Ỷ THIÊN ĐỒ LONG KÝ
14. Đương đạo thời kiến trung sơn lang
Mang danh chính phái ai người,
Làm ơn trả oán như loài sói lang.
Hai đứa đi hơn nửa ngày mới ra khỏi Hồ Điệp Cốc, Dương Bất Hối chân nhỏ
bước ngắn không còn đi nổi nữa. Ngồi nghỉ một hồi, lại đứng dậy đi tiếp. Đi rồi
nghỉ, nghỉ rồi đi, chiều hôm đó không kiếm được khách điếm, hai đứa đi đến
trời tối, vẫn còn đi lang thang trong hoang sơn dã lãnh, bốn phía sói tru cú
rúc, khiến cho Bất Hối sợ quá khóc òa lên.
Trương Vô Kỵ trong bụng cũng mười phần sợ hãi, thấy bên đường có một cái
hốc đá, liền dắt Dương Bất Hối chui vào, ôm em vào lòng, lấy hai tay bịt tai lại
để nó khỏi nghe thấy tiếng thú đói rú lên trong đêm. Đêm đó hai đứa bé vừa
đói vừa sợ, qua một đêm khủng khiếp, sáng hôm sau mới đi vào trong núi kiếm
trái cây dại để ăn, thuận theo đường núi đi một hồi lại nghỉ một chốc. Đi đến
trưa, Dương Bất Hối đột nhiên kêu thất thanh, chỉ vào một cái cây lớn bên
cạnh đường.
Trương Vô Kỵ nhìn theo, thấy trên cây treo lủng lẳng đong đưa hai cái xác
người, sợ quá vội nắm tay em quay đầu chạy. Hai đứa hoảng hốt bước thấp
bước cao chưa được bao xa, vấp phải một hòn đá cùng ngã lăn xuống. Trương
Vô Kỵ thu hết can đảm quay đầu lại nhìn, lần này lại càng kinh hãi, buột miệng
kêu lên: -Hồ tiên sinh.
Thì ra cái xác treo trên cây kia bị gió thổi quay lại, chính là Hồ Thanh Ngưu. Cái
xác khô kia tóc dài phủ xuống lưng, là một người đàn bà, nhìn phục sức chính
thị Vương Nạn Cô, vợ của Hồ Thanh Ngưu. Gió núi thổi vào xác và mái tóc dài
của bà ta, càng làm tăng thêm âm khí u uất.
Trương Vô Kỵ cố gắng trấn tĩnh, tự nhủ: “Không sợ, không sợ”. Y từ từ đứng
lên, từng bước từng bước tiến lại, nhìn kỹ đúng là xác của hai vợ chồng Hồ
Thanh Ngưu, trên mặt có đốm lấp lánh, như nạm trên mặt mỗi người một
bông hoa vàng. Trương Vô Kỵ hiểu ra: “Thì ra họ không chạy thoát độc thủ của
Kim Hoa bà bà”.
Lại thấy dưới giòng suối một chiếc xe vỡ nát, một con la nằm chết chìm trong
đó. Trương Vô Kỵ bàng hoàng chảy nước mắt, cởi dây hạ hai cái xác vợ chồng
Hồ Thanh Ngưu xuống gốc cây, bỗng nghe một tiếng cạch, từ trong bọc của
Vương Nạn Cô rơi ra một quyển sách. Y nhặt lên, đó là một bộ sách chép tay,
tựa đề năm chữ “Vương Nạn Cô Độc Kinh”. Giở ra xem, trong sách những chữ
nhỏ bằng đầu ruồi theo lối chữ khải, viết chi chít độc tính của những loại độc
vật, cách sử dụng và hóa giải, ngoài độc dược, độc thảo, còn các loại côn
trùng như rắn, rết, bò cạp, nhện kể cả các loại cổ quái lạ lùng như cá, cắc kè,
chim, thú, hoa, cây đất đá, đều có ghi cả. Y tiện tay bỏ luôn vào bọc, xếp song
song thi thể vợ chồng Hồ Thanh Ngưu rồi lấy đất đá đắp lên thành hai cái gò,
quì xuống lạy mấy lạy, sau đó dắt tay Dương Bất Hối theo đường mà đi.
Hai đứa đi được vài dặm thì gặp đường lớn, chẳng bao lâu đến một thị trấn
nhỏ, Trương Vô Kỵ định đi mua cơm ăn, nào ngờ trong phố nhà nào cũng bỏ
không, chẳng thấy một bóng người nào. Hai đứa không còn cách nào khác,
đành phải đi tiếp. Ruộng nương hai bên đường đều không trồng cấy gì, cỏ dại
mọc đầy, trông thật hoang lương.
Trương Vô Kỵ trong lòng kinh hãi, Dương Bất Hối thật ngoan, cố nhịn đói
không khóc, gắng sức bước đi, vì nó cũng đâu biết làm gì. Đi được một lúc,
thấy bên đường nằm chết mấy xác người, bụng lép kẹp, hai má hõm xuống,
nhìn qua cũng biết ngay là chết đói. Càng đi càng thấy người chết mỗi lúc một
nhiều, Trương Vô Kỵ càng thêm sợ hãi: “Không lẽ mình không thể kiếm được
cái gì để ăn sao? Chắc hai đứa rồi cũng chết đói mất thôi”. Đi đến chiều, đến
một khu rừng, thấy bên trong có một làn khói trắng bốc lên. Trương Vô Kỵ
mừng lắm, từ khi ra khỏi Hồ Điệp Cốc y chưa thấy khói lửa, nên vội vàng nhắm
phía làn khói hối hả đi tới.
Khi tới gần, Vô Kỵ thấy hai gã áo quần bẩn thỉu ngồi bên cạnh một cái chảo
nước đang bốc hơi nghi ngút, đang thêm củi vào bếp. Hai gã đó nghe thấy
tiếng chân người, quay lại thấy Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối, trên mặt liền
ra vẻ vui mừng, cùng nhảy cẫng lên. Một người vẫy tay gọi: -Bé con, tốt quá,
lại đây, mau lại đây. Có người lớn nào đi cùng không? Hai đứa đi đâu thế?
Trương Vô Kỵ đáp: -Chỉ có hai đứa chúng cháu thôi, không có người lớn.
Hai người kia nhìn nhau cười ha hả, cùng kêu lên: -May thật, may thật.
Trương Vô Kỵ đói muốn lả, thò đầu nhìn vào trong chảo xem họ nấu gì, thấy
bên trong đang sôi sục, toàn là cỏ xanh. Một tên đi tới túm lấy Dương Bất Hối,
nhe răng cười: -Con dê con này vừa trắng vừa béo, đêm nay mình được một
bữa no, sướng thật.
Tên kia tiếp lời: -Đúng thế, thằng con trai để đến ngày mai hãy ăn.
Trương Vô Kỵ giật mình hinh hãi, quát lên: -Làm gì thế? Mau bỏ em ta ra.
Gã kia không thèm lý tới, soẹt một tiếng đã xé ngay áo của Dương Bất Hối, thò
tay vào giày ủng rút ra một con dao găm, cười: -Lâu quá không được ăn loại
dê non béo thế này.
Y xách Dương Bất Hối để qua một bên, dường như muốn làm thịt. Tên kia liền
cầm một cái bát sành để ở phía sau, nói: -Máu dê bỏ phí lắm, để mình nấu
một nồi cháo huyết, ăn cũng ngon ra phết.
Trương Vô Kỵ sợ đến hết cả hồn vía, xem chừng bọn chúng không phải đùa,
có ý muốn giết Dương Bất Hối thực, kêu to: -Các ngươi định ăn thịt người à?
Sao không sợ thương thiên hại lý?
Gã cầm bát cười: -Bố mày ba tháng nay không được hạt gạo nào vào bụng,
không ăn thịt người, không lẽ ăn thịt bò thịt dê sao?
Y sợ Trương Vô Kỵ bỏ chạy vội đến nắm cổ nó. Trương Vô Kỵ nghiêng người né
tránh, tay trái gạt ra, tay phải đánh ra một chưởng, trúng ngay giữa chỗ yếu
hại trên lưng. Y được Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn truyền thụ bí quyết võ công,
lại được phụ thân dạy cho Võ Đương trường quyền, mấy năm nay tuy chuyên
tâm học nghề thuốc, không luyện võ, nhưng những gì đã tập đã xem toàn là
thượng thừa công phu. Chưởng đó y hết sức đánh ra, dù người tập võ nhiều
năm cũng chưa chắc đỡ nổi, huống chi một gã nhà quê tầm thường? Gã đó hự
một tiếng nằm gục ngay xuống, không còn động đậy gì nữa.
Trương Vô Kỵ lập tức nhảy lại bên cạnh Dương Bất Hối, tên còn lại quát lên: –
Để tao giết mày trước.
Y giơ con dao lên đâm vào ngực Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ sử chiêu Nhạn Sí Thức
trong Võ Đương trường quyền, chân phải đá lên, trúng ngay cổ tay tên nọ,
con dao văng mất. Tiếp theo y sử Uyên Ương Liên Hoàn Thối, chân trái đá tiếp
theo, trúng ngay cằm kẻ địch. Người đó đang há mồm quát tháo, hàm dưới bị
đá trúng ngậm ngay lại, răng cắn trúng lưỡi, máu phun vọt ra, lập tức bất
tỉnh. Trương Vô Kỵ vội chạy tới đỡ Dương Bất Hối.
