với đệ tử
rằng: “Hồ tiên sinh không được ép Vô Kỵ nhập giáo, dù có chữa nó khỏi bệnh,
phái Võ Đương chúng tôi cũng không chịu ơn quí giáo đâu”.
Hồ Thanh Ngưu lông mày dựng ngược, nổi giận, gay gắt nói: -Hừ, Trương Tam
Phong là cái gì? Y coi thường chúng ta như thế, tại sao ta phải vì y mà xuất
lực? Này cháu, trong lòng cháu quyết định thế nào?
Trương Vô Kỵ biết rằng âm độc đã lan ra khắp lục phủ ngũ tạng trong cơ thể
rồi, dù nội lực thâm hậu như thái sư phụ, cũng đành bó tay, mình có sống
được hay không, toàn do vị thần y này chịu hay không chịu chữa. Thế nhưng
thái sư phụ lúc chia tay dã từng thiết tha nhắn nhủ, quyết chớ nên hãm thân
ma giáo, để rơi vào cảnh vạn kiếp không thoát ra được. Tuy chưa biết ma giáo
xấu xa đến chừng nào, vì sao mỗi lần nhắc đến thái sư phụ và các sư bá sư
thúc đều ghét cay ghét đắng, nhưng y đối với thái sư phụ sùng kính vô tỉ, tin
tưởng chắc chắn là ông nói gì quyết không sai, nghĩ thầm: “Thà rằng để ông
ta không chịu chữa, hàn độc phát tác chết đi còn hơn vi bội lời giáo huấn của
thái sư phụ”. Y lớn tiếng nói: -Hồ tiên sinh, mẹ cháu là đường chủ của Thiên
Ưng giáo, cháu tin rằng Thiên Ưng giáo chắc phải tốt đẹp. Thế nhưng thái sư
phụ đã từng dặn cháu rằng quyết không thể gia nhập ma giáo, cháu đã bằng
lòng, không lẽ nói mà không giữ lời? Nếu tiên sinh không trị thương cho cháu,
thì cũng đành vậy. Nếu cháu tham sống sợ chết, miễn cưỡng theo lời của tiên
sinh, thì dù có trị lành cho cháu, thì trên đời này cũng chỉ thêm một kẻ bất tín
bất nghĩa, có ích lợi gì?
Hồ Thanh Ngưu trong bụng cười khẩy: “Thằng nhãi này to mồm khoác lác, làm
ra vẻ anh hùng hảo hán, để ta không trị cho ngươi, xem ngươi có quì xuống
cầu khẩn hay không?”. Quay qua Thường Ngộ Xuân nói: -Y đã quyết ý không
gia nhập bản giáo, Ngộ Xuân, ngươi bảo y đi ra, trong nhà Hồ Thanh Ngưu đời
nào có người chết vì bệnh bao giờ?
Thường Ngộ Xuân vốn biết vị sư bá này tính tình chấp nê dị thường, nói một là
một, ông ta đã không chịu chữa rồi, có cầu cũng vô ích bèn quay qua Trương
Vô Kỵ nói: -Tiểu huynh đệ, Minh giáo tuy không chung đường lối với các nhân
vật hiệp nghĩa trong danh môn chính phái, nhưng từ thời Đại Đường đến nay,
đời nào cũng có anh hùng hảo hán. Huống chi ông ngoại ngươi là giáo chủ
Thiên Ưng giáo, mẹ ngươi là đường chủ Thiên Ưng giáo, ngươi chịu nghe lời
Hồ sư bá, sau này Trương chân nhân có hỏi thì ta chịu hết cho.
Trương Vô Kỵ đứng thẳng dậy, nói: -Thường đại ca, đại ca như vậy là đã hết
lòng hết dạ, thái sư phụ của tiểu đệ không trách gì đại ca đâu.
Nói xong ngang nhiên đi ra cửa. Thường Ngộ Xuân kinh hoảng, vội hỏi: -Ngươi
đi đâu đó?
Trương Vô Kỵ nói: -Nếu tôi chết ở Hồ Điệp Cốc, e rằng sẽ làm hỏng mất cái tên
“Điệp Cốc Y Tiên”.
Y nói xong xăm xăm đi ra khỏi căn nhà tranh. Hồ Thanh Ngưu cười nhạt nói: –
Kiến Tử Bất Cứu Hồ Thanh Ngưu đã nổi tiếng trong thiên hạ, chết ở bên ngoài
cái “Chuồng Bò[7]” trong Hồ Điệp Cốc, đâu phải chỉ một mình thằng bé này.
Thường Ngộ Xuân chẳng nghe ông ta nói thêm, vội chạy ra đuổi theo Trương
Vô Kỵ, bế xốc thằng bé vào, thở hổn hển nói: -Hồ sư bá, sư bá nhất định
không cứu y, phải không?
