Ỷ THIÊN ĐỒ LONG KÝ

20. Dữ tử cộng huyệt tương phù tương



Dù cho dị mộng đồng sàng,
Thác đi hai nắm xương tàn bên nhau.
Trương Vô Kỵ đi theo cô gái chưa được mấy bước, đã đến trước giường. Con a
hoàn vén trướng lên, chui vào bên trong, nhưng vẫn cầm tay Trương Vô Kỵ
không chịu buông ra. Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, nghĩ thầm con a hoàn
này tuy còn bé, lại xấu xí, nhưng dẫu sao cũng vẫn là đàn bà, làm sao có thể
cùng cô ta ngủ chung một giường được? Huống chi lúc này đuổi theo địch là
chuyện gấp, thành thử giựt tay về. Con a hoàn nói nhỏ: -Thông đạo ở trong
giường.
Chàng nghe mấy chữ đó, tinh thần phấn chấn, không còn hiềm phân biệt nam
nữ, thấy con a hoàn lật chiếc chăn lên, nằm ngang trên giường, chàng cũng
nằm xuống bên cạnh. Không biết cô gái hoạt động máy móc gì, chiếc giường
bỗng dưng nghiêng qua một bên, hai người rơi tuột ngay xuống.
Tuy rơi tới đất phải đến mấy trượng nhưng may là bên dưới có trải một lớp cỏ
dày nên không thấy đau chút nào, chỉ nghe trên đầu một tiếng cạch nhỏ,
chiếc giường đã quay lại như cũ. Chàng trong bụng khen thầm: “Cơ quan này
bố trí thật tinh vi, ai ngờ được cửa đường hầm bí mật này lại ở ngay trên
giường một tiểu thư”. Chàng nắm tay cô gái, vội vàng đuổi về phía trước.
Chạy được mấy trượng, nghe thấy tiếng xích của con a hoàn kéo lê dưới đất,
chợt nghĩ ra: “Cô gái này chân tập tễnh, lại có xích sắt, sao có thể chạy nhanh
đến thế?” liền ngừng lại. Cô gái đoán được tâm sự chàng, cười nói: -Cháu giả
vờ què chân để đánh lừa lão gia và tiểu thư đấy thôi.
Trương Vô Kỵ nghĩ bụng: “Thảo nào mẹ ta đã dặn rằng đàn bà con gái trong
thiên hạ thích đánh lừa người khác. Hôm nay ngay cả Bất Hối muội muội cũng
đã ám toán ta”. Lúc này chàng đang lo đuổi theo kẻ địch thành thử ý niệm đó
chỉ thoáng qua, rồi nghĩ qua chuyện khác, trong đường hầm cong cong quẹo
quẹo chạy mấy chục trượng thì tắc nghẽn, nhưng gã Viên Chân tuyệt nhiên
không thấy đâu.
Con a hoàn nói: -Đường hầm này cháu cũng chỉ mới tới đây, chắc là còn có
đường thông đi nơi khác nhưng cháu không tìm thấy cơ quan mở cửa.
Trương Vô Kỵ đưa tay mò quanh mọi chiều, thấy những vách đáo chỗ lồi chỗ
lõm, không thấy có dấu nối, đưa tay đẩy thử những chỗ lồi lõm không thấy
chuyển động chút nào. Con a hoàn than: -Cháu cũng đã thử hàng chục cách
nhưng vẫn không tìm ra máy móc ở chỗ nào, thật là lạ lùng. Cháu cũng đã
đem đèn lửa vào xem kỹ càng nhưng không thấy chỗ nào có dấu vết gì khả
nghi. Thế nhưng hòa thượng kia trốn đi đâu?
Trương Vô Kỵ hít một hơi, vận kình vào hai cánh tay, tại bức vách phía trái
dùng sức đẩy thử, không thấy động tĩnh gì, lại qua bên phải đẩy thử. Lần này
vách đá hơi chuyển động, chàng mừng quá, lại hít hai khẩu chân khí, sử kình
đẩy thêm, tường đá từ từ lui về sau. Thì ra đó là một cái cửa đá thật dày, thật
lớn, thật nặng, thật chắc chắn. Cái bí đạo trên Quang Minh Đính cấu trúc thật
tinh xảo, có nơi thì dùng cơ quan bí mật, còn cái cửa đá này thì hoàn toàn
không có máy móc gì, nếu không phải người có thần lực trời cho hay thân
mang võ công thượng thừa thì không thể nào chuyển dịch được. Chẳng hạn
như tiểu a hoàn này tuy đã vào được đường hầm nhưng võ công không đủ,
nửa đường cũng phải bỏ cuộc.
Trương Vô Kỵ lúc này luyện Cửu Dương thần công đã thành, sức lực thật là
mạnh mẽ nên mới có thể đẩy được cửa mở ra. Khi cánh cửa đá đã mở ra được
ba thước rồi, chàng liền đánh ra một chưởng, đề phòng Viên Chân náu ở đằng
sau cửa đá đánh lén chăng, sau đó mới luồn vào.
Qua khỏi bức tường đá rồi, trước mặt lại là một đường hầm dài khác, hai người
liền theo đó mà đi, thấy thông đạo hơi xiên xiên lên trên, càng đi càng hẹp lại,
khoảng chừng năm mươi trượng, đột nhiên đường chia thành hai nhánh.
Trương Vô Kỵ đi thử một bên thì đường đó lại chia thành bảy nhánh khác,
đang phân vân chưa biết theo ngả nào, bỗng nghe thấy từ đường bên trái ở
phía trước có tiếng ho khẽ, tuy ngừng ngay nhưng trong đêm thanh vắng
nghe vẫn rõ ràng.
Trương Vô Kỵ nói khẽ: -Đi phía này.
Chàng liền tiến lên đi theo con đường tận cùng phía trái. Nhánh đó chỗ cao
chỗ thấp, dưới đất lại gập ghềnh khó đi, chàng xông tới nghe tiếng xích sắt
phía sau loảng xoảng không dứt, liền quay lại nói: -Địch nhân ở phía trước,
tình thế hung hiểm, cô cứ đi chầm chậm cũng được.
Con a hoàn trả lời: -Có nạn cùng chịu, há sợ gì đâu?
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Ngươi cũng định lừa ta chăng?”. Đường hầm cứ
theo phía trái lượn hình trôn ốc đi dần xuống dưới, mỗi lúc một hẹp dần, về
sau chỉ còn đủ chỗ lọt một người tưởng chừng như một giếng sâu. Đột nhiên
chàng cảm thấy từ trên đầu một làn gió ép xuống, liền vung tay áo cuộn ngay
ngang lưng con a hoàn, nhảy ngay xuống dưới, chân vừa chấm đất liền nhào
người về phía trước, chẳng cần biết là hang sâu vạn trượng hay tường đá vì
đâu có thì giờ suy nghĩ? Cũng may phía trước là một khoảng trống đủ chỗ cho
hai người dung thân. Chỉ nghe bình một tiếng thật lớn, đất cát đá vụn, bay mù
mịt đầy đầu đầy mặt.
Trương Vô Kỵ định thần, bỗng nghe cô gái nói: “Nguy hiểm quá, tên giặc trọc
ẩn thân bên cạnh, đẩy đá đè mình”. Trương Vô Kỵ theo sườn đá vòng trở lại,
tay phải giơ lên che đầu, đi được mấy bước, tay đã chạm phải mặt xù xì của
tảng đá. Có tiếng của Viên Chân truyền từ sau tảng đá đến tai: -Tặc tiểu tử,
hôm nay cho ngươi chết nơi đây, có một cô gái nhỏ làm bạn, cũng may cho
ngươi lắm đó. Nếu ngươi có khỏe, xem ngươi có đẩy nổi tảng đá này không
nào? Nếu một tảng chưa đủ, cho thêm một tảng nữa.
Lại nghe tiếng sắt nạy vào đá, rồi thêm một tiếng bình nữa, một khối đá khác
lại bị y bẩy xuống, đè lên trên tảng đá trước. Đường hầm này chỉ đủ lọt một
người, Trương Vô Kỵ đưa tay mò thử, tuy tảng đá không hoàn toàn bịt chặt
đường hầm, nhưng cùng lắm chỉ có thể đút lọt một cánh tay, còn người thì
không thể nào chui qua được. Chàng hít một hơi chân khí, hai tay lắc thử, hai
bên đất cát bay xuống mù mịt nhưng tảng đá không thể nào đẩy nổi. Xem ra
hai khối đá nặng đến mấy nghìn cân chồng lên nhau, dù chàng có khỏe như
trâu như hổ, cũng không thể nào mở nổi. Tuy chàng đã luyện Cửu Dương thần
công nhưng sức người có hạn, hai khối đá to như hai cái gò nhỏ kia, làm sao
có thể di chuyển được một gang nửa tấc nào?
Lại nghe Viên Chân ở bên ngoài tảng đá thở hổn hển, có lẽ sau khi y bị thương
nặng rồi, lại còn dùng sức bẩy hai tảng đá khiến cho gân cốt không còn hơi
sức. Y thở mấy lần rồi hỏi: -Tiểu tử … tên … tên ngươi là..
Nói đến đây y hụt hơi không nói tiếp được nữa. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Lúc
này nếu như y có đổi ý, đột nhiên mở lòng từ bi, muốn cứu hai người ra thì
cũng không sao làm được. Việc gì mình phải phí lời với y làm gì, đi xem đường
hầm có lối khác đi ra không là hơn”. Nghĩ thế quay mình lại, theo đường hầm
đi tiếp về phía trước. Cô gái nói: -Bên mình cháu có đồ đánh lửa, tiếc rằng
không có đèn nến gì cả, có lửa cũng tắt ngay.
Trương Vô Kỵ nói: -Đừng đánh lửa vội.
Chàng đi tiếp về phía trước thêm mấy chục trượng nữa thì đến cuối đường
hầm. Hai người mò khắp nơi, Trương Vô Kỵ mò được một cái thùng gỗ, mừng
nói: -Có đây.
Giơ chưởng lên đánh xuống đập vỡ cái thùng, thấy trong thùng đầy bột,
không biết là vôi hay là bột mì. Chàng nhặt một mảnh gỗ lên nói: -Cô đốt lửa
lên.
Cô tiểu hoàn lấy ra hỏa đao, hỏa thạch, bùi nhùi đánh lửa lên châm vào thanh
gỗ, đột nhiên lửa cháy bùng lên chói cả mắt, mảnh gỗ bén lửa ngay. Hai người
sợ đến nhảy dựng lên, mũi ngửi thấy mùi khét của diêm sinh. Cô gái nói: –
Thuốc súng đó.
Cầm mảnh gỗ giơ lên cao, nhìn lại bột trong thùng gỗ quả nhiên là thuốc nổ
đen sì. Nàng cười khúc khích: -Nếu như lúc đốm lửa tóe ra bén vào hỏa dược,
e rằng cả tên ác hòa thượng ở bên ngoài kia cũng tan xác.
Lại thấy Trương Vô Kỵ ngơ ngẩn nhìn mình, trên mặt đầy vẻ kinh ngạc, thần
sắc thực là khác lạ, liền mỉm cười hỏi: -Công tử sao thế?
Trương Vô Kỵ thở dài một tiếng, nói: -Thì ra, thì ra cô … cô đẹp đến thế.
Cô tiểu hoàn che miệng cười, nói: -Cháu sợ hết hồn, quên cả giả trang khuôn
mặt.
Nói rồi đứng thẳng người lên. Thì ra cô ta chẳng gù lưng, cũng không khập
khiễng, hai mắt sâu thẳm có thần, mày dài mũi thẳng, bên má có lúm đồng
tiền. Tuy nhiên nàng tuổi còn nhỏ, thân thể chưa trưởng thành, mặt mày xinh
đẹp nhưng vẫn còn nét trẻ con. Trương Vô Kỵ nói: -Vì cớ gì cô phải giả vờ
thành quái đản đến thế?
Cô gái cười đáp: -Tiểu thư ghét cháu lắm, thấy cháu xấu xí thì trong lòng mới
vui vẻ. Nếu cháu không giả vờ thành hình dáng quái dị như thế, cô ấy đã giết
cháu lâu rồi.
Trương Vô Kỵ hỏi: -Tại sao cô ấy lại muốn giết cô?
Tiểu hoàn đáp: -Tiểu thư nghi là cháu muốn ám hại cô ấy và lão gia.
Trương Vô Kỵ lắc đầu: -Thật là đa nghi. Khi cô cầm trường kiếm trong tay, cô
ta không động đậy gì được, cô vẫn không hại cô ấy. Từ nay về sau, cô ấy sẽ
không còn nghi ngờ gì cô nữa.
Cô gái nói: -Cháu dẫn công tử xuống dưới này, tiểu thư lại càng nghi hơn.
Nhưng không biết mình có ra khỏi nơi đây được không, nên dù cô ấy nghi hay
không nghi, cháu cũng không để ý tới nữa.
Cô gái vừa nói vừa giơ cao thanh gỗ, xem xét chung quanh. Chỗ hai người
đang đứng hình như là một căn phòng, chất đầy cung tên binh khí, đa số đều
đã rỉ sét, có lẽ là nơi tàng trữ binh khí của Minh giáo khi xưa để phòng khi phải
chống với ngoại địch. Xem xét tường bốn bên chung quanh, không thấy có
dấu vết gì xem ra là cuối đường hầm rồi. Viên Chân sở dĩ cố ý ho là để dụ cho
hai người đi vào tuyệt lộ.
Tiểu hoàn nói: -Công tử gia, tên cháu là Tiểu Siêu. Cháu nghe tiểu thư gọi
công tử là Vô Kỵ ca ca, vậy đại danh có phải là Vô Kỵ không?
Trương Vô Kỵ đáp: -Đúng thế. Tôi họ Trương …
Đột nhiên chàng chợt nghĩ ra, cúi xuống nhặt một cây trường mâu, nhắc nhắc
thử, thấy thật nặng nề, phải đến bốn chục cân, nói: -Số thuốc nổ này xem ra
có thể phá vỡ tảng đá cứu mình thoát hiểm được.
Tiểu Siêu vỗ tay reo lên: -Hay lắm, hay lắm.
Khi nàng vỗ tay, tiếng xích ở cổ tay chạm nhau kêu leng keng. Trương Vô Kỵ
nói: -Sợi xích này vướng chân vướng tay, giựt đứt nó đi cho rồi.
Tiểu Siêu sợ hãi nói: -Không, không được đâu. Lão gia sẽ giận lắm đó.
Trương Vô Kỵ nói: -Cô cứ nói là tôi bẻ gãy, tôi không sợ ông ta bực mình đâu.
Nói xong chàng cầm hai đầu xích, dụng kình giựt ra. Sợi xích đó vốn chỉ nhỏ
bằng cây đũa, sức kéo của chàng phải đến ba bốn trăm cân, nhưng chỉ kêu
coong một tiếng, dây xích chấn động nhưng vẫn y nguyên không đứt.
Chàng hừ một tiếng, hít một hơi dài, tăng thêm kình lực, nhưng sợi dây xích
cũng vẫn không hề hấn gì. Tiểu Siêu nói: -Sợi dây xích này thật là lạ lùng,
không phải bảo đao lợi kiếm thì không làm gì được đâu. Chìa khóa do tiểu thư
giữ.
Trương Vô Kỵ gật đầu: -Nếu mình ra khỏi nơi đây, tôi sẽ bảo cô ta mở khóa cho
cô.
Tiểu Siêu nói: -Chỉ sợ cô ấy không chịu đưa.
Trương Vô Kỵ nói: -Tôi với cô ta có giao tình không phải tầm thường, cô ấy thể
nào cũng đưa cho tôi.
Nói rồi chàng cầm cây trường mâu, đến bên dưới tảng đá, đứng nghe ngóng
một lát, không nghe tiếng hô hấp của Viên Chân, chắc y đã đi xa rồi. Tiểu Siêu
giơ cao mồi lửa, đứng bên cạnh soi cho chàng. Trương Vô Kỵ nói: -Một lần
chắc không vỡ được đâu, chắc phải làm vài lần.
Chàng vận sức vào cánh tay đục một cái lỗ cạnh tảng đá và vách hang. Tiểu
Siêu đem hỏa dược tới, Trương Vô Kỵ liền nhồi vào trong cái lỗ đó, xoay chiếc
giáo lại, dùng cán giáo lèn cho chặt, lại làm một sợi dây dẫn kéo dài tới bên
trong căn phòng đá. Chàng cầm lấy cây đuốc trong tay Tiểu Siêu, cô gái liền
lấy tay bịt chặt tai lại. Trương Vô Kỵ tiến ra trước che cho cô, cúi xuống châm
ngòi đốm lửa liền theo đường dây chạy đi.
Chỉ nghe một tiếng ầm thật lớn, một làn hơi nóng ép thốc vào, đẩy chàng lùi
lại hai bước, Tiểu Siêu cũng ngã chúi xuống. Chàng đã đề phòng trước, giơ tay
đỡ ngang lưng cô ta. Trong thạch thất khói bụi bay mù mịt, cây đuốc cũng bị
thổi tắt ngúm. Trương Vô Kỵ hỏi: -Tiểu Siêu, cô không sao chứ?