Ngay lúc đó có tiếng chân người, lại có mấy người khác đi vào rừng. Dương
Bất Hối sợ đến quýnh quáng, vừa nghe tiếng người nói lập tức sà vào lòng Vô
Kỵ. Trương Vô Kỵ thò đầu ra thăm dò, lúc ấy mới yên tâm kêu lớn: -Có phải
Giản đại gia, Tiết đại gia không?
Đi vào rừng gồm cả thảy năm người, một người là Giản Tiệp của phái Không
Động, ngoài ra là Tiết Công Viễn và hai người đồng môn phái Hoa Sơn, bốn
người này đều do Vô Kỵ trị bệnh lúc trước. Người sau cùng là một thanh niên
chừng đôi mươi, tướng mạo uy tráng, trán rất rộng, Trương Vô Kỵ chưa từng
gặp bao giờ.
Giản Tiệp ồ lên một tiếng, nói: -Trương huynh đệ, ngươi ở đây đấy ư? Hai
người này bị sao thế?
Nói rồi chỉ hai gã kia đang nằm dưới đất. Trương Vô Kỵ hậm hực hể lại mọi
chuyện, sau cùng kết luận: -Đến người sống mà họ còn ăn, quả thực là vô
pháp vô thiên.
Giản Tiệp đưa mắt nhìn Dương Bất Hối, đột nhiên khóe miệng chảy nước dãi,
lè lưỡi liếm môi, nói lẩm bẩm: -Con mẹ nó, năm ngày năm đêm rồi không có
hạt gạo nào vào bụng, chỉ ăn toàn rễ cỏ với vỏ cây …, ôi chao, mềm mại trắng
trẻo thế kia, mập mạp mơn mởn …
Trương Vô Kỵ thấy mắt y toát ra vẻ thèm khát, trông chẳng khác gì một con
chó sói đói đang rình mồi, lại nhe răng trắng nhởn, thần tình thật đáng sợ, lập
tức kéo Dương Bất Hối vào lòng.
Tiết Công Viễn hỏi: -Thế mẹ con bé đâu?
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Nếu mình bảo Kỷ cô cô chết rồi, thể nào bọn họ
cũng có ý đồ không tốt”. Liền nói: -Kỷ nữ hiệp đi mua gạo, chút nữa về ngay.
Dương Bất Hối bỗng nói: -Không đâu, mẹ cháu bay lên trời rồi.
Giản, Tiết nghe hai đứa, biết ngay Kỷ Hiểu Phù đã chết, Tiết Công Viễn cười
khẩy nói: -Mua gạo? Chung quanh đây năm trăm dặm, nếu ngươi kiếm được
một hạt gạo thì ta chịu ngươi là giỏi.
Giản Tiệp đưa mắt cho Tiết Công Viễn, hai người cùng nhảy xổ tới. Giản Tiệp
hai tay nắm hai cánh tay Trương Vô Kỵ, Tiết Công Viễn giơ tay bịt mồm Dương
Bất Hối, tay phải liền bế xốc con bé lên. Trương Vô Kỵ sợ hãi kêu: -Các ngươi
làm gì thế?
Giản Tiệp cười: -Phủ Phượng Dương này cả nghìn dặm đều bỏ hoang, bọn ta
đói quá nhịn không nổi nữa rồi. Con bé này đâu có phải là gì của ngươi, để rồi
ta chia cho ngươi một phần.
Trương Vô Kỵ chửi: -Các ngươi tự cho là anh hùng hảo hán thật uổng, lại đi
hiếp đáp một đứa trẻ mồ côi? Việc này truyền ra ngoài, các ngươi còn làm
người sao nổi?
Giản Tiệp tức quá, tay trái nắm chặt Vô Kỵ, tay phải tát luôn cho y hai cái,
quát lớn: -Cả thằng chó này ta cũng làm thịt luôn, bọn ta xem chừng một con
dê con không đủ.
Vô Kỵ mới rồi đánh ngã hai người nhà quê thật dễ dàng, nhưng Thánh Thủ Già
Lam Giản Tiệp là cao thủ của phái Không Động, có mấy chục năm công phu,
Trương Vô Kỵ bị y nắm chặt, làm sao thoát thân nổi. Hai tên sư đệ của Tiết
Công Viễn liền lấy dây thừng, trói luôn cả hai đứa bé lại. Trương Vô Kỵ biết
hôm nay mình không sao thoát chết, trong cơn cuồng nộ, cảm thấy hối hận,
biết thế lúc trước không cứu mấy tên này, để khỏi gặp cảnh nhân tâm phản
phúc, lấy oán báo ân.
Giản Tiệp nói: -Thằng chó này, mày chữa vết thương trên đầu ông, mày nghĩ
ông phải chịu ơn mày, có phải không? Trong bụng mày đang chửi thầm ông
chứ gì?
Trương Vô Kỵ nói: -Thế chẳng phải là lấy oán báo ân hay sao? Ta với các ngươi
không quen không biết, nếu ta không ra tay cứu cho, kỳ thương quái độc của
bốn người có khỏi được không?
Tiết Công Viễn cười: -Trương thiếu gia, chúng tôi bị thương rồi bao nhiêu cái
xấu lộ ra hết, mọi việc cậu đều nhìn thấy cả, nếu như truyền ra, người trên
giang hồ còn coi chúng tôi ra gì nữa. Hôm nay chúng tôi đói đến lả ra rồi,
không có miếng thịt bỏ vào bụng thì chắc không sống nổi. Cậu cứu người cứu
cho đến cùng, làm ơn thì làm ơn cho trót, rộng lòng cứu thêm một lần nữa.
Giản Tiệp dáng điệu hung ác trông dễ sợ thì đã đành, tên Tiết Công Viễn cười
hì hì nhưng tính tình nham hiểm, Trương Vô Kỵ vừa nhìn đã lạnh cả gáy, kêu
lớn: -Ta là đệ tử của phái Võ Đương, cô em này là phái Nga Mi, các ngươi giết
bọn ta thì được, nhưng Võ Đương ngũ hiệp và Diệt Tuyệt sư thái không lẽ
cũng bỏ qua hay sao?
Giản Tiệp kinh ngạc, “A” lên một tiếng, nghe y nói quả không sai, phái Võ
Đương và phái Nga Mi không phải tầm thường. Tiết Công Viễn cười đáp: -Ở
đây chỉ có trời biết đất biết, cậu biết tôi biết, đợi cậu vào trong bụng tôi rồi hãy
đi tố cáo với lão đạo Trương Tam Phong.
Giản Tiệp cười sằng sặc, nói: -Bụng đói đến nổ đom đóm thế này, dù ngươi có
là em ruột, con ruột thì ta cũng ăn cả xương lẫn da.
Y quay lại nói với hai tên sư đệ của Tiết Công Viễn: -Mau đi nhóm lửa đun
nước, còn đợi gì nữa?
Hai gã kia vội nhặt cái chảo ở dưới đất lên, một gã chạy ra suối lấy nước, còn
một gã thì đi chụm lửa. Trương Vô Kỵ nói: -Tiết đại gia, hai người này đằng
nào cũng chết rồi, các ông bụng đói muốn ăn thịt người, thì ăn họ đi có hơn
không?
Tiết Công Viễn cười đáp: -Hai tên này chỉ có da bọc xương, vừa già vừa dai,
vừa hôi vừa cứng, đời nào dê non không ăn, lại ăn thịt dê già?
Trương Vô Kỵ xưa nay rất là can đảm, dù có đánh y, giết y, cũng không nửa lời
xin tha, nhưng lúc này rơi vào tay kẻ ác, đang toan giết người ăn thịt, không
khỏi kinh hoảng, nên mới năn nỉ mấy câu. Tiết Công Viễn trái lại cười lên ha
hả: -Ha ha, đệ tử phái Võ Đương, phái Nga Mi trên giang hồ xưng hùng xưng
bá, hôm nay lại bị ta từng miếng từng miếng nuốt vào bụng, Trương Tam
Phong và Diệt Tuyệt lão ni biết được không tức chết thì thôi.
Trương Vô Kỵ cố gắng thu hết sức kêu lên: -Tiết đại gia, nếu các ông không ăn
thịt người không được, thì ăn tôi đi, chỉ mong các ông thả cô em này ra,
Trương Vô Kỵ này chết cũng không oán.
Tiết Công Viễn hỏi lại: -Tại sao thế?
Trương Vô Kỵ đáp: -Khi mẹ nó qua đời, có nhờ tôi đưa em bé này đến cho cha
nó. Hôm nay các ông ăn thịt tôi chắc cũng đủ no, ngày mai đi mua thịt bò thịt
dê mà ăn, tha cho cô bé này.
Giản Tiệp thấy y sắp chết không sợ, tuy tuổi còn nhỏ, nhưng quả có phong
thái hiệp nghĩa, trong lòng cũng hơi khâm phục, không khỏi động tâm, trù trừ
nói: -Nghĩ sao?
Tiết Công Viễn nói: -Tha cho con nhãi này cũng không hề gì, có điều tiết lộ
phong thanh, sau này bọn Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu tìm đến, Giản đại ca
đánh nổi họ thì làm.
Giản Tiệp gật đầu nói: -Tiết huynh đệ nói phải lắm. Ta thật là kẻ hồ đồ, không
nghĩ trước, nghĩ sau gì cả.
Nói đến đây, tên đệ tử phái Hoa Sơn đã bưng được chảo nước về, để lên lò
đun. Trương Vô Kỵ biết sự tình khẩn cấp, kêu lên: -Bất Hối muội muội, em thề
với họ sau này quyết không nói chuyện này với ai.