Hồ Thanh Ngưu cười đáp: -Ngoại hiệu của ta là Kiến Tử Bất Cứu, bộ ngươi
chưa biết hay sao mà còn hỏi.
Thường Ngộ Xuân nói: -Thế còn vết thương trên người đệ tử, sư bá sẽ chữa
phải không?
Hồ Thanh Ngưu đáp: -Đúng vậy.
Thường Ngộ Xuân nói: -Được, đệ tử đã nhận lời với Trương chân nhân là sẽ
chữa cho chú em này, không thể nào để cho người trong chính phái nói là đệ
tử Minh giáo nói không giữ lời. Đệ tử không cầu sư bá trị bệnh, sư bá trị cho vị
huynh đệ này đi. Một mạng đổi một mạng, sư bá cũng không phải thiệt thòi.
Hồ Thanh Ngưu nghiêm mặt đáp: -Ngươi trúng phải Tiệt Tâm Chưởng, thương
thế không phải nhẹ. Nếu như ta lập tức trị cho ngươi thì có thể khỏi hẳn. Qua
bảy ngày thì chỉ mong sống được nhưng võ công từ rày sẽ không bảo toàn.
Mười bốn ngày sau nếu không có lương y trị cho, thương thế phát ra thì hết
cứu.
Thường Ngộ Xuân nói: -Đó là công lao thấy chết không cứu của sư bá, đệ tử
chết cũng không oán giận.
Trương Vô Kỵ kêu lên: -Ta không cần ông cứu, không cần ông cứu.
Y quay đầu qua Thường Ngộ Xuân nói: -Thường đại ca, bộ đại ca nghĩ Trương
Vô Kỵ này là phường tiểu nhân đê hèn hay sao? Đại ca đem tính mạng của
mình đánh đổi tính mạng của tiểu đệ, dù tiểu đệ có sống thì đời cũng có gì thú
vị nữa đâu.
Thường Ngộ Xuân không muốn tranh cãi nên cởi thắt lưng, trói chặt thằng nhỏ
vào trên ghế. Trương Vô Kỵ vội nói: -Đại ca không thả ta ra, ta sẽ chửi cho mà
xem.
Thấy Thường Ngộ Xuân không thèm lý tới, y liền chửi lớn: -Kiến Tử Bất Cứu
Hồ Thanh Ngưu, thật đúng là ngu như bò, không bằng con vật.
Hồ Thanh Ngưu thấy y chửi bậy bạ cũng không nổi giận, chỉ lạnh lùng nhìn y.
Thường Ngộ Xuân nói: -Hồ sư bá, Trương huynh đệ, xin cáo từ. Ta đi tìm thầy
chữa thuốc.
Hồ Thanh Ngưu cười nhạt: -Trong tỉnh An Huy này không có thầy lang nào cho
ra hồn cả, trong bảy ngày ngươi chưa ra khỏi cảnh giới của tỉnh An Huy.
Thường Ngộ Xuân ha hả cười: -Có sư bá thấy chết không cứu, thì cũng có sư
điệt đáng sống không chết.
Nói xong hùng dũng đi ra cửa. Hồ Thanh Ngưu cười khẩy: -Ngươi bảo một
mạng đổi một mạng, nhưng ta đã nhận lời đâu? Cả hai ta đều không cứu.
Tiện tay y nhặt trên bàn một khúc sừng hươu, nghe vù một tiếng, ném ra,
trúng ngay huyệt đạo ở khoeo chân Thường Ngộ Xuân. Thường Ngộ Xuân kêu
ối một tiếng, ngã lăn ra đất, không đứng dậy được.
Hồ Thanh Ngưu đến gần cởi dây trói cho Trương Vô Kỵ, nắm hai cổ tay thằng
nhỏ, định vứt nó ra ngoài để cho hai người sống chết mặc bay. Trương Vô Kỵ
kêu lên: -Ngươi làm gì thế?
Hàn độc xông lên đầu não, lập tức bất tỉnh nhân sự.
[1] Lên tiếng ủng hộ
[2] Xem thêm Minh giáo, khảo luận của người dịch
[3] Thung lũng có nhiều bướm
[4] Hoàn là tên đất ngày xưa, nay thuộc tỉnh An Huy, có con sông Dương Tử
(Trường giang) chảy qua chia thành mạn bắc (Hoàn Bắc) và mạn nam (Hoàn
Nam)
[5] ám khí hình đuôi con rết
[6] Bayan, thái sư trong khoảng 1328-1340
[7] Thanh Ngưu là con bò đen nên ông ta ví nhà của mình là cái chuồng bò


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.