Tiểu Siêu ngập ngừng một hồi, nói: -Cháu … cháu không sao cả.
Trương Vô Kỵ nghe cô giọng có vẻ nghẹn ngào, hơi lấy làm lạ, đến khi đốt lửa
lên, thấy cô rưng rưng nước mắt, liền hỏi: -Sao thế? Cô khó chịu trong người
ư?
Tiểu Siêu nói: -Trương công tử, công tử … công tử không biết cháu là ai, sao
đối với cháu tốt thế?
Trương Vô Kỵ lạ lùng: -Thế là sao?
Tiểu Siêu nói: -Sao công tử lại che ở trước mặt cháu? Cháu chỉ là một đứa nô
tì hèn hạ, còn công tử … tấm thân nghìn vàng, sao lại đứng chắn cho cháu?
Trương Vô Kỵ mỉm cười, nói: -Tôi có quí trọng gì đâu? Cô là một cô gái nhỏ, tôi
tự nhiên phải che chở cho cô.
Đến khi khói bụi tan hết, chàng đi trở lại sườn hang, thấy tảng đá kia chẳng hề
hấn gì, vẫn sừng sững như cũ, chỉ vạt đi một góc nhỏ. Trương Vô Kỵ hơi thất
vọng nói: -Chỉ sợ phải đến bảy tám lần thì mình mới qua được. Thế nhưng
thuốc nổ chỉ còn dùng được nhiều lắm là hai lần nữa thôi.
Chàng lại cầm cây mâu lên, đục lỗ trên tảng đá. Đào được mấy nhát, vô tình
đâm cây mâu vào vách đá, đột nhiên một cục đá to bằng cái đấu rơi ra, hở
thành một cái lỗ. Chàng vừa mừng vừa sợ, thò tay vào, móc những đá chung
quanh lắc mấy cái, thấy hơi nhúc nhích, vội sử kình giựt ra, lại thêm một tảng
đá khác tuột xuống. Chàng moi ra được bốn cục đá vuông vức chừng một
thước thì cái hang đã đủ để chui vào. Thì ra phía bên kia của đường hầm này
có một lối đi, vừa rồi thuốc nổ tảng đá lớn, đã làm cho tường chấn động khiến
những tảng đá rời ra. Cái miệng hang bịt bằng đá hoa cương, từng khối lớn
bằng cái đấu.
Trương Vô Kỵ cầm bó đuối chui qua trước rồi gọi Tiểu Siêu đi theo. Đường hầm
này cũng theo hình trôn ốc đi xuống, nhưng chàng đã khôn ngoan hơn, cầm
cây mâu chĩa ra đằng trước, đề phòng Viên Chân ám toán lần nữa. Đi khoảng
bốn năm chục trượng, đến một cửa đá. Chàng đưa cây mâu và bó đuốc cho
Tiểu Siêu, vận kình đẩy cánh cửa, mở ra một căn phòng nữa.
Gian phòng này rất lớn, trên đỉnh có thạch nhũ rỏ xuống, đúng là một thạch
động thiên nhiên. Chàng cầm bó đuối soi qua mấy vòng, bỗng thấy dưới đất
hai bộ xương người chết. Y phục trên hai tàn cốt này chưa rã hết, nhìn kỹ là
một người đàn ông, một người đàn bà.
Tiểu Siêu sợ hãi, nép vào bên cạnh Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ giơ cao ngọn
đuốc, tra xét căn phòng thêm một lần nữa, nói: -Chỗ này xem chừng là tận
cùng rồi, không biết có tìm được đường ra không?
Chàng cầm cây mâu, gõ vào các bức vách, chỗ nào cũng thấy bình bịch nặng
nề không thấy chỗ nào có vẻ rỗng. Chàng đến gần hai bộ xương người, thấy
tay người đàn bà cầm một con dao găm sáng loáng, đâm vào ngực mình.
Chàng hơi ngạc nhiên, nghĩ đến câu chuyện Viên Chân kể. Viên Chân và
Dương phu nhân lén gặp nhau trong bí đạo, bị Dương Đính Thiên bắt gặp.
Dương Đính Thiên phẫn uất, tẩu hỏa chết, Dương phu nhân liền dùng chủy
thủ tự vẫn chết theo chồng. “Không lẽ hai người này là vợ chồng Dương Đính
Thiên chăng?”. Chàng đến gần bộ xương người đàn ông, thấy bên cạnh nơi
xương bàn tay có một miếng da dê.
Trương Vô Kỵ nhặt miếng da lên xem, chỉ thấy một bên có lông, một bên nhẵn
thín, không có gì đặc biệt. Tiểu Siêu cầm lấy miếng da, vẻ mặt vui mừng, kêu
lên: -Chúc mừng công tử, đây là tâm pháp võ công cao cấp nhất của Minh
giáo.
Nói xong thò ngón tay trỏ bàn tay trái quẹt vào con dao chủy thủ trên ngực
Dương phu nhân một cái, cắt một đường nhỏ, lấy máu bôi lên trên tấm da,
liền từ từ hiện lên, hàng đầu tiên gồm mười một chữ viết: Minh Giáo Thánh
Hỏa Tâm Pháp: Càn Khôn Đại Na Di.
Trương Vô Kỵ vô tình tìm được võ công tâm pháp của Minh giáo nhưng không
lấy gì vui, nghĩ thầm: “Trong đường hầm này không nước, không gạo, nếu
không ra khỏi nơi đây, cùng lắm được bảy tám ngày, ta và Tiểu Siêu cũng chết
đói chết khát thôi. Dù có học võ công cao đến mấy thì cũng đành vô dụng”.
Chàng nhìn hai bộ xương, nghĩ tiếp: “Gã Viên Chân kia sao không lấy luôn bộ
tâm pháp Càn Khôn Đại Na Di này luôn? Có lẽ sau khi y gặp phải chuyện đau
đớn kia rồi, không bao giờ còn dám quay lại nhìn xác vợ chồng Dương Đính
Thiên nữa. Chắc y cũng không biết mảnh da dê này có chép tâm pháp võ
công, nếu không thì chẳng nói gì vợ chồng họ Dương đã chết rồi, mà dù còn
sống, y cũng tìm cách lấy cắp”. Chàng quay lại hỏi Tiểu Siêu: -Sao cô lại biết
được bí mật của tấm da dê này?
Tiểu Siêu cúi đầu đáp: -Khi lão gia nói chuyện với tiểu thư cháu có nghe lén
được. Hai người là giáo đồ Minh giáo, không dám vi phạm giáo qui, đi xuống
dưới bí đạo này tìm kiếm.
Trương Vô Kỵ nhìn hai bộ xương trắng, hơi thấy cảm khái, nói: -Mình chôn họ
đi vậy.
Hai người gom đất đá chung quanh lại vun vào một chỗ rồi đắp lên xác hai vợ
chồng Dương Đính Thiên. Tiểu Siêu bỗng cầm một vật bên cạnh tàn cốt
Dương Đính Thiên lên nói: -Trương công tử, ở đây có một phong thư.
Trương Vô Kỵ cầm lấy xem qua, thấy trên bao thư có viết mấy chữ “Phu nhân
thân khải” [1] bốn chữ. Vì đã lâu ngày, phong bì đã mục nát nên bốn chữ kia
cũng đã bị tàn khuyết, nhưng vẫn còn nhìn thấy nét bút rắn rỏi toát ra một vẻ
mạnh mẽ. Phong bì được dán kỹ, dấu xi vẫn còn nguyên. Trương Vô Kỵ nói: –
Dương phu nhân chưa kịp mở thư ra xem đã tự sát chết rồi.
Chàng cung kính đặt bao thư vào trong đống tàn cốt của hai người, đang định
lấy đất đá vùi lên, Tiểu Siêu nói: -Mở ra xem thử nào? Không chừng Dương
giáo chủ có dặn dò chuyện gì.
Trương Vô Kỵ đáp: -Làm thế e rằng bất kính.
Tiểu Siêu nói: -Nếu như Dương giáo chủ có tâm nguyện gì chưa thành, công
tử chuyển cáo lại cho lão gia và tiểu thư, để họ theo lời Dương giáo chủ thực
hiện, chẳng hay hơn ư?
Trương Vô Kỵ thấy vậy cũng phải liền nhẹ nhàng mở phong bì, lấy ra một tờ
giấy lụa trắng thật mỏng, trên đó có viết:
Phu nhân yêu quí:
Phu nhân từ khi về nhà họ Dương, ngày đêm u uất. Ta thô lỗ kém đức, không
đủ cho phu nhân vui lòng, thật là có lỗi lắm vậy. Nay đã đến lúc vĩnh biệt,
mong phu nhân lượng thứ cho.
Y giáo chủ đời thứ ba mươi hai có di mệnh rằng, khi nào ta luyện thành Càn
Khôn Đại Na Di thần công, hãy dẫn các anh em đi qua tổng giáo bên Ba Tư,
tìm cách nghênh đón thánh hỏa lệnh về. Bản giáo tuy phát nguyên từ Ba Tư,
nhưng đã mọc rễ nơi Trung Hoa, thêm cành tỏa lá đã mấy trăm năm nay rồi.
Nay Thát tử chiếm trung thổ của ta, bản giáo thề nhất định tới cùng, quyết
không tuân lệnh vô lý từ tổng giáo Ba Tư, chịu cúi đầu nhận kẻ Mông Nguyên
làm chủ. Thánh hỏa lệnh nếu về lại tay ta rồi, Minh giáo Trung Hoa lập tức có
thể đứng ngang hàng với tổng giáo Ba Tư ngay.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Thì ra tổng giáo Minh giáo ở tại nước Ba Tư. Y giáo
chủ và Dương giáo chủ không chịu tuân lệnh tổng giáo hàng phục Nguyên
triều, thực là những hảo hán tử rất khí khái”. Chàng trong lòng đối với Minh
giáo thêm vài phần khâm phục, lại đọc tiếp xuống dưới:
Hôm nay ta sơ thành thần công bậc thứ tư, lại biết được chuyện Thành Côn,
huyết khí trào lên không sao tự chế được, chân lực tán hết, biết đã đến lúc trở
về rồi. Ý trời như thế, mệnh ta như thế, biết làm sao hơn?
Trương Vô Kỵ đọc đến đây, thở dài một tiếng nói: -Thì ra khi Dương giáo chủ
viết lá thư này, đã biết chuyện Dương phu nhân cùng Thành Côn lén gặp nhau
nơi bí đạo.
Chàng thấy Tiểu Siêu ngập ngừng dường như muốn hỏi chuyện gì nhưng
không dám mở miệng, liền đem chuyện vợ chồng Dương Đính Thiên và Thành
Côn thuật sơ qua. Tiểu Siêu nói: -Cháu thấy chuyện này là do Dương phu
nhân không nên không phải. Nếu bà ta trong lòng còn nghĩ đến Thành Côn thì
đừng lấy Dương giáo chủ làm gì, còn nếu đã lấy Dương giáo chủ, thì không
nên lén gặp lại Thành Côn.
Trương Vô Kỵ gật đầu, nghĩ thầm: “Cô này còn bé như thế nhưng đã hiểu
biết”. Chàng đọc tiếp xuống dưới:
Nay mệnh ta chỉ còn sớm tối, phụ lòng Y giáo chủ trọng thác, thực là kẻ có tội
của bản giáo. Vậy phu nhân cầm lá thư do chính ta viết này, chiêu tụ tả hữu
Quang Minh sứ giả, bốn đại Hộ Giáo pháp vương, Ngũ Hành Kỳ sứ, Ngũ Tản
Nhân truyền di mệnh của ta như sau:
Bất luận ai thu hồi được thánh hỏa lệnh về thì được làm giáo chủ đời thứ ba
mươi bốn của bản giáo. Kẻ nào không phục giết đi không tha. Ra lệnh cho Tạ
Tốn tạm nhận chức vụ Phó giáo chủ, xử phân các việc trọng đại trong bản
giáo.
Trương Vô Kỵ lòng chấn động, nghĩ thầm: “Hóa ra Dương giáo chủ đã chỉ định
nghĩa phụ ta tạm nhiếp chức vụ phó giáo chủ. Nghĩa phụ ta văn võ toàn tài,
Dương giáo chủ chết rồi, ông ta là nhân vật kiệt hiệt nhất của Minh giáo. Tiếc
rằng Dương phu nhân không đọc lá thư này, nếu không Minh giáo không đến
nỗi tàn sát lẫn nhau, long trời lở đất như thế”. Chàng thấy Dương Đính Thiên
coi trọng Tạ Tốn như thế, lòng thật vui mừng, nhưng cũng không khỏi thương
cảm, xuất thần một hồi rồi lại đọc tiếp:
Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp tạm do Tạ Tốn tiếp chưởng, sau này sẽ chuyển
lại cho tân giáo chủ. Làm rạng rỡ tôn giáo của chúng ta, đuổi quân Hồ Lỗ ra
khỏi bờ cõi, làm điều lành, trừ điều ác, giúp chuyện ngay, chống kẻ gian, mong
các đấng minh tôn thánh hỏa phổ huệ thiên hạ thế nhân là điều tân giáo chủ
phải cố mà làm.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Cứ theo di mệnh của Dương giáo chủ mà xem, tông
chỉ của Minh giáo thật là chính đại. Các đại môn phái cứ khư khư giữ lấy quan
niệm của môn hộ, không ngừng làm khó dễ Minh giáo, quả thực không phải
chút nào”. Chàng lại đọc tiếp tờ di thư:
Ta đem công lực còn sót lại trong mình, đóng cửa đá lại ở cùng Thành Côn
trong đường hầm này, còn phu nhân cứ theo bản đồ bí đạo mà thoát ra.
Đương thế không có người thứ hai nào có thần công Càn Khôn Đại Na Di, thì
cũng không ai có thể đẩy được cái cửa đá nằm ở vị trí Vô Vọng. Đợi đến khi
hào kiệt hậu thế luyện được rồi, tàn cốt của ta và Thành Côn cũng đã mục
nát.
Đính Thiên cẩn bạch.
Sau cùng là một hàng chữ nhỏ:
Ta tên là Đính Thiên, ở trên đời không làm được công nghiệp gì, đối với bản
giáo không làm tròn nhiệm vụ, làm đau lòng phu nhân, ôm mối hận chết đi,
vậy mà dám cuồng ngôn đội trời đạp đất[2], thật đáng chê cười.
Ở phía sau bức thư là một bản đồ bí đạo, ghi rõ các nơi ngõ ngách và cửa nẻo.
Trương Vô Kỵ mừng quá, nói: -Dương giáo chủ vẫn tưởng sẽ tự giam mình
chung với Thành Côn trong đường hầm này, hai người cùng chết, nào ngờ ông
ta tính không đến nơi đến chốn, chết sớm quá, để cho gã Thành Côn kia
thung dung cho tới tận hôm nay. Cũng may mình có bức bản đồ này có thể
kiếm được lối ra.
Tại bức địa đồ, chàng kiếm đúng chỗ mình đang đứng, tra xét lại thì có khác
nào bị một thùng nước lạnh dội từ đầu trở xuống, thì ra lối thoát duy nhất,
chính là lối mà Thành Côn dùng đá lấp mất rồi, thành ra dù có hay không có
bức toàn đồ cũng thế thôi. Tiểu Siêu nói: -Công tử đừng vội nản lòng, có thể
có lối khác không chừng.
Cô ta cầm lấy tấm bản đồ, cúi đầu xem kỹ, thấy bản đồ vẽ thật rành rọt, đúng
là ngoài lối đó ra không còn đường nào khác. Trương Vô Kỵ thấy nàng lộ vẻ
thất vọng, cười gượng: -Di thư của Dương giáo chủ có nói rõ, nếu ai luyện
thành thần công Càn Khôn Đại Na Di, thì có thể đẩy được cánh cửa đá mà ra.
Trên đời bây giờ ngoài Dương Tiêu tiên sinh ra, không ai luyện qua môn này
cả. Thế nhưng ông ta công lực còn non, dẫu có ở nơi đây cũng chưa chắc đã
làm được việc gì. Hơn nữa, mình cũng không biết hướng Vô Vọng là ở chỗ
nào, trên bản đồ không ghi rõ, thì làm cách nào mà tìm?
Tiểu Siêu nói: -Vô Vọng ư? Đó là phương vị của một trong sáu mươi tư quẻ
của Phục Hi, Càn chấm dứt ở cung Ngọ, Khôn chấm dứt ở cung Tý, Dương ở
phương Nam, Âm tại phương Bắc. Vô Vọng nằm giữa hai vị trí Minh Di và Tùy.
Nàng nói xong liền ở trong thạch thất phân chia phương vị, đi đến góc phía
tây bắc, nói: -Ở tại nơi đây.
Trương Vô Kỵ thấy lên tinh thần, nói: -Có thật không?