Dương Bất Hối ngơ ngác không hiểu khóc nói: -Đừng ăn anh Vô Kỵ, đừng ăn
anh Vô Kỵ.
Con bé không biết Vô Kỵ muốn nói gì, chỉ lờ mờ hiểu là y xả thân để cứu mình.
Người thanh niên hiên ngang từ nãy chỉ ngồi một bên, không nói không rằng.
Giản Tiệp liếc y một cái, hỏi: -Từ tiểu xá, có muốn ăn thịt dê cho lên tinh thần
không?
Ở vùng Hào Tứ, thanh niên còn trẻ gọi là tiểu xá. Thanh niên kia đáp: -Có.
Y rút trong lưng ra một con dao găm, nói: -Giết chó làm dê là nghề của mỗ.
Y để dao lên miệng cắn, một tay xách Trương Vô Kỵ, một tay xách Dương Bất
Hối, đi xăm xăm ra hướng giòng suối. Trương Vô Kỵ ngoạc mồm chửi, định ghé
răng cắn tay y, nhưng vươn không tới.
Gả thanh niên họ Từ kia đi được mươi bước, Tiết Công Viễn gọi lại: -Từ tiểu xá,
ở chỗ đó làm thịt được rồi.
Gã họ Từ quay đầu lại nói: -Ra suối mổ bụng rửa ruột tốt hơn, rửa thế mới
sạch.
Trong miệng y ngậm con dao, nói ú ớ nghe không rõ, chân vẫn không dừng
bước. Tiết Công Viễn nói: -Ta bảo ngươi ở đó, thì cứ ở đó.
Y xem ra gã họ Từ có điều gì không ổn, sợ y ăn một mình, xách hai đứa nhỏ
chạy mất. Từ tiểu xá nói nhỏ: -Chạy mau.
Y bỏ hai đứa trẻ xuống đất, lấy dao cắt dây trói cho hai người. Trương Vô Kỵ
nói: -Đa tạ đại ân cứu mạng.
Nắm tay Dương Bất Hối phóng mình bỏ chạy. Giản Tiệp và Tiết Công Viễn
cùng rống lên, phóng mình đuổi theo. Từ tiểu xá vung dao chặn ngang: -Đứng
lại.
Giản Tiệp và Tiết Công Viễn thấy y đưa dao chỉ vào ngực, đứng chắn đường uy
thế lẫm liệt, không khỏi ngạc nhiên. Giản Tiệp hét lên: -Làm gì thế?
Từ tiểu xá nói: -Bọn mình hành tẩu giang hồ mà lại hiếp đáp kẻ yếu đuối,
không sợ anh hùng thiên hạ cười cho ư?
Tiết Công Viễn giận dữ nói: -Đang đói bỏ mẹ, đến bố mẹ ruột tao cũng ăn nữa
là.
Y hét lên giơ tay ra hiệu cho hai tên sư đệ: -Đuổi theo mau, đuổi theo mau.
Trương Vô Kỵ thấy Dương Bất Hối không chạy nhanh được, vội ôm nó lên, y
vốn đã người bé chân ngắn, nay lại càng chậm hơn nữa. Giản Tiệp và Tiết
Công Viễn hai người liền rút binh khí ra, giáp công gã họ Từ. Đánh một hồi,
Giản Tiệp chém một đao trúng đùi Từ tiểu xá, lập tức máu tươi tung tóe. Từ
tiểu xá chống trả không lại, đột nhiên vung con dao lên ném luôn vào Tiết
Công Viễn. Tiết Công Viễn nghiêng người né tránh, Từ tiểu xá vội vàng bỏ
chạy. Giản Tiết hai người không đuổi theo, chạy đi đuổi bắt Trương Vô Kỵ và
Dương Bất Hối. Từ tiểu xá từ xa nói vọng lại: -Trương huynh đệ đừng sợ, ta đi
gọi thêm người đến cứu ngươi.
Giản Tiết hai người chạy lên vây, bắt trói cả Trương Vô Kỵ lẫn Dương Bất Hối
lại. Giản Tiệp trừng mắt chửi: -Tên họ Từ phản phúc, thật chẳng ra gì, các
ngươi sao lại đi chung với hắn?
Tiết Công Viễn nói: -Trên đường gặp hắn đi cùng, biết đâu được tốt hay xấu. Y
nói họ Từ, tên Từ Đạt chi đó. Ngươi đừng tin lời nói của hắn làm gì, trời sắp
tối, đi đâu mà kiếm người tới giúp hắn được.
Một tên đệ tử phái Hoa Sơn nói: -Nghe giọng hắn thì là người bản địa phủ
Phượng Dương này, chắc y đi gọi mấy người nhà quê đến, bọn mình đâu có
sợ.
Giản Tiệp cười nói: -Người ở phủ Phượng Dương, ha ha, người nào người nấy
đói nhăn răng ra. Thôi bọn mình đem nấu hai con dê này lên cho thơm, đớp
một bụng cho no đã.
Lần thứ hai bị bắt lại, Trương Vô Kỵ bị bọn chúng đánh cho mặt mũi thâm tím,
quần áo rách toang, tiền bạc vật dụng trong người rơi tung tóe. Y nghĩ thầm: –
Thì ra vị đại ca này tên là Từ Đạt, là một người bạn thật tốt, tiếc rằng mình
sắp chết đến nơi, không được kết giao với anh ta.
Y cúi đầu, thấy một cuốn sách giấy vàng lật trên mặt đất, theo gió mở ra,
chính là bộ Độc Kinh từ trong thi thể Vương Nạn Cô, nên đưa mắt nhìn, thấy
trong sách viết hai chữ “Nấm Độc”, bên dưới chữ nhỏ mô tả kỹ càng các loại
nấm độc, mùi vị, màu sắc, độc tính, từng loại khác nhau. Y trong lòng đang
hoang mang còn ghi nhớ sao được. Bỗng dưng y chợt nhìn thấy cách bốn năm
thước phía bên trái, dưới một khúc gỗ mục mọc đâu chừng một chục cái nấm,
màu sắc thật là rực rỡ, trong bụng nghĩ thầm: “Không biết đây là loại nấm gì,
chẳng biết có độc hay không? Trong Độc Kinh có viết là nấm độc thường có
màu sắc rực rỡ. Nếu những cây nấm này mà là nấm độc thì em Bất Hối có cơ
sống sót”.
Y bấy giờ không mong mình được sống, biết hàn độc trong cơ thể không dễ gì
trừ được, hôm nay có thoát chết, thì bất quá cũng chỉ sống thêm vài tháng,
nên trong lòng chỉ mong cứu được Dương Bất Hối. Y ngồi dưới đất, dùng chân
và mông nhích dần, quay tay lại nhổ hết những cây nấm đó. Lúc đó trời cũng
đã tối, cả bọn đang đói lòng, chẳng ai lưu ý đến y.
Trương Vô Kỵ bỗng nhìn về phía Từ Đạt chạy đi, nhảy phắt lên, kêu lớn: -Từ
đại ca, anh mang người đến đấy à. Cứu mạng, cứu mạng.
Bọn Giản Tiệp tưởng thật, cả bốn người liền rút binh khí ra, đứng cả dậy.
Trương Vô Kỵ thừa lúc bọn kia nhìn về hướng khác, lùi lại hai bước, thả mấy
cây nấm vào trong chảo. Bọn Giản Tiệp không thấy ai, liền chửi: -Đồ chó đẻ,
bộ mày điên hay sao chứ có ai đến cứu mày.
Tiết Công Viễn nói: -Thôi khai đao đi, ai ra tay đây?
Giản Tiệp nói: -Để ta giết con bé con, còn ngươi giết thằng nhỏ.
Nói xong y liền xách Dương Bất Hối lên. Trương Vô Kỵ nói: -Tiết đại gia, tôi
khát nước quá, ông cho tôi uống một bát nước nóng, tôi chết đi không thành
quỉ quấy phá ông.
Tiết Công Viễn cười đáp: -Được, uống bát nước thì có gì không được?
Y liền múc một bát nước đưa cho y. Bát nước chưa tới miệng, Trương Vô Kỵ đã
lên tiếng khen: -Thơm quá, thơm quá.
Mấy cây nấm này nấu trong nước nóng, quả thực thơm phức. Tiết Công Viễn
vốn đã đói meo, ngửi thấy mùi canh nấm, liền không cho Trương Vô Kỵ uống
nữa, tự mình uống luôn, lè lưỡi liếm môi, nói: -Ngon quá là ngon.
Lại uống thêm một bát nữa. Giản Tiệp cũng xông tới, uống một tô lớn, chưa
đủ, lại làm thêm một bát nữa. Hai người đệ tử phái Hoa Sơn cũng uống mỗi
người hai bát. Cả bọn đang đói, được mấy bát canh nóng vào bụng đều cảm
thấy khỏe khoắn hẳn lên. Giản Tiệp còn vớt mấy tai nấm trong chảo ra, ăn
nhồm nhoàm. Chẳng ai hỏi đến những cây nấm đó từ đâu mà có.
Giản Tiệp ăn hết mấy cây nấm rồi, giơ tay vỗ bụng, cười nói: -Ăn lót lòng
trước, ăn thịt dê sau.
Tay trái nắm gáy Dương Bất Hối nhắc lên, tay phải giơ dao ra. Trương Vô Kỵ
thấy cả bọn uống canh nấm xong chẳng sao cả, nghĩ thầm nấm này không
độc, không khỏi kêu khổ thầm. Giản Tiệp bước tới hai bước, bỗng kêu lên: -Ối
chà.