Chàng liền chạy đến đường hầm chứa binh khí, lấy một cây đại phủ về, cạo
sạch những đất cát bám trên tường, quả nhiên có dấu của một cánh cửa, nghĩ
thầm: “Ta tuy không biết phép tắc trong Càn Khôn Đại Na Di, nhưng luyện
Cửu Dương thần công đã thành, uy lực chưa chắc đã kém gì môn này”. Nghĩ
thế bèn tụ khí vào đan điền, kình lực vận lên hai cánh tay, hai chân xoải ra
thành cung tiễn bộ[3], từ từ đẩy ra. Chàng đẩy một hồi lâu, thạch môn trước
sau vẫn không nhúc nhích. Bất luận hai tay chàng đổi kiểu nào, vận chân khí
cách nào, tới khi hai tay mỏi nhừ, xương cốt cơ thể kêu lục cục, cái cửa đá đó
vẫn trơ trơ tưởng như liền với bức tường là một, chẳng di động được một
phân.
Tiểu Siêu khuyên: -Trương công tử, đừng thử thêm nữa, để cháu đem hỏa
dược lại xem thế nào.
Trương Vô Kỵ vui mừng nói: -Hay lắm, tôi quên mất là mình có thuốc súng.
Hai người đem tất cả nửa thùng thuốc súng nhồi vào thạch môn rồi đốt dây
dẫn hỏa. Sau tiếng nổ, cánh cửa đá bị vạt vào đến bảy tám thước nhưng vẫn
không thấy đường hầm đâu, xem ra tảng đá này bề dày còn hơn cả bề rộng.
Trương Vô Kỵ hơi cảm thấy ân hận, cầm tay Tiểu Siêu, dịu dàng nói: -Tiểu
Siêu, toàn là do tôi cả, làm cho cô cũng bị giam nơi đây không ra được.
Tiểu Siêu đưa đôi mắt trong suốt nhìn thẳng vào mặt chàng nói: -Trương công
tử, công tử phải trách cháu mới phải, nếu như cháu không dẫn công tử vào …
thì đâu đến nỗi … đến nỗi …
Nói đến đây, cô gái giơ tay áo gạt lệ, một hồi sau, bỗng dưng cười khanh
khách, nói: -Nếu mình không ra được thì buồn lo cũng có ích gì. Để cháu hát
cho công tử nghe một bài, được không?
Trương Vô Kỵ còn lòng dạ nào mà nghe hát, nhưng không nỡ làm nàng cụt
hứng, mỉm cười nói: -Thế thì hay lắm.
Tiểu Siêu ngồi xuống bên cạnh chàng, cất tiếng hát:
Nhân sinh lý lẽ ai ơi,
Làm người cốt được thảnh thơi đủ rồi.
Ai ai cũng có thời thăng giáng,
Chẳng một ai chỉ xuống không lên.
Trong may có rủi kề bên,
Rủi kia cũng sẵn có hên ẩn tàng.
Trương Vô Kỵ nghe đến câu: “Cát tàng hung, hung tàng cát” lại nghĩ đến thân
phận mình, quả đúng như thế, thấy giọng nàng trong trẻo dễ nghe, lên cao
xuống thấp thật uyển chuyển, bao nhiêu buồn phiền giảm hẳn. Cô gái lại hát
tiếp:
Giàu sang đâu hẳn giàu sang mãi,
Trời chói chang có lúc xế chiều.
Trăng kia sáng mãi bao giờ,
Tròn rồi lại khuyết đầy chờ khi vơi.
Đất thoai thoải đông nam một cõi,
Vòi vọi nghiêng tây bắc trời cao.
Dù cho thiên địa nhường bao,
Cũng chưa toàn vẹn làm sao con người.
Trương Vô Kỵ nói: -Tiểu Siêu, cô hát nghe hay quá, bài hát này ở đâu vậy?
Tiểu Siêu cười đáp: -Công tử nói đùa, cháu hát có gì đâu mà hay? Cháu nghe
người ta hát, nên nhớ được vài câu, cũng chẳng biết của ai làm nữa.
Trương Vô Kỵ nghĩ đến câu “Thiên địa thướng vô hoàn thể” nên tấm tắc khen
bài hát. Tiểu Siêu hỏi: -Công tử có thích nghe hát thật không? Hay chỉ nói giả
vờ?
Trương Vô Kỵ cười: -Thích hay không thích nghe lại còn giả hay thật gì nữa? Lẽ
dĩ nhiên là thật rồi.
Tiểu Siêu nói: -Hay lắm. Để cháu hát thêm một bài nữa nhé?
Cô ta lấy tay vỗ lên trên đá làm nhịp, hát thêm:
Chớ nên cau mặt nhíu mày,
Cũng đừng tranh cãi để cầu hơn ai.
Mặt hoa da phấn hôm nay,
Già hơn bữa trước một ngày còn chi?
Xuân qua đông lại tới thì,
Từ xưa vẫn thế có gì khác đâu.
Dù cho khôn khéo sang giàu,
Nghèo hèn ngu độn cũng đều như nhau.
Cõi trần kẻ trước người sau,
Cuối cùng cũng đến cái cầu xuôi tay.
Hôm nay chỉ biết hôm nay,
Trăm năm thấm thoát đã hay một đời.
Mấy ai thọ được bảy mươi,
Thời gian như nước chảy xuôi qua cầu.
Bài hát ý tứ mênh mang, hiển nhiên người làm ra cũng đã nhiều kinh lịch, biết
rõ bụng dạ nhân tình, ở miệng một cô gái đang tuổi hoa niên hát ra xem
chừng không xứng, đúng là cô ta nghe người khác hát rồi thuộc lòng. Trương
Vô Kỵ tuổi tuy còn trẻ nhưng mười năm qua cũng đã nếm đủ mùi gian khổ rồi,
hôm nay bị kẹt trong giữa lòng núi, trước mắt thấy không còn đường sống
nhẩm lại hai câu: “Cõi trần kẻ trước người sau, Cuối cùng cũng đến cái cầu
xuôi tay” không khỏi trùng lòng. Cái cầu xuôi tay hẳn là ngày từ giã cõi đời.
Chàng đã nhiều lần lâm vào cảnh sinh tử quan đầu, nhưng trước đây chỉ có
hai đường, sống hay chết, không liên lụy đến ai, lần này lại kéo thêm cô bé
Tiểu Siêu, rồi chuyện tồn vong của Minh giáo, an nguy của Dương Tiêu,
Dương Bất Hối và bao nhiêu người khác, cái thâm cừu giữa nghĩa phụ và Viên
Chân, đều có ít nhiều liên quan đến chàng, nên không đành lòng mà chịu
chết.
Chàng đứng lên đến đẩy cái cửa đá lần nữa, thấy chân khí trong cơ thể lưu
chuyển, tưởng như trong người tích súc một luồng lực khí vô cùng vô tận,
nhưng tắc tị không thể sử dụng được, khác nào cơn lũ lụt cuồn cuộn trên sông
bị hai bờ đê chặn lại, không thể nào vượt qua.
Chàng thử ba lần không xong đành chịu thúc thủ. Bỗng thấy Tiểu Siêu lại cắt
đầu ngón tay, lấy máu tươi tô lên miếng da dê, nói: -Trương công tử, công tử
thử luyện Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp xem sao? Biết đâu công tử thông
minh hơn người, tập một lần là được.
Trương Vô Kỵ cười đáp: -Các giáo chủ tiền nhiệm của Minh giáo luyện suốt cả
đời nhưng cũng chưa ai thành công. Các vị đó đã làm giáo chủ, tài trí ắt phải
trác tuyệt hơn người, tôi chỉ trong sớm tối làm sao có thể hơn họ được?
Tiểu Siêu lại cúi đầu hát:
Hôm nay chỉ biết hôm nay,
Trăm năm thấm thoát đã hay một đời.
Công tử cứ luyện thêm được lúc nào hay lúc nấy.
Trương Vô Kỵ mỉm cười, đón lấy miếng da dê, miệng nhẩm đọc, thấy viết trên
mảnh da này toàn là cách vận hành chân khí, cùng các pháp môn di cung sử
kình. Chàng theo đó làm thử, không phí chút hơi sức nào đã làm được ngay.
Trên miếng da viết tiếp:
Đây là tâm pháp cấp thứ nhất, người ngộ tính cao thì bảy năm có thể luyện
thành, người kém một chút thì phải mất mười bốn năm.
Chàng lấy làm lạ: “Cái này có khó khăn gì đâu? Sao lại phải luyện tới bảy năm
mới xong?”.
Chàng xem tiếp xuống tâm pháp cấp thứ hai, theo đó mà làm, chỉ một lát là
chân khí quán thông, trong mười đầu ngón tay, tưởng chừng như có hơi lạnh
vọt ra. Trong đó lại có ghi chú:
Cấp thứ hai, người ngộ tính cao thì bảy năm có thể luyện thành, người kém
một chút thì phải mất mười bốn năm. Nếu tới năm thứ hai mươi mốt mà không
tiến triển, không được luyện sang cấp thứ ba, để phòng tẩu hỏa nhập ma,
không cách nào cứu được.
Chàng vừa mừng vừa sợ, liền coi tiếp xuống cấp thứ ba. Lúc này những hàng
chữ đã mờ, chàng đang định lấy chủy thủ cắt ngón tay thì Tiểu Siêu đã lấy
máu mình xoa lên mảnh da dê trước. Trương Vô Kỵ vừa đọc vừa luyện theo,
tầng thứ ba rồi tầng số bốn, đi đến đâu thông đến đó luyện được ngay chẳng
khác gì chẻ tre.
Tiểu Siêu thấy mặt chàng một nửa bên đỏ như máu, nửa bên kia lại xanh lè,
trong lòng hơi hãi sợ, nhưng thấy chàng thần định khí túc, hai mắt sáng lấp
lánh, nên cũng yên tâm. Đến khi chàng đọc tiếp luyện tâm pháp qua cấp thứ
năm, mặt chàng lúc xanh lúc đỏ. Khi mặt màu xanh thì thân thể hơi run như ở
trong đá lạnh, còn khi mặt đỏ thì mồ hôi vã ra như mưa.
Tiểu Siêu lấy khăn tay ra, đưa lên định lau mồ hôi trán cho chàng, đột nhiên
tay giật mạnh một cái, thân hình ngả qua một bên như muốn ngã ngửa.
Trương Vô Kỵ đứng lên, giơ tay áo lau mồ hôi, trong nhất thời chẳng hiểu tại
sao, nhưng cũng biết rằng cấp tâm pháp thứ năm chàng đã luyện xong rồi.
Thì ra môn Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp này vốn là một phương thức vận
kình sử lực rất là xảo diệu, căn bản đạo lý là làm thế nào phát huy tối đa cái
tiềm lực trong cơ thể của mỗi người. Trong bất cứ ai cũng có một tiềm lực thật
to lớn, nhưng bình thời không sử dụng được mà thôi. Chỉ khi nào gặp chuyện
khẩn cấp, chẳng hạn như cháy nhà mới thấy một người sức trói gà không chặt
cũng có thể vác cả nghìn cân. Trương Vô Kỵ luyện xong Cửu Dương thần công
rồi, lực đạo súc tích trong người hiện nay không ai bì kịp, có điều chưa được
minh sư chỉ điểm nên không sử dụng được. Bây giờ chàng học được Càn Khôn
Đại Na Di tâm pháp, sức lực trong người như hồng thủy trào lên, không có gì
có thể chế ngự nổi.
Môn tâm pháp này sở dĩ khó mà luyện cho thành công, chỉ sơ xẩy một chút là
tẩu hỏa nhập ma ngay, toàn là do việc vận kình vừa xảo diệu, vừa phức tạp,
mà nội lực người luyện công lại chưa đủ hùng hồn để vượt qua. Việc đó cũng
không khác gì đưa cho một đứa trẻ bảy tám tuổi múa một chiếc búa nặng
hàng trăm cân, trùy pháp càng tinh vi áo diệu, thì càng dễ đưa đến chỗ tự
đánh vào mình vỡ đầu chảy máu. Thế nhưng nếu người sử dụng cái búa là
một đại lực sĩ thì lại không sao cả. Những người luyện môn tâm pháp này
trước đây, chỉ vì nội lực hữu hạn, miễn cưỡng tu luyện, để lâm vào cảnh bụng
dạ có thừa mà sức chẳng đủ.
Các vị giáo chủ Minh giáo ngày xưa có mấy ai không hiểu đạo lý này đâu. Thân
đã làm đến giáo chủ hẳn chí khí kiên nghị lấp biển dời non, đâu có người nào
chịu thua kém ai, mà cũng có ai thấy khó mà bỏ cuộc? Đại phàm võ học cao
thủ đều lấy câu châm ngôn “tinh thành sở chí, kim thạch vi khai[4]” nằm lòng,
nên người nào cũng hăm hăm hở hở, hết sức tu tập, biết đâu rằng sức người
có hạn, chỉ nhất tâm nghĩ rằng “nhân định thắng thiên” để đến nỗi ẩm hận nhi
chung.
Trương Vô Kỵ sở dĩ chỉ mất nửa ngày đã luyện xong trong khi nhiều người
thông minh tài trí, võ nghệ cao cường hơn chàng nhiều lần, hết sức hết tâm
mấy chục năm vẫn không thành công, cái khác nhau cũng chỉ là một bên nội
lực có thừa, còn một bên nội lực chưa đủ mà thôi.
Trương Vô Kỵ luyện đến cấp thứ năm rồi, thấy tinh thần lực khí toàn thân chỗ
nào cũng có thể chỉ huy như ý muốn, muốn phát là phát, muốn thu là thu, tất
cả đều do tâm ý điều khiển được cả, khắp cơ thể, các đốt tiết cảm thấy thật là
thoải mái. Lúc này chàng quên cả việc phải đẩy cánh cửa đá, tiếp tục luyện
xuống cấp thứ sáu. Chỉ hơn một tiếng đồng hồ sau, chàng đã bước vào cấp
thứ bảy.
Cấp thứ bảy này so với cấp thứ sáu áo diệu gấp bội, không có thể hiểu được
một cách dễ dàng. Cũng may là chàng tinh thông y đạo, mạch lý, mỗi khi gặp
chỗ khó khăn không hiểu, lại đem y lý ra ấn chứng, nên mọi chỗ chàng đều
quán thông. Khi luyện được quá nửa rồi, bỗng thấy khí huyết trào lên, tim đập
mạnh. Chàng vội định thần, từ đầu luyện lại, cũng bị y như thế. Từ khi chàng
luyện cấp thứ nhất tới chỗ này, chưa bao giờ bị tình trạng như vậy. Chàng bỏ
qua mấy câu, luyện tiếp xuống dưới, lại thấy thuận lợi, nhưng được vài câu lại
gặp trở ngại. Từ đó về sau, trở ngại mỗi lúc một nhiều, tính ra tổng cộng có
tất cả mười chín câu không sao luyện được.
Trương Vô Kỵ trầm ngâm một hồi, để tấm da dê lên trên đống đá, cung kính
phục xuống, khấu đầu mấy lần, khấn: -Đệ tử Trương Vô Kỵ, vô tình tìm được
thần công tâm pháp của Minh giáo, chỉ vì mong thoát khỏi khốn cảnh tìm
đường sống, quả không có bụng ăn cắp bí tịch của quí giáo. Đệ tử sau khi
thoát khỏi hiểm cảnh rồi, sẽ nhất quyết đem thần công này tận lực giúp quí
giáo, không dám phụ lòng vun đắp và đại ân cứu mạng của liệt đại giáo chủ.
Tiểu Siêu cũng quì xuống lạy mấy lạy, hạ giọng khấn thêm: -Liệt đại giáo tông
ở trên, xin quí ngài phù hộ cho Trương công tử trung hưng Minh giáo, làm
sáng tỏ uy danh của liệt tổ.
Trương Vô Kỵ đứng thẳng lên nói: -Tôi đâu có phải là giáo đồ của Minh giáo,
theo lời giáo huấn của thái sư phụ tôi, trong tương lai sẽ không thể nào gia
nhập Minh giáo được. Thế nhưng sau khi tôi đọc di thư của Dương giáo chủ
rồi, biết được tông chỉ của Minh giáo thật là quang minh chính đại, nên thể
nào cũng kiệt tận sở năng, cố giải thích những chỗ hiểu lầm cho các đại môn
phái, xin hai bên đừng tranh chấp nữa.
Tiểu Siêu nói: -Trương công tử, công tử nói còn mười chín câu chưa luyện
xong, sao không nghỉ một lát, cho tinh thần sung túc, biết đâu chả luyện
được?
Trương Vô Kỵ nói: -Hôm nay tôi đã luyện thần công Càn Khôn Đại Na Di đến
cấp thứ bảy rồi, tuy phải bỏ qua mười chín câu, cũng có chút khuyết điểm
thực, nhưng cũng như bài hát của cô mới rồi:
Dù cho thiên địa nhường bao,
Cũng chưa toàn vẹn làm sao con người.
Có lẽ nào tôi không biết đủ, tham lam cốt được thật nhiều? Tôi có phúc trạch
công đức gì mà được thần công tâm pháp của Minh giáo? Để lại mười chín câu
không luyện, chính là hợp đạo lý đó.
Tiểu Siêu nói: -Công tử nói phải lắm.
Nàng cầm lấy tấm da dê, hỏi xem Vô Kỵ chỗ nào luyện chưa được, thầm nhẩm
lại mấy lần nhớ kỹ mười chín câu đó trong lòng. Trương Vô Kỵ cười hỏi: -Cô
nhớ để làm gì?
Tiểu Siêu má đỏ bừng, nói: -Chẳng làm gì cả. Cháu thấy công tử mà còn chưa
luyện được nên xem thử coi khó đến mức nào.
Có biết đâu Vô Kỵ là người không coi trọng chuyện gì cả, thấy phải dừng là
dừng, chính hợp với đạo “tri túc bất nhục” (biết đủ thì không phải chịu nhục)
của cổ nhân. Thì ra năm xưa vị cao nhân sáng chế Càn Khôn Đại Na Di này,
nội lực tuy mạnh thật, nhưng cũng chưa tới mức mạnh như Cửu Dương thần
công nên cũng chỉ tới cấp thứ sáu là hết. Tâm pháp ông ta viết trong cấp thứ
bảy, chính ông ta cũng chưa luyện tới, chỉ do thông minh trí tuệ, tưởng tượng
và biến hóa ra mà thôi. Mười chín câu Vô Kỵ luyện không thông, toàn là do vị
cao nhân tưởng tượng mà thêm vào, tưởng đúng mà thực ra không phải. Nếu
Trương Vô Kỵ là người có cái tâm cầu toàn, nhất định phải luyện cho kỳ được
mới thôi, ắt sẽ tẩu hỏa nhập ma ở cái cửa ải sau cùng này, chẳng khùng điên
si ngốc thì cũng toàn thân bại liệt, có khi còn đứt kinh mạch táng mạng không
chừng.
Hai người gom góp đất đá, chôn cất di thể hai vợ chồng Dương Đính Thiên
xong mới đi đến trước cánh cửa đá. Lần này Trương Vô Kỵ chỉ cần đưa tay
phải, để vào một bên cửa, theo đúng phép vận khí của Càn Khôn Đại Na Di
tâm pháp, hơi sử kình, phiến đá đã kêu kèn kẹt từ từ chuyển động. Chàng vận
thêm một phần sức lực nữa, cánh cửa chầm chậm mở ra.
Tiểu Siêu mừng quá, nhảy cẫng lên, vỗ tay khen ngợi, xích sắt ở tay chân
chạm vào nhau, lại kêu leng keng liên hồi. Trương Vô Kỵ nói: -Để tôi bứt sợi
dây xích lần nữa xem sao.
Tiểu Siêu cười đáp: -Lần này chắc là phải được.
Trương Vô Kỵ cầm sợi dây xích nối liền hai cánh tay nàng, vận kình kéo ra, dây
xích từ từ dài ra, nhưng vẫn không đứt. Tiểu Siêu kêu lên: -Ối chao, không ổn
rồi. Công tử càng kéo dài chừng nào, thì lại càng bất tiện chừng nấy.
Trương Vô Kỵ lắc đầu: -Cái dây xích này thật quái lạ, e rằng kéo dài đến mấy
chục trượng cũng vẫn chưa đứt.
Thì ra một đời giáo chủ Minh giáo trước đây tìm được một khối vẩn thạch quái
dị từ trên trời rơi xuống, trong đó có chứa chất liệu kim khí không như các loại
sắt thép khác, các thợ khéo trong Nhuệ Kim Kỳ liền thử đúc binh khí nhưng
không xong, nên rèn thành sợi dây xích này. Trương Vô Kỵ thấy Tiểu Siêu ủ rũ
nên an ủi cô ta: -Cô yên tâm, cứ tin rằng tôi thể nào cũng mở được xích này
cho cô. Chúng mình bị kẹt trong giữa chừng núi như thế này cũng còn ra
được, sá gì một sợi dây xích nhỏ?
Chàng muốn tìm Viên Chân báo cừu, quay trở lại cố đẩy hai tảng đá vạn cân
kia, tuy chàng đã luyện thành thần công, hai khối đá bị chàng đẩy có chuyển
động, nhưng vẫn không chịu mở ra. Chàng lắc đầu, cùng Tiểu Siêu đi trở lại lối
cửa đá.
Khi qua rồi, chàng quay lại đẩy cánh cửa đá lại như cũ, thấy tảng đá này nào
có phải là cửa đâu? Thực ra đó chỉ là một khối nham thạch thiên nhiên, dưới
dáy có chèn một quả cầu sắt lớn dùng như bản lề. Ngày tháng trôi qua, trái
cầu đó hoen rỉ nên khối nham thạch đó khó mà chuyển động. Chàng nghĩ đến
năm xưa Minh giáo kiến tạo địa đạo này, sử dụng vô số nhân lực, không biết
bao nhiêu năm tháng, bao công phu và tâm huyết.
Chàng tay cầm bản đồ bí đạo theo đúng đường mà đi, tuy ngoắt ngoéo nhiều
lối nhưng không phải mất công gì đã thoát ra được.
Vừa ra khỏi đường hầm thấy ánh sáng chói lòa chiếu vào mặt, hai người nhất
thời không mở mắt ra được. Qua một lúc sau, mới chầm chậm hé mắt ra, thấy
băng tuyết khắp nơi, ánh mặt trời phản lại nên mới càng thêm sáng chói như
thế. Tiểu Siêu thổi tắt cây đuốc trên tay, tại bãi tuyết đào một cái lỗ nhỏ chôn
cây đuốc xuống, nói: -Cây đuốc ơi là cây đuốc, đa tạ ngươi chiếu sáng cho
Trương công tử và ta ra khỏi đường hầm, nếu không có ngươi thì bọn ta không
thể nào làm được cái gì cả.
Trương Vô Kỵ cười ha hả, trong lòng thấy sảng khoái, chợt nghĩ lại: “Thế nhân
biết bao nhêu là kẻ vong ân phụ nghĩa, còn tiểu cô nương này đối với một cây
củi cũng còn như thế, ắt hẳn là người trung hậu trọng nghĩa”.
Chàng quay nhìn cô mỉm cười, ánh sáng từ băng tuyết hắt lên khuôn mặt cô
gái, thấy nàng da dẻ trắng trẻo, mịn màng như ngọc, nên buột miệng khen: –
Tiểu Siêu, cô đẹp quá.
Tiểu Siêu vui mừng nói: -Trương công tử, công tử không nói dối đấy chứ?
Trương Vô Kỵ nói: -Cô đừng giả vờ què chân, gù lưng làm thành quái dị nữa,
cứ như thế này thì đẹp biết bao.
Tiểu Siêu nói: -Công tử bảo cháu đừng giả vờ, cháu sẽ không giả vờ nữa. Tiểu
thư nếu muốn giết cháu, cháu cũng không giả vờ.
Trương Vô Kỵ nói: -Nói bậy nào. Cô có làm gì đâu mà đòi giết cô?
Chàng lại nhìn cô ta lần nữa, thấy nàng da dẻ trắng hồng, sống mũi hơi cao
hơn so với con gái bình thường, tròng mắt ẩn ẩn màu xanh của biển cả, liền
nói: -Cô là con gái bản địa Tây Vực, có phải không? So với con gái Trung
Nguyên chúng tôi, xem có phần đẹp hơn.
Tiểu Siêu hai lông mày hơi nhướng lên, nói: -Cháu chỉ muốn được giống như
con gái Trung Nguyên thôi.
Trương Vô Kỵ đi đến bên bờ đá, nhìn chung quanh, thì ra đang ở giữa lưng
chừng một chỏm núi. Khi trước chàng bị Thuyết Bất Đắc bỏ vào trong túi vải
vác chạy lên Quang Minh Đính, thành thử không nhận ra địa thế, chẳng biết
mình đang ở nơi đâu.
Trương Vô Kỵ đưa mắt nhìn bốn bề, thấy ở trên triền núi phía tây bắc có mấy
hình người nằm yên không cử động, dường như đã chết, liền nói: -Mình đến
đó xem thử coi thế nào.
Chàng cầm tay Tiểu Siêu, theo hướng sườn núi đó chạy tới. Lúc này chân khí
Cửu Dương thần công trong người lưu chuyển như ý, Càn Khôn Đại Na Di tâm
pháp lại luyện đến cấp thứ bảy, vừa giơ tay, vừa cất bước, người ngoài nhìn
thấy không nghĩ là sức người có thể làm được, tuy đã dắt thêm Tiểu Siêu,
nhưng thân thể vẫn nhẹ nhàng như một cánh én.
Khi đến gần, thấy có bốn người nằm chết trên mặt tuyết, máu me vương vãi
chung quanh, trên người ai cũng có dấu đao vết kiếm. Trong số đó ba người
mặc sắc phục Minh giáo giáo đồ, còn một người là tăng nhân, dường như đệ
tử phái Thiếu Lâm. Trương Vô Kỵ kinh hãi nói: -Không xong rồi. Mình bị kẹt
trong hang núi quá lâu, sáu đại môn phái đã đánh lên trên Quang Minh Đính
rồi.
Chàng sờ thử tâm khẩu cả bốn người thấy đều lạnh ngắt, hiển nhiên chết
cũng đã lâu. Vội vàng nắm tay Tiểu Siêu, theo dấu chân trên tuyết chạy lên.
Chạy được độ mươi trượng, lại thấy có bảy người chết trên mặt đất, trông thật
ghê rợn.
Trương Vô Kỵ cực kỳ bồn chồn, nói: -Chẳng biết bọn Dương Tiêu tiên sinh và
Bất Hối muội tử giờ này ra sao rồi?
Chàng càng chạy càng nhanh, tưởng như kéo Tiểu Siêu cùng bay vậy, qua một
khúc quẹo, thấy có năm giáo đồ Minh giáo bị treo trên cây, tất cả lộn đầu
xuống đất, mặt mũi người nào cũng nhầy nhụa máu me, dường như bị cào
nát. Tiểu Siêu nói: -Đây là bị Hổ Trảo Thủ của phái Hoa Sơn.
Trương Vô Kỵ lấy làm lạ: -Tiểu Siêu, cô tuổi còn nhỏ, kiến thức sao rộng đến
thế, ai dạy cho cô vậy?
Tuy chàng hỏi câu đó nhưng trong lòng khắc khoải chuyện an nguy trên
Quang Minh Đính, không đợi Tiểu Siêu trả lời, lại nắm tay cô tiếp tục chạy lên
núi. Trên đường thấy người chết nằm la liệt, phần lớn là giáo đồ Minh giáo,
nhưng đệ tử của lục đại môn phái cũng không phải là ít. Có lẽ chàng kẹt trong
hang núi một ngày một đêm, lục đại môn phái đã phát động mãnh công. Vì
những nhân vật trọng yếu như Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu trong Minh giáo đều
bị thương nặng, không ai chỉ huy nên lâm vào thế bất lợi, nhưng chúng giáo
đồ tuy ở vào thế lép nhưng vẫn kiệt lực chiến đấu không chịu khuất phục,
thành thử tổn thất hai bên đều cao.
Trương Vô Kỵ chạy đến đỉnh núi, nghe thấy tiếng binh khí chạm nhau, loảng
xoảng loảng xoảng thật là khốc liệt, trong lòng hơi yên tâm, nghĩ thầm: “Đánh
nhau vẫn chưa xong, lục đại môn phái chưa đánh được tới đại sảnh”. Vội vàng
theo hướng đánh nhau chạy tới.
Đột nhiên nghe vụt một tiếng, ở sau lưng có hai mũi cương tiêu ném tới, tiếp
theo có tiếng người quát: -Ai đó? Đứng lại.
Trương Vô Kỵ chân không chậm lại, tay vẫy ngược một cái, hai mũi cương tiêu
lập tức quay đầu, chỉ nghe một tiếng “A” thảm thiết, tiếp theo bình một tiếng,
có người nào đó đã ngã lăn xuống đất. Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, quay đầu
nhìn, thấy nằm trên đất là một nhà sư mặc tăng bào màu xám, hai mũi cương
tiêu cắm vào đầu vai y. Chàng ngẩn người, không ngờ chỉ vẫy tay một cái,
những tưởng chỉ đánh giạt thế bay đến của cương tiêu khỏi trúng người mình,
đâu ngờ phẩy tay nhẹ nhàng như thế mà uy lực cũng không phải tầm thường.
Chàng vội vàng chạy đến xuýt xoa nói: -Tại hạ lỡ tay làm đại sư bị thương,
thật là đắc tội.
Giơ tay rút mũi cương tiêu ra. Vai nhà sư Thiếu Lâm máu chảy vọt ra, nhưng
không ngờ ông ta thật là dữ tợn, giơ chân đá một cái, nghe bình một tiếng,
trúng ngay bụng dưới Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ cùng y đứng thật gần
nhau, không ngờ ông ta bất ngờ ra tay tấn công, chàng vừa ngẩn người thì
tăng nhân kia đã bay vọt trở ra, lưng đụng phải một thân cây, chây trái gãy lìa,
miệng hộc máu tươi. Trương Vô Kỵ lúc này trong cơ thể chân khí lưu chuyển,
mỗi khi có ngoại lực lập tức sinh phản kích, không khác gì hôm nào chấn gãy
đùi của Tĩnh Huyền, nhưng lực đạo bây giờ mạnh hơn nhiều.
Chàng thấy nhà sư đó bị trọng thương, lòng không an, chạy lên đỡ dậy luôn
mồm xin lỗi. Tăng nhân đó hậm hực nhìn chàng, vừa căm tức vừa sợ hãi, tuy
có ý muốn xuất chiêu tấn công nhưng không còn hơi sức nào nữa. Bỗng nghe
từ trong tường vọng ra mấy tiếng ằng ặc, Trương Vô Kỵ không còn thì giờ nào
lo cho nhà sư kia, vội cầm tay Tiểu Siêu, theo đại môn chạy vọt vào, xuyên qua
hai sảnh đường, trước mắt là một cái sân lớn.
Trong sân người đứng đen kịt nhưng phía tây thì ít hơn, mười người thì đến
tám máu me lênh láng, kẻ ngồi kẻ nằm, là phe Minh giáo. Còn phía đông người
nhiều gấp bội, chia thành sáu nhóm, thành thế bao vây phe Minh giáo lại. Xem
ra cả sáu đại môn phái đã có mặt đầy đủ. Trương Vô Kỵ chỉ mới liếc qua đã
thấy Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Bành hòa thượng, Thuyết Bất Đắc cả bọn đều
ngồi trong đám giáo đồ Minh giáo, xem ra đều cử động khó khăn. Dương Bất
Hối ngồi bên cạnh phụ thân.
Trong sân có hai người đang giao đấu, mọi người chú tâm vào trận đánh nên
Trương Vô Kỵ và Tiểu Siêu tiến vào chẳng một ai lưu tâm. Trương Vô Kỵ dần
dần xích lại gần hơn, định thần nhìn kỹ, thấy hai người đều tay không, nhưng
chưởng phong kêu vù vù, uy lực bao trùm mấy trượng, hiển nhiên cả hai đều
là cao thủ tuyệt đỉnh. Hai người thân hình chuyển động, ra chiêu thật nhanh,
đột nhiên bốn chưởng đụng nhau, lập tức hai bên đều bất động, chỉ trong
nháy mắt, từ một cảnh vũ động huyền ảo biến thành lặng như tờ. Những
người đứng chúng quanh đều cùng kêu lên: -Hay thật.
Trương Vô Kỵ bấy giờ nhìn rõ diện mạo hai người, trong lòng chấn động. Thì ra
người tuổi trạc trung niên, thân hình bé nhỏ, nét mặt cương nghị kia chính là
tứ hiệp Trương Tùng Khê của phái Võ Đương. Đối thủ của ông ta là một ông
già đầu hói cao to, mi dài trắng như tuyết, rủ xuống một bên khóe mắt, mũi
khoằm khoằm trông như mỏ chim diều hâu. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Không
ngờ Minh giáo lại có một cao thủ cỡ này, chẳng biết ai đây?”.
Bỗng nghe từ trong phía phái Hoa Sơn có người kêu lên: -Này lão già Bạch Mi
kia, mau nhận thua đi thôi, ngươi làm sao có thể đối địch được với Trương tứ
hiệp của phái Võ Đương?
Trương Vô Kỵ nghe thấy “lão già Bạch Mi” trong lòng chấn động: “A, thì ra
người này … người này … người này chính là ông ngoại ta Bạch Mi Ưng
Vương”. Chàng trong bụng nảy ra một mối trìu mến thiết tha, muốn chạy lên
ngay để nhận người thân.