Thân hình giật giật mấy cái, ngã khuỵu xuống đất, vứt luôn cả dao lẫn Dương
Bất Hối sang một bên. Tiết Công Viễn kinh hãi gọi: -Giản huynh, sao thế?
Y chạy đến cúi xuống xem, vừa mới cong lưng thì cũng không đứng lên được,
gục luôn lên trên mình Giản Tiệp. Hai gã đệ tử phái Hoa Sơn cũng bị trúng độc
chết luôn.
Trương Vô Kỵ kêu lên: -Tạ trời tạ đất.
Lăn đến bên con dao, thò tay chộp lấy, cắt dây trói cho Dương Bất Hối. Dương
Bất Hối run rẩy, cắt trúng tay Vô Kỵ hai chỗ mới đứt được sợi dây. Hai người
chết đi sống lại, vui sướng không cùng, ôm chặt lấy nhau. Một lúc sau, Vô Kỵ
đi lại coi bốn người bọn Giản Tiệp, thấy người nào mặt cũng đen xì, bắp thịt co
quắp, nằm chết trông thật đáng sợ, nghĩ thầm: “Độc vật giết được kẻ ác, cũng
cứu được người lành”. Liền đem bộ Vương Nạn Cô Độc Kinh trân trọng cất vào
trong bọc, định bụng sau này sẽ từ từ nghiên cứu.
Trương Vô Kỵ dắt tay Dương Bất Hối tìm đường ra khỏi khu rừng. Còn đang
lần mò, bỗng thấy phía đông có ánh lửa chiếu sáng, có bảy tám người tay cầm
binh khí, xông xông đi tới. Trương Dương hai đứa vội chui vào trong cỏ lẩn
trốn. Bọn người đó đi tới gần, thấy người đi đầu chính là Từ Đạt, tay trái giơ
cao bó đuốc, tay phải cầm một cây giáo dài, lớn tiếng kêu lên: -Bọn ác tặc
thương thiên hại lý ăn thịt người kia, mau ra đây nạp mạng.
Cả bọn chạy vào trong rừng thấy bốn người bọn Giản Tiệp nằm chết dưới đất,
đều thật kinh ngạc. Từ Đạt kêu lên: -Trương huynh đệ, chú mày có sao không?
Bọn ta đến cứu ngươi đây.
Trương Vô Kỵ kêu lên: -Từ đại ca, tôi ở đây.
Y từ trong bụi cỏ chui ra. Từ Đạt mừng lắm, vội bế y lên, nói: -Trương huynh
đệ, người hiệp nghĩa như chú mày, không nói gì trẻ con, mà đến người lớn
cũng ít thấy. Ta vẫn sợ chú mày đã chết về tay bọn ác tặc này rồi, may sao ở
hiền gặp lành, ở ác gặp ác, quả thực báo ứng không sai.
Y hỏi xem bọn Giản Tiết tại sao trúng độc, Trương Vô Kỵ liền kể chuyện bỏ
nấm vào nồi nước, ai nấy đều phục y thông minh. Từ Đạt nói: -Những người
này đều là bạn tốt của ta, bọn họ đang giết một con bò, đang nấu trong chùa
Hoàng Giác, ta đến gọi liền đi ngay. Thế nhưng nếu không phải Trương huynh
đệ cơ trí, bọn ta đến thì cũng đã muộn rồi.
Sau đó đưa Trương Vô Kỵ đi giới thiệu từng người. Người mặt vuông tai lớn kia
tên Thang Hòa, người anh khí phơi phới tên Đặng Dũ, người cao gầy mặt đen
tên Hoa Vân, hai anh em trắng trẻo là Ngô Lương và Ngô Trinh. Sau cùng là
một nhà sư, mặt mũi xấu xí, cằm đưa ra như lưỡi cày, mặt nổi từng cục đầy
sẹo và nốt ruồi, hai mắt sâu nhưng lấp lánh có thần. Từ Đạt nói: -Vị này là Chu
đại ca, tên Nguyên Chương, hiện nay đang tu ở chùa Hoàng Giác.
Hoa Vân cười: -Nhưng hòa thượng này phong lưu khoái hoạt lắm, không thích
tụng kinh lễ Phật, ngày nào cũng ăn nhậu.
Dương Bất Hối thấy tướng mạo xấu xí của Chu Nguyên Chương, sợ hãi, trốn ở
sau lưng Vô Kỵ. Chu Nguyên Chương cười nói: -Hòa thượng này hay ăn thịt
nhưng không ăn thịt người, cô em đừng sợ.
Thang Hòa nói: -Nồi thịt bò bọn mình nấu chắc giờ này chín rồi đó.
Hoa Vân nói: -Đi mau lên, cô em. Để ta cõng.
Y liền cõng Dương Bất Hối hối hả rảo bước. Trương Vô Kỵ thấy những người
này hào sảng nhanh nhẹn, trong lòng hết sức thích thú. Đi độ bốn năm dặm
thì đến một cái miếu. Vào trong đại sảnh, đã ngửi thấy mùi thịt bò thơm phức.
Ngô Lương kêu lên: -Chín rồi, chín rồi.
Từ Đạt nói: -Trương huynh đệ, ngươi ngồi đây nghỉ, để bọn ta vào lấy thịt bò
ra.
Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối liền ngồi trên cái chiếu ngoài đại sảnh. Chu
Nguyên Chương, Từ Đạt, Thang Hòa, Đặng Dũ … bảy người mỗi người một
tay, bưng từng bát thịt lớn ra. Hai anh em Ngô Lương, Ngô Trinh thì đi lấy một
vò rượu trắng, cả bọn ngồi ngay trước tượng Bồ Tát ăn nhậu. Vô Kỵ và Bất Hối
đói đã mấy ngày, lúc này có thịt bò ăn, không nói cũng biết sướng là chừng
nào. Hoa Vân nói: -Từ đại ca, giáo qui của chúng ta cái gì cũng hay, thế nhưng
mà không cho ăn thịt, xem ra có điểm không phải.
Trương Vô Kỵ trong lòng rung động, nghĩ thầm: “Thì ra bọn họ thuộc Minh
giáo. Qui củ của Minh giáo chỉ ăn chay, thờ Ma vương, vậy sao họ lại ở đây ăn
thịt bò”.
Từ Đạt nói: -Đệ nhất yếu nghĩa của giáo qui là “hành thiện khứ ác”, ăn thịt tuy
không tốt, nhưng chỉ là sau cùng. Hiện giờ đây mình không gạo không rau,
không lẽ ngồi nhìn thịt bò mà chịu chết đói hay sao?
Đặng Dũ vỗ tay reo lên: -Từ đại ca trước nay nói gì cũng đều đúng cả, thôi
mình ăn đi, ăn đi.
Cả bọn đang ăn, bên ngoài bỗng có tiếng chân người, tiếp theo có người gõ
cửa. Thang Hòa nhỏm dậy kêu lên: -Bỏ cha, người nhà Trương viên ngoại tìm
đến đây rồi.
Chỉ thấy cửa miếu bị người đẩy mở toang ra, hai tên đầy tớ ưỡn ngực sừng sộ
đi vào. Một tên nói: -Giỏi nhỉ, con bò đực của nhà viên ngoại, quả nhiên bọn
bay ăn trộm về làm thịt rồi.
Nói rồi y xông tới nắm cổ Chu Nguyên Chương. Tên kia nói: -Tên tặc hòa
thượng này, hôm nay chứng cớ rành rành, hết chối nhé. Để ta giải ngươi lên
quan phủ, đánh một trận cho chết luôn.
Chu Nguyên Chương cười đáp: -Các ngươi chỉ nói láo thôi, sao dám vu cho bọn
ta ăn trộm bò của nhà viên ngoại? Người xuất gia ăn chay niệm Phật, ngươi lại
bảo ta ăn thịt, thật là tội lỗi.
Gã đầy tớ chỉ thịt bò trong bát, quát lên: -Cái này không phải thịt bò thì là cái
gì?
Chu Nguyên Chương đưa mắt cho những người kia, cười hì hì nói: -Ai bảo là
thịt bò?
Hai anh em Ngô Trinh, Ngô Lương đi đến đằng sau hai tên đầy tớ, quát lên
một tiếng, nắm chặt tay của hai tên này. Chu Nguyên Chương lấy trong lưng
ra một con dao ngắn, cười: -Hai vị đại ca, quả không dám giấu., thịt bọn ta
đang ăn không phải thịt bò, mà là thịt người. Hôm nay bọn ngươi thấy rồi,
đành phải ăn thịt luôn cả hai để diệt khẩu, khỏi tiết lộ ra ngoài.
Nghe xoẹt một tiếng, y đã xé rách áo của một tên gia nhân, để lộ ngực ra,
dùng mũi dao rạch một đường. Tên đầy tớ kinh hãi, luôn mồm kêu: -Tha …
tha cho tôi …
Chu Nguyên Chương bốc một nắm thịt, chia ra nhét vào mồm hai tên này,
quát: -Nuốt mau.
Hai đứa không dám nhai, trợn trạo nuốt xuống bụng. Chu Nguyên Chương lại
chạy xuống bếp, lấy thêm một nắm lông bò, nhét vào mồm chúng, quát: -Nuốt
ngay.
Hái đứa lại nhăn nhó nuốt cho hết. Chu Nguyên Chương cười: -Cho các ngươi
về nói lại với viên ngoại là bọn ta ăn cắp con bò, cả bọn mổ bụng đối chất, để
xem ai ăn thịt bò mà không chịu nhổ cho sạch lông.
Y lật con dao, dùng sống dao lướt nhẹ trên bụng tên đầy tớ. Tên đó thấy con
dao lạnh như băng lướt trên bụng, sợ quá kêu toáng lên.
Hai anh em họ Ngô cười lên ha hả, giơ chân đạp vào mông hai tên đầy tớ, đá
văng ra bên ngoài điện. Cả bọn yên tâm ngồi ăn tiếp, cười hai tên đầy tớ mua
lấy cái khổ, bình thời hay ỷ thế Trương viên ngoại, hà hiếp dân làng, nay sợ bị
mổ bụng đối chất, hẳn không dám nói lại là bọn họ ăn cắp bò.
Trương Vô Kỵ vừa tức cười, vừa bội phục, nghĩ thầm: “Hòa thượng họ Chu này
tuy diện mạo khó coi, nhưng hành sự thật là nhanh nhẹn quả quyết, chế phục
người khác không sao chống trả được, thủ đoạn quả là ghê gớm”.
Chu Nguyên Chương đã nghe Từ Đạt nói qua, Trương Vô Kỵ xả thân chịu chết
để cứu Dương Bất Hối, cảm mến cái tính tình hiệp nghĩa của cậu bé, không
giống như những trẻ con bình thường, nên rót rượu mời ăn, coi y chẳng khác
gì một người bạn thân.
Ăn uống đến khi say sưa, Đặng Dũ bỗng thở dài: -Người Hán chúng ta bị bọn
rợ Hồ áp bức, trăm cay nghìn đắng, đến nay cơm không có mà ăn, cảnh này
làm sao chịu cho nổi?
Hoa Vân vỗ đùi: -Mắt thấy dân chúng ở phủ Phượng Dương này chết đói đến
một nửa rồi, xem ra thiên hạ chỗ nào cũng thế, chẳng lẽ giương mắt chịu chết
đói, thà bằng sống mái một trận với bọn Thát tử còn hơn.
Từ Đạt lớn tiếng nói: -Hiện nay người giết người như giết con chó, chú em và
cô bé này suýt nữa thì vào bụng người khác rồi. Trong thiên hạ biết bao nhiêu
lương dân bách tính biến thành dê thành bò cho người khác ăn? Là kẻ nam tử
Hán, đại trượng phu không biết cứu dân chúng ra khỏi nơi nước lửa, có sống
cũng bằng thừa.
Thang Hòa nói: -Đúng thế, hôm nay bọn mình hên, ăn cắp được một con bò
mà ăn, ngày mai chắc gì đã trộm được con khác? Nói đúng ra, trên đời nay
chẳng mấy ai đủ ăn, chẳng lẽ anh hùng hào kiệt ai ai cũng thành trộm cướp
cả hay sao?
Cả bọn càng nói càng phẫn uất, ai cũng lớn tiếng chửi bọn Mông Cổ hại người.
Chu Nguyên Chương nói: -Bọn mình ngồi đây chửi ngàn câu, vạn câu liệu bọn
Thát tử có rụng cái lông nào không? Là Hán tử có lòng thì kéo nhau đi giết
chúng mới hay.
Thang Hòa, Đặng Dũ, Hoa Vân, anh em họ Ngô cả bọn đều đồng thanh kêu
lên: -Đi, đi ngay.
Từ Đạt nói: -Chu đại ca, anh làm hòa thượng xem không còn ổn nữa rồi. Đại
ca tuổi lớn hơn cả, tất cả anh em nghe lệnh anh.
Chu Nguyên Chương không từ chối, nói: -Từ nay trở đi anh em mình đồng sinh
cộng tử, có phúc cùng hưởng, có nạn cùng chịu.
Cả bọn đều bưng chén lên uống cạn, rút dao chém lên bàn, hào khí ngất trời.
Dương Bất Hối thấy mọi người làm như thế không biết chuyện gì, trong lòng
sợ hãi. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Thái sư phụ vẫn thường căn dặn đừng nên
kết giao với người của Ma giáo. Thế nhưng Thường đại ca và bọn Từ đại ca
này đều là người Ma giáo, so với bọn đệ tử danh môn chính phái như Giản
Tiệp, Tiết Công Viễn, lại tốt gấp vạn lần”. Y trước nay đối với Trương Tam
Phong hết sức kính phục, thế nhưng từ khi có những kinh lịch bản thân, thấy
thái sư phụ đối với người Ma giáo không khỏi thiên kiến. Tuy vậy y vẫn không
dám trái lời dạy của thái sư phụ.
Chu Nguyên Chương nói: -Hảo hán tử nói là làm, bây giờ mình ăn no rồi, hành
sự là vừa. Nhà Trương viên ngoại hôm nay làm tiệc thết đãi bọn Thát tử, bọn
mình tới đó giết sạch chúng đi.
Hoa Vân nói: -Được lắm.
Nói xong cầm đao đứng lên. Từ Đạt nói: -Khoan đã,.
Y chạy xuống bếp lấy một cái giỏ, bỏ vào mười bốn, mười lăm cân thịt bò chín,
đưa cho Trương Vô Kỵ: -Trương huynh đệ, chú em tuổi còn nhỏ, không thể
theo bọn ta đi làm công việc giết quan tạo phản được. Anh em ta ai cũng
nghèo rớt mồng tơi, không có tiền bạc gì, đành tặng cho chú em vài cân thịt.
Nếu như anh em bọn ta không chết, sau này sẽ gặp lại nhau, mình sẽ lại cùng
nhau chén một bữa thịt bò.
Trương Vô Kỵ cầm lấy cái giỏ, nói: -Chỉ mong các vị kiến lập đại công, đuổi
sạch bọn Thát tử, để cả thiên hạ ai cũng có cơm ăn.
Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thang Hòa, Đặng Dũ cả bọn nghe thế, ai nấy vỗ
tay khen ngợi, nói: -Trương huynh đệ, chú mày nói đúng lắm, bọn mình sẽ gặp
nhau sau.
Nói xong cả bọn xách đao cùng ra khỏi miếu. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Bọn
họ đi giết Thát tử, nếu như mình không bận dẫn tiểu muội tử, thì cũng đi theo
họ rồi. Tuy nhiên họ chỉ có bảy người, ắt sẽ vào thế ít không chống được
nhiều, thể nào bọn Thát tử và tráng đinh trong nhà Trương viên ngoại cũng sẽ
đuổi đến đây, mình không thể ở cái miếu này được nữa”. Nghĩ thế y bèn xách
giỏ thịt cùng Dương Bất Hối ra đi.
Trong đêm tối hai đứa trẻ đi được độ bốn năm dặm, thấy phương bắc lửa hồng
rực cả một góc trời, thế thật ác liệt, biết bọn Chu Nguyên Chương, Từ Đạt đã
làm xong việc, đốt trang viện của Trương viên ngoại rồi, trong lòng rất vui vẻ.
Đêm hôm đó hai anh em ngủ trong núi, đến sáng thì theo hướng tây mà đi.
Hai đứa trẻ đi đường xa phải chịu biết bao phong sương đói rét, nói sao cho
hết. Cũng may cha mẹ Dương Bất Hối đều là danh gia võ học, thể chất tiên
thiên khỏe mạnh, tuy nhỏ thế mà đi đường xa cũng không bệnh tật gì, thỉnh
thoảng cảm mạo sơ sài, Trương Vô Kỵ hái ít thảo dược, cho nó uống là hết
ngay. Thế nhưng hai đứa vừa đi vừa nghỉ, mỗi ngày chỉ được hai ba chục dặm,
mười lăm mười sáu ngày, mới đến địa phận tỉnh Hà Nam. Tỉnh Hà Nam so với
An Huy cũng không khác gì bao nhiêu, chỗ nào cũng đói khổ. Trương Vô Kỵ
làm một bộ cung tên, bắn chim săn thú, bữa đói bữa no, cùng Dương Bất Hối
chầm chậm đi về hướng tây.
Cũng may trên đường hai đứa không gặp quan binh Mông Cổ, cũng không gặp
nhân vật giang hồ, còn như bọn vô lại gian manh tầm thường có ý muốn cướp
đoạt thì đâu phải là đối thủ của Trương Vô Kỵ.
Một hôm y gặp một ông già đứng nói chuyện chơi, nói định đi đến ngọn Tọa
Vong Phong trong dãy Côn Lôn. Ông già trợn tròn mắt, kinh ngạc đến thừ
người ra, nói: -Này chú em, núi Côn Lôn cách đây đến mười vạn tám nghìn
dặm, nghe nói ngày xưa chỉ có Đường tăng đi thỉnh kinh, mới đi đến đó thôi.
Hai đứa còn nhỏ, liệu có điên không? Cửa nhà các ngươi ở chỗ nào mau mau
đi về.
Trương Vô Kỵ nghe nói thế không khỏi sờn lòng, nghĩ thầm: “Núi Côn Lôn ở xa
thế, làm sao mình đến đó được, đành phải đi về núi Võ Đương gặp thái sư phụ
rồi hãy hay”. Thế nhưng y lại nghĩ: “Ta nhận trọng thác của người, dù đường
có xa, không thể giữa đường bỏ cuộc. Thọ mệnh của ta không được bao lâu
nữa, nếu trước khi chết không đưa được em Bất Hối đến nơi thì quả là không
phải đối với Kỷ cô cô”. Y không nói chuyện thêm với ông già đó nữa, cầm tay
Dương Bất Hối lên đường đi tiếp.