Trên đỉnh đầu Trương Tùng Khê và Ân Thiên Chính đều có hơi nóng bốc lên,
hai người trong giây lát đã đem tất cả nội gia chân lực bình sinh khổ luyện ra
sử dụng. Một người là giáo chủ Thiên Ưng giáo, một trong tứ đại Hộ Giáo pháp
vương, một người là đệ tử đắc ý của Trương Tam Phong, đứng trong Võ
Đương thất hiệp uy chấn thiên hạ, xem ra chỉ trong giây lát ai thắng ai bại sẽ
biết ngay.
Cả Minh giáo lẫn người trong lục đại môn phái ai ai cũng nín thở đứng xem, lo
cho người của phe mình, biết rằng cuộc đấu này, không phải chỉ là uy danh
Minh giáo và phái Võ Đương mà là một cuộc thi chân lực, người thua có thể
mất mạng như chơi. Hai người bây giờ như hai tượng đá, ngay cả tóc và áo
quần cũng không lay động chút nào.
Ân Thiên Chính thần uy lẫm lẫm, hai mắt lấp lánh như điện, còn Trương Tùng
Khê thì sử dụng yếu chỉ tâm pháp của phái Võ Đương, lấy nhàn nhã chống
nhọc mệt, lấy tĩnh chế động, thủ vệ cực kỳ nghiêm mật. Ông biết Ân Thiên
Chính lớn hơn mình đến hai mươi tuổi, nội lục tu luyện cao thâm hơn hai mươi
năm, nhưng mình thì đang lúc trai tráng sức lực dồi dào, còn đối phương niên
kỷ đã cao thể chất suy yếu, càng giữ được lâu chừng nào, càng có cơ thắng
thế.
Nào ngờ Ân Thiên Chính là một kỳ nhân trong võ lâm, tuổi tác tuy lớn nhưng
tinh lực không kém gì khi còn trẻ, nội kình vẫn như sóng biển, liên miên bất
tuyệt hết đợt này đến đợt khác, theo song chưởng ào ào tấn công Trương
Tùng Khê.
Trương Vô Kỵ khi mới thấy Trương Tùng Khê và Ân Thiên Chính trong lòng
mừng rỡ, nhưng lập tức vui biến thành lo, một người là ông ngoại mình, có
tình máu mủ; một người là sư huynh của phụ thân, đối với chàng cũng chẳng
khác gì con ruột, năm xưa khi bị trúng Huyền Minh thần chưởng, chư hiệp
phái Võ Đương không ai ngại tiêu hao nội công, tận tâm kiệt lực chữa bệnh
cho mình. Nếu một trong hai người có ai bị thương hay chết, trong lòng chàng
không khỏi cực kỳ hối tiếc.
Trương Vô Kỵ hơi trầm ngâm, đang định tìm cách tiến lên sách giải, bỗng nghe
Trương Tùng Khê và Ân Thiên Chính cùng quát lên một tiếng, bốn chưởng
phát lực, hai người cùng lui về sáu bảy bước.
Trương Tùng Khê nói: -Ân lão tiền bối thần công trác tuyệt, bội phục bội phục.
Ân Thiên Chính cũng cất tiếng vang vang như chuông, nói: -Công phu tu luyện
nội gia của Trương huynh siêu phàm nhập thánh, lão phu tự thẹn không sao
bằng được. Các hạ là đồng môn sư huynh của tiểu tế, không lẽ hôm nay phải
nhất quyết phân thắng bại mới xong hay sao?
Trương Vô Kỵ nghe thấy ông đề cập đến cha mình, nước mắt lập tức trào ra,
trong bụng không ngớt kêu thầm: “Thôi đừng đánh nhau nữa, đừng đánh
nữa”.
Trương Tùng Khê nói: -Vừa rồi vãn bối lùi nhiều hơn một bước, đã thua nửa
chiêu rồi.
Nói rồi khom mình vái chào, thần định khí nhàn lui xuống. Đột nhiên từ phái Võ
Đương một hán tử chạy ra, chỉ vào Ân Thiên Chính giận dữ nói: -Lão họ Ân,
ông không đề cập đến Trương ngũ ca của tôi thì không nói. Hôm nay nhắc đến
chỉ càng làm cho chúng tôi thêm tức tối. Du tam ca và Trương ngũ ca hai
người của chúng tôi, đều bị hại vì tay Thiên Ưng giáo cả, thù này không báo,
thật uổng cho Mạc Thanh Cốc này mang cái tên Võ Đương thất hiệp.
Nghe soẹt một tiếng, trường kiếm đã rút ra khỏi vỏ, ánh mặt trời chiếu vào lấp
lánh, theo tư thức Vạn Nhạc Triều Tông[5]. Đây là thế khởi đầu của đệ tử phái
Võ Đương mỗi khi động thủ quá chiêu với trưởng bối, Mạc Thanh Cốc tuy lửa
giận bừng bừng, nhưng dẫu sao cũng vẫn là một cao thủ võ lâm có danh
phận, trước cảnh bao người đổ dồn vào mình, nhất cử nhất động vẫn không
để cho khiếm lễ.
Ân Thiên Chính thở dài một tiếng, trên mặt thoáng vẻ u buồn, chậm rãi nói: –
Lão phu từ khi tiểu nữ qua đời rồi, không muốn sử dụng đao kiếm nữa. Thế
nhưng nếu tay không động thủ quá chiêu với Võ Đương chư hiệp thì quả thực
là đại bất kính.
Ông chỉ vào một giáo đồ Minh giáo tay cầm thiết côn nói: -Cho ta mượn cây
gậy một chút.
Tên giáo đồ cầm ngang cây côn tề mi bằng thép đúc, khom lưng cung kính
dâng lên. Ân Thiên Chính tiếp lấy thiết côn, hai tay bẻ một cái, nghe cắc một
tiếng, cây gậy sắt đã gãy làm đôi.
Nhừng người chung quanh đứng xem đều “Chà” một tiếng, không ngờ ông già
sau khi chiến đấu lâu, vẫn còn thần lực kinh người như thế. Mạc Thanh Cốc
biết ông ta không ra chiêu trước, trường kiếm vung lên, sử chiêu Bách Điểu
Triều Phượng tấn công. Chỉ thấy mũi kiếm rung động không ngừng, trong giây
lát biến thành hàng mấy chục lưỡi kiếm đâm vào trung bàn đối phương, chiêu
này tuy lợi hại thật nhưng vẫn là một kiếm pháp đầy lễ nghĩa.
Cây gậy bên trái của Ân Thiên Chính liền chặn ngang, nói: -Mạc thất hiệp
không phải khách khí.
Cây gập phía bên phải liền đánh tiếp tới. Hai bên qua lại mấy chiêu, những
người chung quanh ai nấy đều rúng động. Kiếm pháp Mạc Thanh Cốc thì nhẹ
nhàng linh hoạt, ánh sáng lấp lánh như cầu vồng, mỗi khi bung ra thu lại, vừa
ngưng trọng, vừa tiêu dật quả đúng là phong phạm của bậc danh gia. Còn hai
thanh thiết côn của Ân Thiên Chính vốn dĩ nặng nề chậm chạp, chiêu số cũng
sơ sài tầm thường, đánh đông một cái, đập tây một cái, chẳng thành bài bản
gì, nhưng những nhân sĩ hiểu biết rộng, biết ông sử dụng đường lối đại trí
nhược ngu, đại xảo nhược chuyết[6] là một cảnh giới cực cao thâm của võ
học.
Bước chân của ông ta di động cũng hết sức chậm chạp, trong khi đó Mạc
Thanh Cốc lúc vọt lên cao, khi rùn xuống thấp, lúc chạy bên đông, khi lách bên
tây chỉ trong thời gian uống một chén trà đã tung ra liên tiếp sáu mươi chiêu
sát thủ thật là ghê gớm.
Hai bên tiếp tục đấu thêm vài chục hiệp nữa, kiếm chiêu của Mạc Thanh Cốc
mỗi lúc một nhanh. Các phái Côn Lôn, Nga Mi đều lấy kiếm pháp làm chủ, các
đệ tử thấy thanh kiếm trong tay Mạc Thanh Cốc biến hóa như thế, trong bụng
ai cũng khâm phục: “Kiếm pháp phái Võ Đương quả nhiên danh bất hư truyền,
hôm nay mới được mở tầm mắt”. Thế nhưng dù chàng chặt đâm chém kéo
cách nào cũng vẫn không sao tấn công qua khỏi hai thanh côn nghiêm thủ của
Ân Thiên Chính. Mạc Thanh Cốc nghĩ thầm: “Lão già này liên tiếp đánh bại ba
cao thủ của Hoa Sơn, Thiếu Lâm, lại đấu nội lực với tứ ca, ta là người thứ năm
đấu với ông ta, thực là được lợi nhiều lắm, nếu không thắng nổi, thể diện sư
môn còn tồn tại làm sao được?”.
Chàng hú lên một tiếng thanh thoát, kiếm pháp đột nhiên biến đổi, thanh
trường kiếm biến thành như một sợi dây lưng, vừa nhẹ vừa mềm lúc cong lúc
thẳng phiêu hốt bất định, chính là bảy mươi hai chiêu Nhiễu Chỉ Nhu Kiếm của
phái Võ Đương.
Những người chung quanh xem đến chiêu thứ mười hai, mười ba, đều không
nhịn nổi cùng lên tiếng khen hay. Lúc này Ân Thiên Chính không còn có thể
tiếp tục giữ phương cách vụng về chống lại xảo diệu, mà phải chạy vùn vụt,
thi triển khinh công lấy nhanh chống nhanh. Đột nhiên trường kiếm của Mạc
Thanh Cốc bay vụt ra đâm thẳng vào ngực Ân Thiên Chính, kiếm đang đi giữa
chừng, mũi kiếm hơi rung động, đã cong lại, đâm xéo vào vai bên phải đối
phương. Lộ Nhiễu Chỉ Nhu Kiếm này toàn dựa vào nội lực hồn hậu uốn cong
mũi kiếm, khiến cho kiếm chiêu biến đổi vô thường, địch nhân khó mà tránh
né. Ân Thiên Chính chưa từng thấy kiếm pháp này bao giờ, vội vàng hạ vai
xuống tránh né, không ngờ nghe keng một tiếng nhỏ, thanh kiếm bật trở lại,
đâm thẳng vào cánh tay bên trái. Ân Thiên Chính vươn tay phải ra, không hiểu
làm cách nào, cánh tay dài thêm nửa thước, phất vào cổ tay Mạc Thanh Cốc,
đoạt luôn thanh trường kiếm, đồng thời tay trái đã ấn vào huyệt Kiên Trinh.
Ưng Trảo Cầm Nã Thủ của Bạch Mi Ưng Vương là nhất tuyệt của võ lâm trong
khoảng một trăm năm nay, đương thế không ai có thể sánh kịp. Đầu vai của
Mạc Thanh Cốc đã bị ông ta nắm được, năm ngón tay chỉ cần vận kình, vai của
Mạc Thanh Cốc sẽ nát vụn, chung thân tàn phế. Chư hiệp phái Võ Đương giật
mình kinh hãi, toan xông ra tương trợ nhưng thế không kịp nữa rồi.
Ân Thiên Chính thở dài một tiếng, nói: -Nhất chi vi thậm, kỳ khả tái hồ?[7]
Ông buông tay ra, tay phải thu về rút thanh kiếm ra, vết thương trên cánh tay
máu chảy ra như suối. Ông ngưng thần nhìn vào thanh kiếm một hồi, nói: -Lão
phu tung hoành nửa đời trong thiên hạ, chưa từng thua ai nửa chiêu một
thức. Trương Tam Phong hay thật, Trương chân nhân giỏi thật.
Ông ca ngợi Trương Tam Phong vì khâm phục ông đã sáng chế bảy mươi hai
chiêu Nhiễu Chỉ Nhu Kiếm thần diệu khôn lường, chính mình không sao né
tránh nổi.
Mạc Thanh Cốc đứng xuất thần tại đương trường, bản thân tuy thắng trước
một chiêu, nhưng đối phương rõ ràng cố ý không hạ sát thủ tổn thương đến
mình, ngơ ngẩn một lát rồi nói: -Cảm ơn tiền bối thủ hạ lưu tình.
Ân Thiên Chính không nói một lời, đem trường kiếm giao trả lại chàng. Mạc
Thanh Cốc tinh cứu kiếm pháp, vậy mà để đến nỗi binh khí trong tay bị người
ta lấy mất, thẹn thùng không để đâu cho hết, không nhận thanh kiếm vội lui
về.
Trương Vô Kỵ xé vội một mảnh áo, đang định tiến lên băng bó cho ông ngoại,
bỗng thấy từ phái Võ Đương bước ra một người, râu đen dài tới ngực, chính là
Tống Viễn Kiều đứng đầu Võ Đương thất hiệp. Tống Viễn Kiều nói: -Xin để tại
hạ băng bó cho lão tiền bối.
Từ trong bọc lấy ra kim sang, đắp lên vết thương cho Ân Thiên Chính, rồi lấy
khăn buộc lại. Thiên Ưng giáo và Minh giáo thấy Tống Viễn Kiều mặt đầy chính
khí, nghĩ rằng ông ta là người đứng đầu trong Võ Đương thất hiệp, không thể
nào công nhiên hạ độc gia hại bên mình. Ân Thiên Chính nói một tiếng: -Đa tạ.
Mặt vẫn thản nhiên không nghi ngờ gì. Trương Vô Kỵ mừng lắm, nghĩ thầm:
“Tống sư bá băng bó vết thương cho ông ngoại ta, chắc là vì cảm kích ông
không giết Mạc thất thúc, hai bên chắc có thể giao hảo với nhau”.
Tống Viễn Kiều băng bó vết thương xong, lùi lại một bước, phất tay áo một
cái, nói: -Tống mỗ xin lãnh giáo cao chiêu của lão tiền bối.
Câu nói đó quả thật ngoài sở liệu của Trương Vô Kỵ khiến chàng nhịn không
nổi phải kêu lên: -Tống đại … Tống đại hiệp, dùng xa luân chiến đánh một
người già, không công bình tí nào cả.
Câu đó nói ra ai nấy đều quay lại nhìn thanh niên áo quần lam lũ. Trừ phái Nga
Mi, cùng với Tống Thanh Thư, Ân Lê Đình, Dương Tiêu, Thuyết Bất Đắc một số
ít người, không ai biết lại lịch của chàng ra sao, không khỏi ngạc nhiên.
Tống Viễn Kiều nói: -Vị tiểu bằng hữu kia nói vậy đúng lắm. Oán thù riêng giữa
Thiên Ưng giáo và phái Võ Đương, hôm nay tạm không đề cập đến. Hiện giờ là
lục đại môn phái và Minh giáo một trận sinh tử mất còn, phái Võ Đương đứng
ra thách đấu với Minh giáo.
Mắt Ân Thiên Chính từ từ lướt qua một vòng, thấy Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu,
Bành hòa thượng cả bọn ai nấy đều tê liệt bất động, còn những cao thủ của
Thiên Ưng giáo và Ngũ Hành Kỳ ai không chết thì cũng bị thương, chính con
trai mình là Ân Dã Vương cũng hôn mê nằm dưới đất, sống chết chưa biết thế
nào, trong cả Minh giáo lẫn Thiên Ưng giáo ngoài mình ra, không một ai có thể
chống đỡ nổi quyền chiêu kiếm pháp của Tống Viễn Kiều. Thế nhưng mình đã
liên tiếp đánh với năm cao thủ, chân khí không còn tinh thuần như trước, lại
thêm vết thương trên tay cũng không phải là nhẹ.
Ân Thiên Chính còn đang suy tính, bỗng nghe một lão già thấp bé trong phái
Không Động lớn tiếng nói: -Ma giáo dĩ nhiên thua sạch sành sanh rồi, không
đầu hàng còn đợi gì nữa? Không Trí đại sư, bọn mình lên phá hủy bài vị của ba
mươi ba đời giáo chủ là vừa.
Phương trượng chùa Thiếu Lâm Không Văn đại sư ở lại trấn thủ bản viện Tung
Sơn, lần này vây đánh Quang Minh Đính, đệ tử phái Thiếu Lâm do Không Trí
đại sư cầm đầu. Các phái kính trọng địa vị và tên tuổi của phái Thiếu Lâm, nên
cử ông ta làm người chỉ huy ra lệnh trong chuyến tấn công Quang Minh Đính
này.
Không Trí chưa kịp trả lời, từ phái Hoa Sơn một người nói: -Cái gì mà đầu hàng
với chả không đầu hàng? Tất cả bọn ma giáo hôm nay không để một tên nào
sống sót. Nhổ cỏ phải nhổ sạch cả rễ, nếu không mai này chúng nó lại nổi lên
làm hại giang hồ. Bọn chó má kia, khôn hồn thì mau mau tự vẫn để khỏi mất
công chúng ông ra tay.
Ân Thiên Chính ngầm vận khí, thấy vết thương trên vai đâm sâu tới xương,
đau ngâm ngẩm từng chập, biết rằng Tống Viễn Kiều theo học Trương Tam
Phong lâu hơn cả, thâm đắc chân truyền của vị võ học đại tông sư, mình khi
còn khí lực tinh thần đầy đủ đấu với ông ta, cũng chưa biết mèo nào cắn mỉu
nào, huống chi lúc này?