Lại đi thêm hai mươi ngày nữa, quần áo hai đứa trẻ đã rách bươm, mặt mày
tiều tụy. Cái khổ nhất của Vô Kỵ là thỉnh thoảng Dương Bất Hối lại nhớ mẹ, hỏi
sao mãi mẹ nó không từ trên trời bay xuống, lại khóc một hồi lâu. Trương Vô
Kỵ phải dùng đủ cách cho nó tin là cứ đi mãi về hướng tây là sẽ gặp mẹ, rồi kể
chuyện cho nó nghe, nhăn mặt làm hề, con bé mới đổi khóc thành cười.
Hôm đó khi đến Trú Mã Điếm[1], đã đến thời cuối thu đầu đông, gió bấc thổi
đến, hai đứa trẻ quần áo mỏng manh, không khỏi lạnh run. Trương Vô Kỵ cởi
chiếc áo ngoài rách nát ra cho Dương Bất Hối mặc thêm. Dương Bất Hối nói: –
Vô Kỵ ca ca, anh không lạnh ư?
Trương Vô Kỵ nói: -Anh không lạnh, nóng thì có.
Y nhảy lên nhảy xuống mấy cái. Dương Bất Hối nói: -Anh tử tế với em quá.
Anh cũng lạnh mà lại cởi áo cho em mặc.
Con bé tự nhiên nói một câu như người lớn khiến Trương Vô Kỵ không khỏi
ngạc nhiên. Ngay lúc đó, bỗng nghe từ triền núi phía sau truyền đến tiếng
binh khí giao đấu loảng xoảng, tiếp theo là tiếng chân người, một người đàn
bà lên tiếng: -Ác tặc, ngươi trúng phải Táng Môn Đinh có tẩm độc của ta rồi,
càng chạy nhanh thì càng mau phát tác.
Trương Vô Kỵ vội vàng kéo tay Dương Bất Hối chui vào trong đám cỏ bên
đường nằm xuống, thấy một tráng hán chừng ba mươi tuổi chạy đến, đằng
sau vài trượng có một người đàn bà cầm song đao đuổi theo. Người đàn ông
chân hơi khập khiễng, đột nhiên quị xuống, ngã lăn ra đất. Người đàn bà đuổi
tới nơi, kêu lên: -Cuối cùng rồi ngươi cũng chết dưới tay cô nương.
Hán tử từ dưới đất bỗng nhảy vọt lên, chưởng phải đánh ra, nghe bịch một cái
trúng ngay ngực cô gái. Cú đánh đó lực đạo cương mãnh, cô gái kia liền ngã
ngửa ra, hai thanh đao trong tay văng ra xa. Người đàn ông liền rút Táng Môn
Đinh cắm trên lưng mình ra, hậm hực nói: -Mau lấy giải dược ra.
Người con gái cười khẩy: -Lần này sư phụ sai bọn ta đuổi bắt ngươi, chỉ đưa
ám khí tẩm độc, không cho thuốc giải. Ta bị rơi vào tay ngươi, làm gì cũng phải
chịu. Có điều ngươi không có hi vọng gì sống được đâu.
Hán tử nọ lấy tay trái cầm đao chỉ ngay yết hầu cô gái, tay phải mò trong túi
áo kiếm, quả nhiên không thấy thuốc giải. Y tức giận lắm, cầm cái Táng Môn
Đinh có tẩm độc kia ném mạnh, cắm sâu vào vai cô gái, quát lên: -Để cho
ngươi thưởng thức mùi vị của chất độc Táng Môn Đinh, phái Côn Lôn các
ngươi …
Câu nói chưa dứt, thuốc độc trên lưng phát tác, người nhũn ra nằm phịch
xuống. Cô gái kia cố gượng đứng dậy, nhưng ọe một tiếng thổ ra một ngụm
máu tươi, rồi lại ngồi bệt xuống, rút Táng Môn Đinh trên vai ra vứt xuống đất.
Một trai một gái nằm trên bãi cỏ bên cạnh đường, hô hấp khó khăn, ho liên
tiếp. Trương Vô Kỵ từ khi chữa bệnh cho Giản Tiệp, Tiết Công Viễn lại gặp ác
báo đến giờ, đối với người trong võ lâm có lòng dè dặt, lúc này nằm một bên
quan sát động tĩnh, không dám thò đầu ra. Một lát sau, nghe người đàn ông
thở dài một tiếng, nói: -Tô Tập Chi này hôm nay táng mệnh ở Trú Mã Điếm,
không biết có tội gì với phái Côn Lôn các ngươi, quả thật chết không nhắm
mắt được. Các ngươi đuổi theo ta đến mấy ngàn dặm, không giết ta không
xong, cũng vì cớ gì thế? Chiêm cô nương, cô có lòng tốt nói cho tôi nghe nào.
Lời nói xem ra không có gì thù hằn nhau cả. Cô gái kia tên Chiêm Xuân biết sự
ghê gớm của chất độc trên Táng Môn Đinh, trước mắt thấy mình với y cả hai
cùng chết, bao nhiêu oán thù đều tan ra mây khói, buồn bã nói: -Ai bảo ngươi
coi lén sư phụ ta luyện kiếm, pho Côn Lôn Lưỡng Nghi Kiếm đó nếu không phải
do đích thân lão nhân gia truyền thụ, bản môn đệ tử mà nhìn trộm cũng đã bị
tội móc mắt rồi, huống chi là người ngoài.
Tô Tập Chi “A” lên một tiếng, nói: -Con mẹ nó, đáng chết lắm, đáng chết lắm.
Chiêm Xuân giận dữ nói: -Ngươi chết đầu nước rồi, sao còn dám chửi sư phụ
ta?
Tô Tập Chi nói: -Ta chửi thì đã sao? Thế không phải oan uổng ư? Ta trên
đường đi qua núi Bạch Ngưu, vô ý thấy sư phụ cô luyện kiếm, lấy làm hiếu kỳ
mới đứng coi một lúc. Không lẽ ta chỉ nhìn một lát mà đã học hết pho kiếm
pháp ấy hay sao? Nếu tôi thực có chút tài cán, mấy đệ tử Côn Lôn làm gì được
nào? Chiêm cô nương, để tôi nói cô nghe này, sư phụ cô Thiết Cầm tiên sinh
bụng dạ nhỏ nhen quá, không nói chuyện tôi chưa học được một chiêu nửa
thức nào trong Côn Lôn Lưỡng Nghi Kiếm, mà dù có học được vài chiêu cũng
không thể coi là tử tội được.
Chiêm Xuân lặng yên không nói nhưng trong bụng cũng thấy sư phụ quả là
chuyện bé xé ra to, chỉ mới thấy Tô Tập Chi lén coi kiếm pháp liền phái sáu đệ
tử đuổi theo hàng nghìn dặm giết cho bằng được, để đến tình trạng lưỡng bại
câu thương, sự đến thế này quả thật y không còn nói láo làm gì, việc y không
học lén võ công có lẽ là sự thật.
Tô Tập Chi nói tiếp: -Ông ta đưa cho các ngươi ám khí tẩm thuốc độc, lại
không cho giải dược, trong võ lâm làm gì có qui củ đó? Con mẹ nó …
Chiêm Xuân nhỏ nhẹ nói: -Tô đại ca, tiểu muội hại đại ca, lúc này trong bụng
quả thật là hối hận, nhưng chính tiểu muội cũng chết theo, âu cũng là cái số.
Chỉ khổ cho trong nhà anh, bà chị cùng các cháu, cái đó mới đáng kể.
Tô Tập Chi thở dài: -Vợ tôi hai năm trước qua đời rồi, để lại hai đứa con một
trai một gái, một đứa lên sáu, một đứa lên bốn, ngày mai là thành mồ côi
không cha không mẹ rồi.
Chiêm Xuân hỏi: -Thế trong nhà còn ai nữa không? Có ai chăm sóc cho hai đứa
nhỏ không?
Tô Tập Chi nói: -Hiện nay thì bà chị dâu tôi trông nom. Bà chị dâu tôi tính tình
dữ tợn, điêu ngoa lắm, còn tôi thì còn e ngại vài phần. Ôi, từ nay hai đứa trẻ
chắc sẽ khốn khổ lắm.
Chiêm Xuân nói nhỏ: -Âu cũng tại em gây ra cái tội nghiệt này.
Tô Tập Chi lắc đầu: -Cái đó cũng không trách cô được. Cô phụng nghiêm lệnh
của sư môn, không thể không tuân theo, chính cô cũng chẳng có oán cừu gì
với tôi cả. Đúng ra, tôi trúng ám khí tẩm độc của cô rồi, chết thì đã đành, tại
sao lại còn đánh cô một chưởng, lại dùng ám khí đả thương cô? Nếu không tôi
cứ tình thực nói ra, cô có lòng tốt, sẽ có cách lo liệu cho hai đứa con khốn khổ
của tôi.
Chiêm Xuân cười buồn: -Tôi là hung thủ làm chết anh, sao anh còn nói tôi có
lòng tốt.
Tô Tập Chi nói: -Tôi không trách gì cô đâu, thực đó, không trách gì đâu.
Mới hồi nãy hai người xả thân ác đấu, bây giờ cùng sắp chết đến nơi, lưu
luyến cuộc đời nên nói ra toàn điều nhân thiện. Trương Vô Kỵ nghe đến đây,
nghĩ thầm: “Một nam một nữ này xem chừng tâm địa không ác độc, huống chi
trong nhà gã họ Tô kia còn hai đứa trẻ con”. Nghĩ đến mình và Dương Bất Hối
là hai đứa trẻ mồ côi khổ sở, liền từ trong đám cỏ chui ra, nói: -Chiêm cô
nương, trên Táng Môn Đinh của cô tẩm loại thuốc độc gì?
Chiêm Xuân và Tô Tập Chi hai người bỗng thấy trong bụi cỏ chui ra một thiếu
niên, một cô gái nhỏ, lấy làm kỳ quái, nghe Trương Vô Kỵ hỏi như thế đều kinh
ngạc. Trương Vô Kỵ nói: -Tôi biết chút y lý, vết thương trúng độc của hai vị,
chưa hẳn không thể cứu được đâu.
Chiêm Xuân nói: -Loại độc dược gì, tôi cũng không biết. Vết thương lúc này
ngứa chịu không nổi. Sư phụ tôi nói rằng, trúng Táng Môn Đinh rồi, chỉ còn
sống được bốn giờ thôi.
Trương Vô Kỵ nói: -Để tôi xem vết thương ra sao.
Tô Chiêm hai người thấy y tuổi nhỏ, quần áo rách rưới, toàn thân dơ dáy,
trông không khác gì một thằng ăn mày con, làm sao tin rằng y có thể trị độc.
Tô Tập Chi sẵng giọng nói: -Hai người chúng tôi chỉ còn khoảnh khắc là chết
rồi, trẻ con đừng ở đây làm phiền nhiễu, mau cút ra xa xa đi.
Trương Vô Kỵ không thèm để ý tới y, nhặt chiếc Táng Môn Đinh ở dưới đất lên,
đưa lên mũi thấy có mùi thơm nhè nhẹ như hoa lan. Trong mấy hôm nay, trên
đường đi mỗi khi có thì giờ rảnh rỗi, đều ngồi đọc quyển Độc Kinh của Vương
Nạn Cô để lại, nên các loại độc vật độc dược thiên kỳ bách quái trong thiên hạ
đều ghi nhớ trong lòng. Thành thử khi y vừa ngửi thấy mùi hương, biết ngay
trên mũi Táng Môn Đinh này có tẩm chất nước độc lấy từ hoa Thanh Đà La.
Trong Độc Kinh có viết loại trấp dịch lấy từ loại hoa này vốn dĩ tanh hôi, không
có độc tính, dù uống cả bát cũng không có hại, thế nhưng khi trộn với máu
tươi sẽ trở thành kịch độc, mùi hôi lại biến thành mùi thơm. Y liền nói: -Đinh
này tẩm chất độc của hoa Thanh Đà La.
Chiêm Xuân cũng không biết trên mũi Táng Môn Đinh có tẩm loại độc dược gì,
thế nhưng nàng biết trong vườn của sư phụ quả có trồng loại kỳ hoa này nên
lạ lùng hỏi: -Ồ, sao cậu biết?
Nên biết hoa Thanh Đà La rất là khó thấy, gốc ở Tây Vực xưa nay không hề có
nơi trung thổ. Trương Vô Kỵ gật đầu, nói: -Tôi biết chứ.
Y cầm tay Dương Bất Hối, nói: -Chúng tôi đi đây.
Chiêm Xuân vội gọi: -Tiểu huynh đệ, nếu cậu biết cách chữa, xin cậu ra tay
cứu hai người chúng tôi.
Trương Vô Kỵ vốn dĩ có lòng muốn cứu, nhưng bỗng nhớ tới khuôn mặt hung
ác của bọn Giản Tiệp, Tiết Công Viễn khi định ăn thịt hai đứa, không khỏi chần
chừ. Tô Tập Chi nói: -Tiểu tướng công, tại hạ có mắt không biết cao nhân, xin
đừng bắt lỗi.
Trương Vô Kỵ nói: -Được rồi, để tôi thử xem sao.
Y lấy kim châm, châm vào huyệt Đản Trung ở trên ngực, và huyệt Khuyết Bồn
ở hai bên vai của Chiêm Xuân, để chặn cơn đau chưởng thương rồi nói: -Hoa
Thanh Đà La này gặp máu mới thành độc, vào trong bụng lại không sao. Hai vị
bây giờ người nọ hút máu ở vết thương cho người kia, bao giờ trong máu
không còn đóng cục nữa thì thôi.
Tô Tập Chi và Chiêm Xuân cả hai đều thấy hơi bất tiện, nhưng lúc này tính
mệnh là quan trọng, vết thương lại ở trên vai, sau lưng không thể tự mình hút
lấy được đành phải thay phiên người nọ hút máu cho người kia. Trương Vô Kỵ
đi tìm trong sườn núi ba loại thảo dược, nhai nhuyễn rồi đắp lên vết thương
cho hai người, nói: -Ba vị thuốc này chỉ giúp chất độc tạm thời không xông lên
chứ không có thể giải độc. Bây giờ mình đi đến thị trấn nào gần đây, tìm dược
phòng, tôi sẽ kê toa để liệu độc cho hai vị.
Vế thương của Tô Chiêm vốn dĩ cực kỳ ngứa ngáy không chịu nổi, nay đắp
thuốc lên, thấy mát mẻ dễ chịu, tay chân cũng hết tê bại, nên luôn mồm cám
ơn. Hai người chặt hai cành cây làm gậy chống, chầm chậm bước đi. Chiêm
Xuân hỏi sư thừa lai lịch của Trương Vô Kỵ, Trương Vô Kỵ không muốn nói rõ,
chỉ nói từ bé đã biết qua thuốc men.
Đi độ hơn một tiếng đồng hồ thì đến Sa Hà Điếm, bốn người thuê phòng nghỉ
ngơi. Trương Vô Kỵ viết một cái toa, Tô Tập Chi liền nhờ người chủ phòng đi
cắt thuốc. Năm đó một dải Dự Tây không bị thiên tai, tuy người Mông Cổ có bá
đạo tàn nhẫn không khác gì các nơi, nhưng dân chúng cũng còn cơm ăn, Sa
Hà Điếm vì thế hàng quán vẫn mở như thường. Người chủ quán đem thuốc
về, Trương Vô Kỵ liền sắc lên, cho Tô Tập Chi và Chiêm Xuân uống.
Bốn người ở tại khách điếm ba ngày, Trương Vô Kỵ mỗi ngày lại đổi toa thuốc,
trong uống ngoài thoa, đến ngày thứ tư, chất độc trong người Tô, Chiêm đã
trục ra hết. Hai người hết sức cảm kích, hỏi thăm Trương Vô Kỵ và Dương Bất
Hối đang định đi đâu. Trương Vô Kỵ liền nói địa danh Tọa Vong Phong trong
dãy núi Côn Lôn.
Chiêm Xuân nói: -Tô đại ca, tính mạng của hai người mình toàn do vị tiểu
huynh đệ này cứu, thế nhưng năm người sư huynh vẫn đi khắp nơi tìm anh,
thành thử việc này chưa xong đâu. Vậy đại ca đi theo tôi lên núi Côn Lôn một
phen, anh nghĩ sao?
Tô Tập Chi giật mình kinh hãi, nói: -Lên núi Côn Lôn ư?
Chiêm Xuân nói: -Đúng thế. Anh đi cùng với tôi đến bái kiến gia sư, nói rõ anh
chưa hề học được một chiêu nửa thức nào của Côn Lôn Lưỡng Nghi Kiếm cả.
Việc này nếu không được chính lão nhân gia tha thứ, đời anh sau này họa
hoạn không biết đâu mà lường.
Tô Tập Chi trong bụng tức giận, nói: -Phái Côn Lôn các ngươi thật chèn ép
người quá lắm, ta chỉ mới nhìn qua một chút, vậy mà suýt nữa đến quỉ môn
quan, thế mà cũng vẫn chưa xong.
Chiêm Xuân dịu dàng nói: -Tô đại ca, xin anh đặt mình vào tình cảnh của tiểu
muội mà tha thứ cho. Việc em về nói với sư phụ là anh thực sự chưa học được
chút kiếm pháp nào thì cũng không phải là gì khó khăn, thế nhưng nếu năm vị
sư huynh nếu lại ra tay đả thương anh, lòng tiểu muội làm sao chịu được.
Hai người sống chết cùng nhau mấy hôm nay, trong lòng đã sinh tình ý, Tô
Tập Chi nghe nàng nói lời chân thành ôn nhu kia, bao nhiêu bực tức trong
lòng tiêu tán hết, nghĩ thầm: “Phái Côn Lôn người nhiều thế mạnh, nếu họ cứ
như bóng ma không tan theo đuổi mình hoài, phải có ngày chết dưới tay họ
mới thôi”. Chiêm Xuân thấy y trầm ngâm, lại nói: -Anh chịu khó đi theo em một
chuyến. Nếu anh có chuyện gì gấp gáp, sau khi mình về núi Côn Lôn rồi, tiểu
muội sẽ đi cùng với đại ca lo liệu cho.
Tô Tập Chi mừng nói: -Được rồi, cứ như thế vậy. Nhưng không biết tôn sư có
chịu tin không?
Chiêm Xuân nói: -Trước nay sư phụ vẫn yêu thương em, em năn nỉ một hồi,
thể nào cũng không làm khó gì anh đâu. Việc này xong rồi, tiểu muội sẽ đi
thăm con trai, con gái anh để cho chúng nó khỏi bị bà chị dâu hành hạ.