Thế nhưng các cao thủ Minh giáo kẻ chết người bị thương, chỉ còn một mình
mình chủ trì đại cuộc, thôi đành hi sinh cái mạng già, mình chết không có gì
buồn, hận là một đời anh danh hôm nay đành dứt.
Tống Viễn Kiều nói: -Ân lão tiền bối, phái Võ Đương và Thiên Ưng giáo cừu
thâm tự hải, nhưng chúng tôi không muốn nhân lúc người ta lâm nguy,
chuyện này thôi để ngày sau thanh toán. Sáu môn phái hôm nay đến đây là vì
Minh giáo, Thiên Ưng giáo đã tách ra khỏi Minh giáo rồi, tự lập môn hộ, trên
chốn giang hồ ai ai cũng biết cả. Ân lão tiền bối hà tất phải trộn chung vào
trong vụ này làm gì? Xin cùng tất cả người trong quí giáo hạ sơn đi.
Phái Võ Đương vì vụ Du Đại Nham kết một mối oán thù thật sâu cùng Thiên
Ưng giáo, việc này các phái đều biết, bây giờ nghe thấy Tống Viễn Kiều mở
đường cho Thiên Ưng giáo có lối thoát, ai nấy hết sức lạ lùng, nhưng hiểu
ngay Tống Viễn Kiều quang minh lỗi lạc, không muốn chiếm lợi thế trong lúc
này.
Ân Thiên Chính cười ha hả, nói: -Hảo ý của Tống đại hiệp, lão phu xin tâm
lãnh. Lão phu là một trong tứ đại hộ giáo pháp vương, tuy đã lập thành môn
hộ riêng, nhưng Minh giáo gặp nạn, đâu có thể nào đứng ngoài? Hôm nay chỉ
còn cái chết mà thôi, xin Tống đại hiệp tiến chiêu đi.
Nói xong tiến tới một bước, hai bàn tay thủ thế trước ngực, đôi lông mày trắng
hơi rung động, trông thật uy võ. Tống Viễn Kiều nói: -Nếu đã thế, xin đắc tội.
Nói xong tay trái đưa ra, chưởng phải áp vào lòng bàn tay, dùng chiêu Thỉnh
Thủ Thức đánh ra, là chiêu số của hậu bối đánh với tiền bối trong quyền pháp
của phái Võ Đương.
Ân Thiên Chính thấy ông ta hơi khom lưng cúi mình, có dáng vái chào liền nói:
-Không phải khách khí.
Nói xong hai tay vòng lại, thủ tại tâm khẩu. Cứ theo quyền lý, Tống Viễn Kiều
ắt sẽ tiến lên, vươn tay đánh ra, nào ngờ ông ta quả có đánh ra, nhưng lại
không tiến về trước. Quyền đó đánh ra, còn cách Ân Thiên Chính đến hơn một
trượng. Ân Thiên Chính kinh hãi: “Không lẽ quyền thuật phái Võ Đương lợi hại
đến thế sao, đã luyện được Cách Sơn Đả Ngưu thần công chăng?”. Ông không
dám chậm trễ, vận nội kình lên, tay phải vung ra để gạt quyền lực của Tống
Viễn Kiều.
Không ngờ chưởng gạt ra, trước mặt chỉ thấy trống không, không hề đụng
phải kình lực nào, trong lòng không khỏi lạ lùng. Lại nghe Tống Viễn Kiều nói: –
Đã ngưỡng mộ võ học cao thâm của tiền bối từ lâu, gia sư vẫn thường ca
ngợi. Thế nhưng lúc này tiền bối đã đấu với mấy người liền, vãn bối vẫn còn
nguyên sức lực, giao đấu với nhau thì không công bình chút nào. Thôi mình
chỉ so sánh chiêu số, không tỉ sức lực.
Ông vừa nói vừa giơ chân đá ra. Cú đá đó cũng chỉ là hư chiêu, còn cách đối
phương hơn một trượng nhưng cước pháp tinh diệu, phương vị lạ lùng, quả
thực không ai ngờ nổi, nếu như công kích gần bên, quả thực cực kỳ khó chống
đỡ. Ân Thiên Chính khen ngợi: -Hảo cước pháp.
Lấy công làm thủ, múa chưởng tấn công. Tống Viễn Kiều nghiêng người né
tránh, trả lại một chưởng. Trong giây lát hai người đánh qua đá lại, đấu cực kỳ
hăng hái, nhưng lúc nào cũng vẫn cách nhau hơn một trượng. Tuy chiêu
không đụng tới người, toàn là đánh hờ cả, nhưng hai người đều có danh phận,
một chiêu nào thất lợi, chiêu nào trội hơn đều tự mình biết cả. Hai người cùng
hết tâm hết sức, không dám sơ sẩy chút nào, chẳng khác gì giao đấu đụng
chạm thực sự.
Người đứng chung quanh không ít những võ học cao thủ, thấy Tống Viễn Kiều
dùng phương pháp nhu khắc cương, quyền cước tung ra thực là nhanh, còn
Ân Thiên Chính lúc mở lúc đóng, chiêu số lấy cương làm chủ, nhưng cũng
không chậm hơn chút nào. Hai người theo chiêu mà đỡ gạt, khi thủ khi công,
tưởng như đang luyện quyền, đánh hờ với nhau nhưng thực ra là đang đấu rất
kịch liệt.
Trương Vô Kỵ khi trước thấy Ân Thiên Chính đấu với Trương Tùng Khê và Mạc
Thanh Cốc, vì quan hoài an nguy của cả hai bên thân thuộc, nên không chăm
chú quan sát chiêu số, lúc này thấy Tống Viễn Kiều và Ân Thiên Chính hai
người đứng xa xa đấu với nhau, biết rằng chỉ có chuyện phân thắng bại, chứ
không có hiểm nguy sống chết nên hết sức quan sát chiêu số của hai người.
Xem một lúc thấy hai người ra chiêu mỗi lúc một nhanh, nhưng càng coi lại
càng không hiểu tại sao: “Ông ngoại ta và Tống đại sư bá đều là cao thủ hạng
nhất trong võ lâm, nhưng chiêu số đánh ra sao vẫn còn có nhiều sơ hở như
thế? Quyền này của ông ngoại đánh xéo về bên trái nửa thước, không phải là
trúng ngay ngực Tống đại bá hay sao? Còn trảo kia của Tống đại bá nếu chậm
lại một chút, có phải chộp được cánh tay ông ngoại ta rồi ư? Không lẽ hai
người cố ý nhường nhau? Thế nhưng xem tình hình thì dường như không phải
vậy”.
Thực ra Ân Thiên Chính và Tống Viễn Kiều tuy đấu với nhau không đụng
chạm, chiêu số không nhường nhau chút nào. Trương Vô Kỵ học được Càn
Khôn Đại Na Di tâm pháp rồi, công phu võ học so với hai người cao hơn một
bậc. Thành thử chàng nhìn thấy chiêu số của Ân, Tống hai người có những sơ
hở cũng không có gì lạ.
Trương Vô Kỵ có biết đâu rằng chàng vì có Cửu Dương thần công thành thử
mới nhìn ra được những chiêu số để có thể khắc chiêu thắng địch nhưng
Tống, Ân hai người vì tài nghệ chưa đến mức đó nên không thể nào nghĩ đến
chỗ tinh diệu như thế được. Việc đó cũng chẳng khác gì một con chim bay
trên cao nhìn thấy con sư tử đánh nhau với con hổ, không thể không nghĩ
rằng: “Sao không bay từ trên cao chụp xuống có phải thắng được rồi ư?” Có
biết đâu tuy sư tử và hổ báo dẫu là những con vật hung tợn mạnh bạo đứng
đầu trong các loài thú nhưng cũng không thể nào bay từ cao nhào xuống
được. Trương Vô Kỵ kiến thức chưa đủ nên không nghĩ ra nguyên nhân này.
Bỗng thấy Tống Viễn Kiều chiêu số biến đổi, song chưởng phi vũ tưởng như
những bông tuyết bay phất phới mềm mại không một chút lực khí chính là
Miên Chưởng của phái Võ Đương. Ân Thiên Chính quát lên một tiếng, đánh ra
một quyền. Hai người một bên chí nhu, một bên chí cương đều thi triển tuyệt
kỹ của mình. Hai bên sắp gặp nhau, Tống Viễn Kiều chưởng trái đánh ra, còn
chưởng phải đánh sau mà tới trước, kế đến chưởng trái xéo xuống, lại từ sau
tiến lên. Ân Thiên Chính thấy cả nửa người trên của mình bị chưởng thế của
Tống Viễn Kiều bao phủ, rống lên một tiếng, song chưởng đánh ra một chiêu
Đinh Giáp Khai Sơn. Hai bên song chưởng song quyền, đều giơ ra trên không,
cùng đứng như trời trồng. Hai người sách đến chiêu này, trừ việc tỉ đấu nội lực
không còn cách nào khác. Thế nhưng hai người còn cách nhau đến hơn một
trượng, bốn cánh tay chỉ hư đấu mà thôi, trông thì có vẻ quái lạ, nhưng nếu
đứng gần nhau thì đây là lúc hung hiểm hơn cả.
Tống Viễn Kiều mỉm cười, thu chưởng nhảy về sau nói: -Quyền pháp của lão
tiền bối thực là tinh diệu, bội phục bội phục.
Ân Thiên Chính cũng thu quyền lại, nói: -Quyền pháp của phái Võ Đương quả
nhiên quán tuyệt cổ kim.
Hai người không tỉ đấu nội lực, đấu đến lúc này không còn cách gì có thể tiếp
tục, coi như hai bên hòa nhau. Phái Võ Đương tuy còn Du Liên Châu và Ân Lê
Đình chưa ra đấu, nhưng thấy mặt Ân Thiên Chính đỏ bừng, trên đầu nhiệt khí
bốc lên, biết cuộc đấu vừa qua tuy không hao tổn nội lực, nhưng đối thủ quá
cao cường nên cũng phải kiệt tận tâm trí, thấy tình cảnh ông ta như chiếc
cung đã giương quá đà, Ân Du dù ai tiến ra thách đấu cũng đều có thể đánh
ngã được, được cái tiếng “đánh bại Bạch Mi Ưng Vương”. Du Liên Châu và Ân
Lê Đình hai người nhìn nhau, đều lắc đầu, nghĩ thầm: “Nhân lúc người ta đang
nguy mà tấn công, có thắng cũng không phải là thượng võ”.
Thế nhưng Võ Đương nhị hiệp không “thừa nhân chi nguy” nhưng người khác
đâu phải ai cũng có phong phạm quân tử như thế. Từ phái Không Động một
lão già bé nhỏ nhảy vọt ra, chính là kẻ mới rồi hô hoán lên đốt bài vị giáo chủ
Minh giáo, nhẹ nhàng rớt ngay trước mặt Ân Thiên Chính, nói: -Ta họ Đường
muốn đấu chơi với lão Ân.
Giọng nói của y cực kỳ hỗn láo. Ân Thiên Chính liếc một cái, hừ một tiếng, nghĩ
thầm: “Lúc bình thường, Ân mỗ có coi Không Động ngũ lão ra gì đâu? Hôm
nay hổ xuống đồng bằng đến con chó cũng lờn mặt, một đời anh danh của ta,
nếu có chết dưới tay Võ Đương thất hiệp cũng còn được nhưng quyết không
thể để cho tên khốn nạn Đường Văn Lượng này được cái danh đó”. Tuy toàn
thân xương cốt đã nhão nhừ, chỉ muốn nằm lăn ra ngủ một giấc, nhưng hào
khí trong người bùng lên, đôi lông mày trắng xóa dựng lên, quát lớn: -Thằng
nhãi kia, tiến chiêu đi.
Đường Văn Lượng biết ông ta nội lực mười phần tiêu hao đến tám chín, chỉ
cần đấu một hồi, không cần ra tay đối phương cũng tự ngã xuống, xoa tay
một cái, chui tọt ra sau lưng Ân Thiên Chính, phát quyền đánh vào sau lưng.
Ân Thiên Chính nghiêng người đánh ngược lại, Đường Văn Lượng lập tức nhảy
lùi ra, chân y thật là nhanh nhẹn chẳng khác gì một con khỉ, nhảy nhót không
ngừng. Đấu được vài hiệp, Ân Thiên Chính thấy mắt tối sầm, cổ họng mằn
mặn, một ngụm máu tươi vọt ra, đứng không vững, ngã chúi xuống.
Đường Văn Lượng mừng rỡ, quát lên: -Ân Thiên Chính, hôm nay cho ngươi
chết dưới quyền của Đường Văn Lượng này.
Trương Vô Kỵ thấy Đường Văn Lượng nhảy lên, từ trên cao đánh xuống, đang
toan nhảy ra cứu ông ngoại mình, thấy Ân Thiên Chính tay phải đánh chéo lên,
tư thế thực đẹp, chính là sát thủ đối phó với kẻ địch tấn công từ trên xuống,
hai người gần nhau như thế, xem ra Đường Văn Lượng không còn cách nào tự
cứu. Quả nhiên chỉ nghe lách cách hai tiếng, hai cánh tay Đường Văn Lượng
đã bị Ân Thiên Chính thi triển Ưng Trảo Cầm Nã Thủ bẻ gẫy, lại lách cách hai
tiếng nữa, hai xương đùi cũng gãy luôn, nghe bình một tiếng, văng ra ngoài
mấy thước. Bốn tay chân y bị gãy rồi không sao cử động được nữa. Những
người chung quanh thấy Ân Thiên Chính bị thương nặng mà còn thần uy như
thế, không ai là không kinh ngạc.
Lão thứ ba trong ngũ lão bị thảm bại như thế, phái Không Động người nào
người nấy mặt mày xám ngắt, thấy Đường Văn Lượng nằm bên Ân Thiên
Chính nhưng vì khoảng cách quá gần, không một ai dám chạy lên đỡ y về.
Một lúc sau, một gã cao to lưng còng trong phái Không Động hung hăng tiến
lên một bước, chân phải hất một hòn đá về phía Ân Thiên Chính, mồm nói: –
Lão Bạch Mi, họ Tông này lên thanh toán món nợ cũ.
Tên này là người thứ hai trong Không Động ngũ lão, tên là Tông Duy Hiệp[8].
Y nói “thanh toán nợ cũ”, hẳn là đã từng bị thất thế trong tay Ân Thiên Chính.
Hòn đá bay tới, nghe bốp một tiếng, trúng ngay góc trán Ân Thiên Chính, lập
tức máu chảy ròng ròng. Biến cố đó khiến ai nấy giật mình kinh hãi, Tông Duy
Hiệp đá viên sỏi nọ đâu có nghĩ rằng sẽ trúng được Ân Thiên Chính, nào ngờ
lúc này ông ta đã nửa tỉnh nửa mê, không sao tránh được. Cứ tình thế này,
Tông Duy Hiệp chỉ cần đi lên nhấn một ngón tay, cũng đã giết được ông ta rồi.
Tông Duy Hiệp vung tay phải lên, hiên ngang bước tới thì phái Võ Đương một
người bước ra, trên người trường bào vải thô, thần tình quê mùa, chính là nhị
hiệp Du Liên Châu. Ông hơi lắc mình đã chặn ngay trước mặt Tông Duy Hiệp,
nói: -Tông huynh, Ân giáo chủ đã bị trọng thương, có thắng cũng không mã
thượng chút nào, không cần Tông huynh phải nhọc lòng ra tay. Ân giáo chủ
với tệ phái có liên hệ thật sâu xa, chuyện này để cho tiểu đệ lo vậy.
Tông Duy Hiệp đáp: -Cái gì mà trọng thương? Gã này giỏi giả chết lắm, nếu
không phải vì y giở trò ma mãnh, Đường tam đệ đâu có bị lọt vào bẫy của y.
Du nhị hiệp, quí phái có dây mơ rễ má với y, anh em ta cũng có chuyện qua
chuyện lại, để ta đánh y ba quyền cho bõ tức đã.
Du Liên Châu không muốn một đời anh hùng của Ân Thiên Chính lại chết thảm
như thế, nghĩ đến Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố nên nói: -Thất Thương Quyền
của Tông huynh thiên hạ ai ai cũng biết, Ân giáo chủ hiện như thế này, làm
sao chịu nổi ba quyền của Tông huynh?
Tông Duy Hiệp đáp: -Được rồi, y đánh gãy tứ chi của Đường tam đệ, để ta bẻ
gãy bốn tay chân của y lại là xong. Cái đó gọi là báo ứng nhãn tiền nhanh thế
đấy.
Y thấy Du Liên Châu hơi chần chừ, liền cao giọng nói: -Du nhị hiệp, sáu đại
môn phái trước khi qua Tây Vực đã thề với nhau, sao hôm nay ngươi lại quay
qua bảo vệ thủ lãnh của ma giáo là thế nào?
Du Liên Châu thở dài một tiếng, nói: -Lúc này để ngươi làm gì thì làm. Về
Trung Nguyên rồi, Du mỗ thể nào cũng xin lãnh giáo Thất Thương Quyền thần
công của Tông nhị tiên sinh.
Tông Duy Hiệp trong lòng hãi sợ: “Gã họ Du này lại cứ bênh lão họ Ân cho
bằng được là sao?”. Y đối với phái Võ Đương quả có điều úy kỵ, nhưng trước
mắt bao nhiêu người đổ dồn vào, không dám lộ vẻ yếu thế, liền cười nhạt: –
Việc thiên hạ không qua khỏi chữ lý. Phái Võ Đương các ngươi đừng cậy
mạnh, cũng đừng ỷ thế hoành hành.
Câu nói đó rõ ràng nói chạm đến Trương Tam Phong. Tống Viễn Kiều liền nói: –
Nhị đệ, mặc kệ y.
Du Liên Châu lớn tiếng nói: -Thật là anh hùng, thật là hảo hán.
Nói xong lui xuống. Mấy chữ “Thật là anh hùng, thật là hảo hán” dùng để khen
ngợi Ân Thiên Chính, mà cũng để mỉa mai Tông Duy Hiệp. Tông Duy Hiệp
không muốn gây thù chuốc oán với phái Võ Đương, làm như không nghe, thấy
Du Liên Châu vừa bước ra, y liền đi thẳng tới chỗ Ân Thiên Chính. Không Trí
đại sư của phái Thiếu Lâm lớn tiếng ra lệnh: -Các vị phái Hoa Sơn và phái
Không Động, xin tru diệt tất cả các dư nghiệt của ma giáo tại đương trường.
Phái Võ Đương đi từ tây sang đông lục soát, phái Nga Mi đi từ đông sang tây
lục soát, không để ma giáo lọt lưới một người nào. Phái Côn Lôn dự bị củi lửa,
thiêu hủy sào huyệt của ma giáo.
Ông ta ra lệnh cho năm phái xong, chắp hai tay nói: -Đệ tử phái Thiếu Lâm lấy
pháp khí ra, tụng niệm kinh văn vãng sinh, để siêu độ cho anh hùng các môn
phái cùng giáo chúng ma giáo tuẫn nạn để hóa trừ oan nghiệt.
Mọi người chỉ chờ Tông Duy Hiệp một quyền đánh chết Ân Thiên Chính là
công cuộc vi tiễu ma giáo của lục đại môn phái đại công cáo thành. Ngay giờ
phút đó, các giáo chúng Minh giáo và Thiên Ưng giáo biết hôm nay là ngày tận
số, các giáo đồ ai nấy đều cố gắng ngồi dậy, trừ những người bị trọng thương
không thể nào cử động thôi, ai nấy đều ngồi xếp bằng, mười đầu ngón tay xòe
ra, chắp tay trên ngực, làm thế lửa cháy bừng bừng, theo Dương Tiêu niệm
kinh văn của Minh giáo:
Thiêu đốt thân tàn ta,
Hỏa thánh bốc bừng bừng.
Khi sống có gì vui,
Thì chết có gì khổ?
Nguyện hành thiện trừ ác,
Cốt sao cho quang minh.
Bao hỉ lạc bi sầu,
Cũng đều thành cát bụi.
Thương thay cho con người,
Lo buồn sao lắm vậy.
Thương thay cho con người,
Lo buồn sao lắm vậy.
Minh giáo từ Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Thuyết Bất Đắc trở xuống, Thiên Ưng
giáo từ Lý Thiên Viên trở xuống, cho tới cả đầu bếp, giúp việc, ai nấy thần thái
trang nghiêm, không một ai vì việc thân tử, giáo diệt mà tỏ vẻ sợ hãi. Không
Trí đại sư chắp tay niệm: -Thiện tai, thiện tai.
Du Liên Châu nghĩ thầm: “Mấy câu kinh văn này, có lẽ giáo chúng ma giáo
trước khi chết tụng niệm. Bọn họ không niệm cái chết của chính mình, lại
thương người đời đa ưu đa hoạn, thực là lòng dạ rộng rãi đại nhân đại nghĩa.
Năm xưa người sáng lập ra Minh giáo, quả thực siêu việt hơn người. Chỉ tiếc
rằng truyền đến đời sau, lại thành một bọn chuyên làm chuyện tàn ác sai trái
mà thôi”.
Trương Vô Kỵ trước các cao thủ của lục đại môn phái vốn dĩ e ngại, nên lừng
chừng không dám bước ra, tới lúc Không Trí hạ lệnh giết sạch người trong ma
giáo, còn Tông Duy Hiệp thì hung hăng đi tới phía ông ngoại mình, chàng
không còn suy nghĩ thiệt hơn gì nữa, lập tức tiến ra, chặn trước mặt Tông Duy
Hiệp, nói: -Hãy khoan động thủ. Ông ra tay đánh một người đang bị thương
nặng, không sợ thiên hạ anh hùng chê cười hay sao?
Mấy câu nói đó thanh âm vang động toàn trường. Người các môn phái nhận
lệnh của Không Trí đại sư, đang định việc ai nấy làm, đột nhiên nghe thấy mấy
câu nói đó, tất cả đều dừng bước, quay đầu lại nhìn chàng. Tông Duy Hiệp
thấy người nói câu này là một thanh niên lam lũ, chẳng coi vào đâu, giơ tay
đẩy ra, định gạt chàng sang một bên cho dễ bề đánh chết Ân Thiên Chính.
Trương Vô Kỵ thấy y giơ tay đẩy tới, thuận tay gạt ra một chưởng, nghe bình
một tiếng, Tông Duy Hiệp lùi lại ba bước. Y cố gượng lại, chỉ thấy chưởng lực
của đối phương hùng hồn vô cùng, chân lảo đảo không vững. Cũng may công
phu hạ bàn của y khá cứng cỏi, tuy nửa người trên ngã ngửa, nhưng vội vàng
nhấn chân phải một cái, nhảy vọt về sau, mượn sức tung mình xa hơn một
trượng. Khi rơi xuống đất rồi, chưởng lực đó cũng chưa tiêu giải, khiến y lại
phải lật đật lùi thêm bảy tám bước nữa mới đứng lại được. Sự việc xảy ra
khiến y và Trương Vô Kỵ cách nhau đến hơn ba trượng. Trong bụng y vừa sợ
vừa tức, còn người bên ngoài không ai hiểu nổi, đều nghĩ thầm: “Lão Tông
Duy Hiệp làm trò ma quỉ gì đây, sao lại vừa lùi vừa nhảy, nhảy rồi lại lùi, thế là
cái quái gì?”. Chính bản thân Trương Vô Kỵ cũng không ngờ rằng mình chỉ nhẹ
nhàng phẩy ra một chưởng, lại có uy lực dường ấy.
Tông Duy Hiệp ngơ ngẩn xuất thần, lập tức hiểu ra, nhìn Du Liên Châu trừng
trừng giận dữ, quát lớn: -Đại trượng phu quang minh lỗi lạc, sao lại đánh lén
người khác?
Y cho rằng Du Liên Châu ám trung tương trợ, xem chừng toàn thể Võ Đương
chư hiệp cùng ra tay, nếu không sức một người, không thể nào có kình đạo
mãnh liệt như thế được. Du Liên Châu không ngờ y nói một câu như thế, cũng
trừng mắt nhìn lại y, mắng thầm: “Ngươi bày đặt làm trò, tính chuyện gì đây?”.
Tông Duy Hiệp lại hung hăng tiến lên, chỉ vào Trương Vô Kỵ quát hỏi: -Tiểu tử,
ngươi là ai?
Trương Vô Kỵ đáp: -Tôi tên Tăng A Ngưu.
Chàng vừa nói vừa đưa tay để lên Linh Đài huyệt trên lưng Ân Thiên Chính,
đem nội lực cuồn cuộn đổ vào. Cửu Dương Chân Khí của chàng cực kỳ hồn
hậu, Ân Thiên Chính chỉ rùng mình mấy cái, lập tức mở mắt ra, nhìn thấy
thanh niên nọ lòng thật lạ lùng. Trương Vô Kỵ nhìn ông mỉm cười, càng tống
thêm nội lực.
Chỉ trong giây lát, Ân Thiên Chính thấy những nơi bị tắc nghẽn trên ngực và
đan điền đều thông suốt không còn gì ngăn trở, hạ giọng nói: -Đa tạ tiểu hữu.
Ông đứng thẳng dậy, ngạo nghễ nói: -Họ Tông kia, Thất Thương Quyền của
phái Không Động có gì ghê gớm, để ta tiếp ngươi ba quyền.
Tông Duy Hiệp đâu ngờ được lão già này bây giờ thần hoàn khí túc đứng lên,
thấy chuyện không còn dễ dàng như khi trước, e ngại Ưng Trảo Cầm Nã Công
của ông ta, liền nói: -Lẽ dĩ nhiên Thất Thương Quyền của phái Không Động
không có gì ghê gớm, ngươi thử tiếp ta ba chiêu Thất Thương Quyền thôi.
Y tính rằng Ân Thiên Chính nếu không sử dụng cầm nã thủ, chỉ đấu quyền
chưởng, nội lực, mình dĩ dật đãi lao, có thể dùng nội kình Thất Thương Quyền
để thủ thắng. Trương Vô Kỵ thấy y lại đề cập đến ba chữ Thất Thương Quyền,
nghĩ đến năm xưa trên Băng Hỏa đảo, buổi tối hôm đó nghĩa phụ lay y tỉnh
dậy, kể chuyện dùng Thất Thương Quyền đánh chết Không Kiến thần tăng, về
sau ông ta lại bắt mình học thuộc quyền quyết của Thất Thương Quyền, vì
nhất thời không nhớ được nên đã đánh mình mấy cái bạt tai. Bấy giờ quyền
quyết đó lưu chuyển trong đầu, lập tức minh bạch đạo lý ở bên trong.
Nên biết tất cả các loại nội công trong thiên hạ đều không vượt qua được Cửu
Dương thần công, còn Càn Khôn Đại Na Di là phương pháp vận kình sử lực, là
tập đại thành của mọi môn võ công. Nhất pháp thông, vạn pháp thông, thành
thử mọi môn công phu trước mắt chàng giờ này không còn gì bí áo.
Lại nghe Ân Thiên Chính nói: -Cứ gì ba quyền, để ta tiếp ngươi ba chục quyền
đã làm sao nào?
Ông quay đầu lớn tiếng nói với Không Trí: -Không Trí đại sư, họ Ân này chưa
chết, cũng chưa chịu thua, ông nói ra mà không giữ lời, định lấy đông người
để thắng hay sao?
Không Trí xua tay nói: -Được rồi, tất cả xin chờ giây lát, có đáng gì đâu?
Thì ra khi Ân Thiên Chính lên trên Quang Minh Đính, thấy bọn Dương Tiêu ai
nấy đều bị thương nặng, bên mình thế lực đơn bạc, nên đã dùng lời chặn
trước Không Trí, không để thành thế hỗn chiến. Không Trí cũng theo qui củ võ
lâm, nên bằng lòng theo lối đánh từng trận một. Kết quả các đường, các đàn
của Thiên Ưng giáo, Ngũ Hành Kỳ của Minh giáo, cả đến các thuộc hạ của
Dương Tiêu trên Quang Minh Đính bao gồm các hảo thủ trong Thiên Địa
Phong Lôi tứ môn, ai không chết thì bị thương, sau cùng chỉ còn một mình Ân
Thiên Chính. Thế nhưng ông ta vẫn chưa chịu thua, nên bên kia vẫn chưa thể
tiến lên tàn sát.
Trương Vô Kỵ biết ông ngoại mình so với trước có khá hơn, nhưng không có
thể vận kình sử lực, sở dĩ muốn tiếp quyền chiêu của Tông Duy Hiệp, chỉ vì hết
sức hộ giáo, đến chết mới thôi, nên hạ giọng nói: -Ân lão tiền bối, để cho tại
hạ đấu trước, nếu vãn bối không xong, lão tiền bối hãy ra tay.
Ân Thiên Chính đã thấy chàng nội lực hùng hậu vô cùng, chính mình khi chưa
bị thương, cũng còn kém xa, nghĩ đến mình vì Minh giáo mà chết, là chuyện
đương nhiên, còn thanh niên này không hiểu liên can thế nào, dù bản lãnh cao
cường đến mấy cũng không thể từng người từng người đánh bại, hết cao thủ
này đến cao thủ khác, sau cùng rồi cũng đến trọng thương kiệt lực để cho
người ta giết như mình thôi. Một kẻ thiếu niên anh tài, việc gì phải chết trên
Quang Minh Đính làm chi? Nghĩ thế bèn hỏi: -Tiểu hữu là môn hạ của vị nào
thế, xem ra không phải giáo đồ bản giáo, phải không?
Trương Vô Kỵ cung kính cúi mình nói: -Vãn bối không thuộc Minh giáo, cũng
không thuộc Thiên Ưng giáo, nhưng đối với lão tiền bối có lòng kính mến đã
lâu, hôm nay cùng tiền bối sánh vai cự địch, là điều nên làm.
Ân Thiên Chính lạ lùng, đang định hỏi thêm, Tông Duy Hiệp đã hung hăng tiến
lên, quát lớn: -Họ Ân kia, quyền thứ nhất của ta đây.
Trương Vô Kỵ nói: -Ân lão tiến bối bảo ngươi không xứng đáng tỉ quyền với
ông ta, ngươi phải thắng ta đã, rồi sau động thủ với lão nhân gia cũng chưa
muộn.
Tông Duy Hiệp giận quá, quát lớn: -Thằng nhãi kia ngươi là hạng người gì? Để
ta cho ngươi biết Thất Thương Quyền của phái Không Động lợi hại dường nào.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Hôm nay phải làm sao nói toạc âm mưu gian trá của
tên ác tặc Viên Chân, mới có thể có cách để cho hai bên bãi chiến, chứ chỉ
một cách động thủ ra chiêu, một mình ta sao đánh lại bao nhiêu anh hùng của
sáu môn phái? Huống chi các sư bá sư thúc trong phái Võ Đương có mặt ở
đây, làm sao ta có thể coi những vị đó là địch được?”. Chàng nghĩ vậy bèn lớn
tiếng trả lời: -Thất Thương Quyền của phái Không Động thật là lợi hại, tại hạ
đã nghe tiếng từ lâu. Không Kiến đại sư, thần tăng của phái Thiếu Lâm chẳng
phải táng mạng vì Thất Thương Quyền của quí phái hay sao?
Câu đó của chàng nói ra, cả phái Thiếu Lâm ai nấy đều rúng động. Ngày hôm
đó Không Kiến đại sư chết ở Lạc Dương, trên người xương cốt đều bị gãy nát,
bên ngoài không có thương tích gì, thật giống bị độc thủ Thất Thương Quyền
của phái Không Động. Khi đó Không Văn, Không Trí, Không Tính tam tăng mật
nghị mấy ngày liền, xem ra phái Không Động hiện giờ không có cao thủ tuyệt
đỉnh để có thể đánh chết được người đã luyện được Kim Cương Bất Hoại Thể
thần công như Không Kiến sư huynh. Tuy thương thế của Không Kiến có làm
cho người ta nghi ngờ, nhưng phái Không Động không thể làm nổi. Về sau
Không Trí lại cùng các đệ tử kín đáo điều tra, biết được khi Không Kiến đại sư
viên tịch ở Lạc Dương, Không Động ngũ lão đều ở vùng tây nam cả. Còn nếu
không phải do Không Động ngũ lão làm, phái Không Động không còn cao thủ
nào khác có thể giết nổi Không Kiến, nên mối hồ nghi đối với phái Không Động
cũng bỏ qua. Huống chi khi đó ngoài tường của khách điếm ở Lạc Dương có
viết mười hai chữ lớn “Thành Côn giết Không Kiến thần tăng ở dưới chân
tường này”, phái Thiếu Lâm về sau biết được Tạ Tốn đã mạo danh Thành Côn
gây ra bao nhiêu huyết án, nên hoàn toàn không còn nghi ngờ gì nữa. Đến lúc
này các cao tăng nghe Trương Vô Kỵ nói như thế đều giật mình.
Tông Duy Hiệp giận dữ nói: -Không Kiến đại sư bị ác tặc Tạ Tốn sát hại, trên
giang hồ ai ai cũng biết, có liên can gì đến phái Không Động đâu?
Trương Vô Kỵ nói: -Tạ tiền bối đánh chết Không Kiến thần tăng, ông có chính
mắt nhìn thấy không? Ông đứng một bên quan sát hay sao? Hay là đứng bên
cạnh để yểm trợ?
Tông Duy Hiệp nghĩ thầm: “Thằng này ăn mày không ra ăn mày, chăn trâu
không ra chăn trâu, sao lại đến quấy rầy mình? Chắc là do phái Võ Đương sai
khiến, cố khuấy động cho hai phái Không Động và phái Thiếu Lâm bất hòa với
nhau. Ta phải đối phó cẩn thận, đừng để lọt vào cái bẫy của họ”. Nghĩ thế nên
dẫu y không coi Trương Vô Kỵ ra gì, nhưng cũng nghiêm mặt đáp: -Không
Kiến thần tăng táng mệnh tại Lạc Dương, khi đó Không Động ngũ lão là khách
ở phủ của Liễu đại hiệp phái Điểm Thương tại Vân Nam. Làm sao bọn ta lại có
thể chính mắt trông thấy chuyện đó được?
Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói: -Hay nhỉ, khi đó ông đang ở Vân Nam, sao lại thấy
được Tạ tiền bối giết chết Không Kiến đại sư? Vị thần tăng này chết vì Thất
Thương Quyền của phái Không Động ai ai cũng đều biết. Tạ tiền bối không
phải là người của phái Không Động, tại sao ông lại giá họa cho người ta?
Tông Duy Hiệp nói: -Hừ, nơi Không Kiến thần tăng viên tịch có viết “Thành
Côn giết Không Kiến thần tăng ở dưới chân tường này” mười hai chữ bằng
máu. Tạ Tốn mạo tên sư phụ y, đến đâu cũng gây ra huyết án, thì còn gì mà
phải nghi nữa?
Trương Vô Kỵ giật mình: “Nghĩa phụ ta đâu có nói là đã viết tại bức tường
những chữ này. Sau mười ba quyền đánh chết Không Kiến thần tăng rồi, trong
lòng buồn bã hối hận vô cùng, đâu còn lòng dạ nào mà viết những chữ giá họa
đó nữa”. Chàng bèn ngửa cổ lên cười ha hả, nói: -Những chữ đó ai viết mà
chẳng được? Trên tường có hàng chữ đó, ai là người chính mắt nhìn thấy Tạ
tiền bối viết đâu? Tại hạ bảo là những chữ đó phái Không Động viết cũng được
chứ sao? Viết chữ thì dễ, luyện Thất Thương Quyền mới khó.
Chàng quay lại nói với Không Trí: -Không Trí đại sư, lệnh sư huynh đúng là bị
hại về quyền lực Thất Thương Quyền của phái Không Động, có phải không?
Kim Mao Sư Vương Tạ tiền bối không phải là người phái Không Động, có phải
không?
Không Trí chưa kịp trả lời, đột nhiên một nhà sư cao lớn mặc đại hồng cà sa
lướt ra, tay cầm một cây thiền trượng màu vàng sáng lấp lánh dộng xuống đất
một cái, lớn tiếng quát: -Tiểu tử, ngươi là người của môn phái nào? Ngươi làm
gì mà dám nói chuyện tay đôi với sư phụ ta?
Tăng nhân đó vai gồ lên, ăn nói giọng như đang lên cơn suyễn, chính là Viên
Âm của phái Thiếu Lâm. Năm xưa phái Thiếu Lâm dẫn nhau lên trên núi Võ
Đương vấn tội, chính y là người nằng nặc nói là chính mắt thấy Trương Thúy
Sơn giết đệ tử Thiếu Lâm. Khi đó Trương Vô Kỵ lòng đầy bi phẫn, ghi nhớ tất
cả những người có mặt, lúc này vừa thấy y, trong người nhiệt huyết trào lên,
mặt đỏ bừng, thân mình hơi hơi run rẩy, bụng thầm nói: “Trương Vô Kỵ,
Trương Vô Kỵ, đại sự hôm nay là làm sao điều giải oán cừu giữa lục đại môn
phái và Minh giáo, không thể nào vì một chút tư hiềm, làm cho tình hình trở
nên khó giải quyết hơn, những chuyện cũ của phái Thiếu Lâm, để ngày sau
thanh toán cũng chưa muộn”. Tuy trong lòng chàng suy tính rõ ràng như thế,
nhưng từ khi Viên Âm chường mặt ra tình trạng chết thảm của cha mẹ, bỗng
hiện rõ ngay trước mắt, khiến nước mắt trào lên, tưởng chừng không thể nào
tự chế nổi.
Viên Âm cầm thiền trượng dộng xuống đất một cái nữa, quát lớn: -Tiểu tử kia,
ngươi là yêu nghiệt của ma giáo thì mau mau vươn cổ chịu chém, còn nếu
không phải thì xuống núi đi, đừng để những người xuất gia lòng dạ từ bi
chúng ta phải ra tay.
Y thấy Trương Vô Kỵ mặc quần áo không giống người trong Minh giáo, lại
tưởng lầm việc chàng cố gắng nín nhịn là thái độ sợ hãi, nên mới nói mấy câu
đó. Trương Vô Kỵ nói: -Quí phái có một vị Viên Chân đại sư, phải không? Mời
ông ta ra đây, tại hạ có vài câu muốn hỏi.
Viên Âm đáp: -Viên Chân sư huynh? Lào sao ông ta nói chuyện với ngươi
được? Ngươi mau mau ra đằng khác, bọn ta đâu có thì giờ để nói chuyện tào
lao với một đứa nhà quê như ngươi. Ngươi thực ra là môn hạ của người nào?
Y thấy Trương Vô Kỵ chỉ một chưởng đánh Tông Duy Hiệp, người trong Không
Động ngũ lão phải thoái lui liền mấy bước, liệu rằng sư phụ của y không phải
tầm thường, nên lại hỏi thêm lần nữa, nếu không giờ phút đồ diệt Minh giáo
sắp sửa thành công việc gì phải phí thì giờ đôi co với gã thiếu niên lai lịch mù
mờ này làm gì.
Trương Vô Kỵ nói: -Tại hạ không phải người trong Minh giáo, cũng không phải
là môn hạ của một môn phái nào ở Trung Nguyên. Lần này lục đại môn phái
vây công Minh giáo chính là vì bị kẻ gian xúi bẩy, bên trong có một hiểu lầm rất
lớn, tại hạ tuy tuổi còn nhỏ, nhưng lại hiểu được đầu dây mối nhợ, nên mạo
muội đứng ra xin hai bên bãi chiến, tra xét rõ nội tình, bên nào phải, bên nào
trái, lúc đó phán đoán một cách công minh.
Lời chàng vừa dứt, trong sáu môn phái nổi lên tiếng cười vang động, ha ha, hô
hô, hi hi, khà khà … đủ mọi loại. Có mấy chục người còn lên tiếng chế nhạo: –
Thằng nhãi này bị mất trí điên khùng, nói năng lếu láo, bậy bạ quá.
-Nó tưởng nó là hạng người gì? Là Trương chân nhân của phái Võ Đương hay
sao? Hay là Không Văn thần tăng của phái Thiếu Lâm? Ha ha, ha ha.
-Chắc nó nằm mơ lấy được bảo đao Đồ Long nên trở thành võ lâm chí tôn rồi.
-Nó tưởng bọn mình là trẻ con lên ba, ha ha, cười đến đau cả bụng.
-Sáu đại môn phái chết bao nhiêu người, nợ máu của ma giáo rộng như biển,
hì hì, nó tưởng chỉ nói vài câu là tất cả bọn mình rút lui hết …
Chỉ có Chu Chỉ Nhược của phái Nga Mi lông mày nhíu lại, lặng thinh không nói.
Hôm đó nàng cùng Trương Vô Kỵ hai bên nhận ra nhau, biết được chàng là
người đã từng gặp gỡ trên sông Hán Thủy, trong lòng nhớ lại chuyện xưa, sau
lại thấy chàng vì nghĩa đứng ra cứu người của Nhuệ Kim Kỳ, chịu cho sư phụ
của nàng đánh ba chưởng, càng thêm khâm phục, bây giờ nghe chàng không
lượng sức mình nói mấy câu, lại nghe mọi người ùa lên châm chọc, không khỏi
đau lòng.
Trương Vô Kỵ đứng ngay đương trường, ngang nhiên nhìn chung quanh bốn
bề, lớn tiếng nói: -Chỉ cần Viên Chân đại sư của phái Thiếu Lâm ra đây, cùng
tại hạ đối chất mấy câu, gian mưu y an bài sẽ rõ cả.
Ba câu đó từng chữ từng chữ nói ra, tuy mấy trăm người đang cười nói,
nhưng ai ai cũng nghe thật rõ ràng. Các cao thủ của lục đại phái người nào
cũng giật mình, sự khinh thị trong lòng giảm đi mấy phần, nghĩ thầm: “Tiểu tử
này tuổi tuy còn nhỏ, sao nội lực lại thâm hậu đến thế?”.
Viên Âm đợi tiếng cười của mọi người lắng xuống, hổn ha hổn hển nói: -Thằng
nhãi thối tha kia sao xảo trá thế, biết rõ Viên Chân sư huynh không thể nào
cùng ngươi đối chất được, nên đòi gọi ra nói chuyện? Sao ngươi không gọi
Trương Thúy Sơn của phái Võ Đương ra đối chất có được không?
Câu cuối cùng của y vừa khỏi miệng, Không Trí lập tức quát lên: -Viên Âm, ăn
nói phải giữ mồm giữ miệng.
Thế nhưng các phái Hoa Sơn, Côn Lôn, Không Động đã có nhiều người cười hô
hố. Chỉ có phái Võ Đương ai nấy mặt sầm hẳn xuống, không nói một lời. Thì ra
con mắt bên phải của Viên Âm bị Ân Tố Tố dùng ám khí bắn mù bên bờ hồ
năm xưa, y vẫn nghĩ là do Trương Thúy Sơn hạ độc thủ, lúc nào cũng hậm hực
trong lòng. Trương Vô Kỵ thấy y làm nhục đến cha mình, giận không để đâu
cho hết, lớn tiếng quát: -Tên húy của Trương ngũ hiệp sao ngươi được đem ra
nói năng láo lếu? Ngươi … ngươi …
Viên Âm cười khẩy đáp: -Trương Thúy Sơn tự mình sa đọa, bị yêu nữ của ma
giáo mê hoặc, hiếu sắc mới bị quả báo …
Trương Vô Kỵ trong bụng vẫn tự răn mình: “Hôm nay mình cốt để làm sao hai
bên bãi đấu, ta nhất quyết không thể nào ra tay giết người được”. Thế nhưng
khi nghe đến mấy câu này, làm sao có thể nhịn nổi? Chàng nhảy vọt tới, tay
trái vươn ra, chộp cổ Viên Âm xách lên, tay phải cướp luôn thiền trượng trong
tay nhà sư, vung lên toan đánh xuống đầu y. Viên Âm bị chàng nắm chặt,
chẳng khác gì con gà con bị diều hâu bắt được, không có một chút sức nào
chống trả.
Trong đám người của phái Thiếu Lâm lập tức có hai người xông ra, hai thanh
thiền trượng chia ra đánh vào hai bên tả hữu Trương Vô Kỵ, chính là phương
pháp cao minh trong võ học dùng trong trường hợp phải cứu người, gọi là Vi
Ngụy Cứu Triệu, người bị tấn công không thể không quay về tự cứu mình, giải
vây cho người đồng bọn bị nguy khốn. Hai người xông ra cứu đó chính là Viên
Tâm, Viên Nghiệp. Trương Vô Kỵ tay trái vẫn nắm Viên Âm, tay phải cầm thiền
trượng, nhảy vọt lên, hai chân chia ra đá luôn vào thiền trượng của nhị tăng
cầm trong tay, chỉ nghe bốp bốp, cả hai người đều ngã ngửa. Cững may võ
công cả Viên Tâm, Viên Nghiệp đều vào loại khá, lâm nguy bất loạn, hai tay
vận lực đẩy ra, thành thử hai chiếc thiền trượng đúc bằng thép pha vàng nặng
mấy chục cân kia không bật trở lại đập ngược vào người mình.
Mọi người kinh hoảng kêu lên, chỉ thấy Trương Vô Kỵ tay nắm thân hình cao to
của Viên Âm lượn một cái nhẹ nhàng đáp xuống đất. Trong lục đại phái có bảy
tám người buột miệng kêu lên: -Thê Vân Túng của phái Võ Đương.
Trương Vô Kỵ từ bé theo cha cùng thái sư phụ, các sư bá sư thúc, tuy võ công
của phái Võ Đương chỉ học có ba mươi hai thức nhập môn Võ Đương Trường
Quyền, nhưng những gì trông thấy nghe thấy không phải là ít, bây giờ luyện
thành Càn Khôn Đại Na Di thần công rồi, dù võ công môn phái nào cũng có
thể đem ra dùng được. Công phu của phái Võ Đương chàng đã thấm nhập
trong lòng nhiều hơn cả, nên lúc này không nghĩ ngợi gì liền đem ra ứng dụng
ngay môn khinh công trứ danh Thê Vân Túng. Du Liên Châu, Trương Tùng Khê
nếu muốn nhảy lên như thế, ở trên không lượn thêm mấy vòng, rồi hạ xuống
quả thực không khó khăn gì, tư thức còn tiêu dật hơn là khác. Thế nhưng một
bên tay nắm một hòa thượng to béo, một bên tay cầm một thanh thiền trượng
nặng nề, mà thân hình vẫn nhẹ nhàng như cánh én, thì không thể nào làm
nổi.
Các nhà sư Thiếu Lâm lúc này đã cách xa chàng đến bảy tám trượng, thấy
Viên Âm bị chàng nắm ngay yếu huyệt, không còn động đậy gì được, chàng
chỉ giơ thiền trượng lên là đánh đầu Viên Âm nát như tương, trong một chớp
mắt đó chạy lên cứu thì không kịp nữa. Chỉ còn một cách duy nhất là bắn ám
khí, nhưng Trương Vô Kỵ chỉ cần giơ Viên Âm ra đỡ, mượn dao giết người, lại
hại ngược đến tính mạng y. Tuy có những cao thủ tuyệt đính như Không Trí,
Không Tính ở bên, nhưng biến cố đó xảy ra nhanh quá, không thể ngờ rằng
thanh niên này lại có thân thủ như thế, nên ai nấy trở tay không kịp. Chỉ thấy
chàng nghiến răng, mặt đầy thù hận, giơ thiền trượng lên, người trong phái
Thiếu Lâm có kẻ nhắm mắt lại không dám nhìn, người thì toan xông ra phục
thù cho Viên Âm.
Nào ngờ thiền trượng trong tay Trương Vô Kỵ không đánh xuống, tưởng như
trong lòng có điều gì chưa quyết định được, gương mặt chàng từ từ dịu lại,
chầm chậm buông Viên Âm ra.
Thì ra trong một giây phút ngắn ngủi, chàng đã nén được nộ khí trong lòng,
nghĩ thầm: “Nếu như ta đánh chết một người nào trong lục môn phái, ta liền
trở thành kẻ thù của họ, không còn cách nào đứng làm trung gian để giảng
hòa được nữa. Vụ thảm sát trong võ lâm không còn cách nào hóa giải, có phải
là rơi vào gian kế của ác tặc Thành Côn hay sao? Dù cho họ có chửi ta, mắng
ta, đánh ta giết ta cách nào, ta cũng phải nhẫn nại gắng chịu, mới thực là đi
đúng con đường trả thù cho cha mẹ và nghĩa phụ”.
Chàng nghĩ được như thế rồi, nên buông Viên Âm, thủng thẳng nói: -Viên Âm
đại sư, mắt ông không phải do Trương ngũ hiệp bắn mù đâu, chẳng nên ghi
nhớ mối hận trong lòng. Huống chi Trương ngũ hiệp đã tự vẫn chết đi rồi, bao
nhiêu oán cừu cũng đều hóa giải cả. Đại sư là người xuất gia, tứ đại giai
không, sao lại để chuyện cũ khắc khoải không quên là sao?
Viên Âm chết đi sống lại, thẫn thờ nhìn Trương Vô Kỵ, không nói nên lời, thấy
chàng đem thiền trượng giao trả lại, tự nhiên giơ tay nhận lấy, cúi đầu lui về,
cảm thấy bao nhiêu oán hận tích chứa lâu nay, dường như có điều không phải.
Các cao tăng chùa Thiếu Lâm, chư hiệp phái Võ Đương nghe Trương Vô Kỵ nói
mấy câu đó, đều thầm gật đầu.
[1] Đích thân phu nhân mở ra
[2] Đính Thiên có nghĩa là đội trời
[3] còn gọi là đinh tấn, một chân cong tượng cho cây cung, một chân thẳng
tượng cho mũi tên
[4] nếu ý chí kiên định cố gắng thì dù vàng đá cũng phải mở
[5] Muôn ngọn núi chầu về nguồn
[6] người thật là khôn ngoan thì làm như ngu xuẩn, kẻ thật là khéo léo thì xem
như vụng về
[7] Câu trích trong Tả Truyện nghĩa là Một việc đã sai lầm thì không nên tái
phạm (nguyên văn là vị thậm, Kim Dung lại viết là vi thậm)
[8] Bản cũ dịch là Tôn Duy Hiệp, nhưng đúng ra phải đọc là Tông. Triều
Nguyễn vì kiêng tên húy của vua Thiệu Trị (Miên Tông) nên đọc trại thành Tôn
(tông thất thành tôn thất, tông chỉ thành tôn chỉ …)


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.