Tô Tập Chi thấy nàng nói như thế, rõ ràng có ý hứa hẹn, trong lòng mừng lắm,
nói với Trương Vô Kỵ: -Tiểu huynh đệ, tất cả bọn mình lên núi Côn Lôn, cùng
đi với nhau cho có bạn đồng hành.
Chiêm Xuân nói: -Sơn mạch núi Côn Lôn dài hàng nghìn dặm, biết bao nhiêu
ngọn, Tọa Vong Phong không biết ở chỗ nào. Thế nhưng phái Côn Lôn nếu
muốn tìm ngọn núi Tọa Vong ắt sẽ kiếm ra.
Hôm sau Tô Tập Chi đi mướn một cỗ xe lớn, để cho Trương Vô Kỵ và Dương
Bất Hối ngồi, còn mình và Chiêm Xuân cưỡi ngựa theo sau. Đi đến thị trấn lớn
ở đằng trước, Chiêm Xuân lại đi mua cho Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối mấy
bộ quần áo, thay đổi cho hai đứa. Tô Chiêm hai người thấy hai đứa trẻ tắm rửa
sạch sẽ, thay quần áo mới rồi, con trai tuấn nhã, con gái mỹ miều, đều lớn
tiếng khen ngợi.
Hai đứa cho tới bây giờ mới khỏi cái cảnh khổ sở đường xa, ăn uống cũng khá,
thân thể từ từ mập mạp lên. Càng đi về hướng tây, thời tiết mỗi ngày một
lạnh, nhưng đường đi có Tô Tập Chi và Chiêm Xuân lo liệu nên mọi sự bình an.
Đến Tây Vực rồi, phái Côn Lôn thế lực hùng mạnh, nên không có gì trở ngại,
có điều cát vàng thổi vù vù vào mặt, gió lạnh thấu xương thực là khó chịu.
Cuối cùng rồi cũng đến Tam Thánh Ao[2] trong dãy Côn Lôn, khắp nơi cỏ xanh
tươi tốt, hoa thơm cây trái. Tô Tập Chi và Trương Vô Kỵ không ngờ giữa nơi
hoang sơn lạnh lẽo lại có một nơi đẹp đẽ đến thế nên thực hoan hỉ bội phần.
Thì ra Tam Thánh Ao này bốn bề núi non cao vút tới tận mây xanh, chắn gió
lạnh. Phái Côn Lôn trong bảy tám chục năm từ khi Côn Lôn Tam Thánh Hà Túc
Đạo sáng lập đến nay, các đời chưởng môn hao phí không biết bao nhiêu công
sức chỉnh đốn sơn ao này, sai các đệ tử tới tận Giang Nam ở phía đông, Thiên
Trúc ở phía tây đem các loại kỳ hoa dị chủng đem về trồng.
Chiêm Xuân dẫn ba người đến Thiết Cầm Cư, nơi ở của Thiết Cầm tiên sinh Hà
Thái Xung. Vừa mới bước vào, thấy sư huynh đệ tỉ muội ai ai cũng có vẻ buồn
lo, gặp nàng chỉ nhẹ gật đầu, không nói năng gì cả. Chiêm Xuân trong lòng áy
náy, không hiểu chuyện gì xảy ra, cầm tay một sư muội ra hỏi: -Sư phụ có nhà
không?
Người sư muội đó chưa kịp trả lời đã nghe tiếng quát tháo, mắng chửi của Hà
Thái Xung từ hậu đường vọng ra: -Rặt một phường giá áo túi cơm. Bao nhiêu
chuyện bảo làm, không một chuyện nào làm xong cả. Có một bọn đệ tử ăn hại
như chúng bay để làm gì?
Tiếp theo là một tiếng vỗ bàn vang dội. Chiêm Xuân nói nhỏ với Tô Tập Chi: –
Sư phụ đang bực mình, mình đừng vào gặp vội, ngày mai hãy tính.
Hà Thái Xung đột nhiên gọi: -Có phải Xuân nhi đó không? Sao thập thà thập
thò gì ngoài đó? Thủ cấp của Tô tiểu tặc có chưa?
Chiêm Xuân mặt liền biến sắc, vội đi vào nội sảnh, quì xuống khấu đầu, thưa: –
Đệ tử bái kiến sư phụ.
Hà Thái Xung nói: -Việc ta sai ngươi đi làm đến đâu rồi? Tên tiểu tặc họ Tô ra
sao?
Chiêm Xuân đáp: -Tên họ Tô hiện đang ở bên ngoài, đến để khấu đầu tạ tội
với sư phụ. Y nói y không biết qui củ, quả thực đã sơ sót xem sư phụ thi diễn
kiếm pháp, nhưng kiếm pháp bản phái tinh vi áo diệu nên y xem rồi, chỉ biết
đây là một loại kiếm thuật thiên hạ vô song, thế nhưng hay ở chỗ nào, chỉ biết
là hay nhưng lại không lãnh hội được.
Nàng theo học sư phụ đã lâu, biết ông ta rất tự phụ về võ công, nên nói Tô
Tập Chi cực lực ca ngợi võ công bản môn, sư phụ thể nào cũng cao hứng mà
tha tội cho anh chàng ta.
Nếu phải lúc bình thời, cái câu khen nịnh ấy thể nào Hà Thái Xung cũng khoái
chí lắm, nhưng hôm nay trong lòng ông ta đang bực bội, chỉ hừ một tiếng, nói:
-Việc này ngươi làm khá lắm. Đem giam tên họ Tô tại thạch thất phía sau núi,
ta sẽ phát lạc sau.
Chiêm Xuân thấy sư phụ đang giận, không dám mở miệng cầu xin, liền nói: –
Vâng.
Lại hỏi tiếp: -Các sư mẫu đều khỏe? Để con ra sau khấu đầu.
Hà Thái Xung có cả thảy năm người thê lẫn thiếp, sủng ái nhất là tiểu thiếp
thứ năm. Chiêm Xuân muốn xin sư phụ tha cho Tô Tập Chi nên định nói với bà
ngũ sư mẫu này xin hộ. Hà Thái Xung trên mặt lộ vẻ buồn rầu, thở dài một
tiếng nói: -Ngươi xuống thăm cô năm cũng phải, cô ấy bệnh nặng lắm, ngươi
may về kịp gặp được một lần.
Chiêm Xuân giật mình kinh hãi nói: -Cô năm không khỏe ư? Không hiểu bệnh
gì thế?
Hà Thái Xung thở dài: -Biết được bệnh gì thì đã hay. Đã gọi đến bảy tám thầy
thuốc có tiếng đến xem, vậy mà đến bệnh gì cũng không nói được, toàn thân
sưng vù, một người như hoa tựa ngọc, vậy mà phù lên … ôi, không muốn nói
nữa …
Nói đến đây y liên tiếp lắc đầu, nói thêm: -Thu bao nhiêu là đồ đệ, không đứa
nào làm được việc gì. Bảo chúng nó đi đến núi Trường Bạch kiếm thiên niên
lão sơn nhân sâm đã hai tháng rồi, chưa đứa nào về, bảo chúng nó đi kiếm
tuyết liên, thủ ô để cứu mạng, cũng chỉ về tay không.
Chiêm Xuân nghĩ thầm: “Từ đây đến núi Trường Bạch đường xa vạn dặm, đâu
phải đến là về ngay. Đến được Trường Bạch Sơn, chắc gì đã kiếm được nhân
sâm nghìn năm. Còn như tuyết liên, thủ ô các loại thuốc trân quí có thể khởi
tử hoàn sinh, kiếm cả đời chưa chắc đã thấy, trong một lúc làm sao kiếm cho
ra?” Nàng biết sư phụ cưng cô tiểu thiếp này chẳng khác gì tính mệnh mình,
nay cô ta bệnh nặng không trị được nên giận cá chém thớt, đổ tội lên đầu
người khác.
Hà Thái Xung lại nói: -Ta đã dùng nội lực thử kinh mạch cô ta, không thấy
điểm nào khác lạ. Hừ hừ, cô năm mà không sống được ta sẽ giết sạch bọn
lang băm trong thiên hạ.
Chiêm Xuân nói: -Để đệ tử xuống thăm.
Hà Thái Xung nói: -Được, để ta đưa ngươi đi.
Hai thầy trò cùng xuống phòng ngủ của cô năm. Chiêm Xuân vừa bước vào đã
ngửi thấy toàn là mùi thuốc, vén màn lên, chỉ thấy mặt cô ta sưng phù lên như
Trư Bát Giới, hai mắt híp sâu vào trong thịt, không mở ra nổi, hơi thở gấp gáp,
như đang kéo bễ. Ngũ cô vốn dĩ là một mỹ nhân, nếu không Hà Thái Xung đâu
có mê say đến thế, lúc này bệnh hoạn, biến thành xấu xí, Chiêm Xuân trông
thấy không khỏi sờn lòng. Hà Thái Xung nói: -Gọi bọn lang băm ra đây xem
nào.
Bà vú phục thị trong phòng vội vàng vâng dạ, đi ra. Một lúc sau, nghe thấy
tiếng xích kêu loảng xoảng, đi vào bảy ông thầy lang. Bảy người chân đều bị
xích dính liền với nhau, hình dung tiều tụy, thần sắc buồn khổ. Những người
đó đều là thầy thuốc có tiếng ở Tứ Xuyên, Vân Nam, Cam Túc, bị Hà Thái
Xung cho đệ tử đến nửa mời nửa bắt đem về đây. Thế nhưng bảy người danh
y định bệnh mỗi người một khác, người thì bảo là phù thủng, người thì bảo là
trúng tà, cho toa cắt thuốc rồi, uống không hiệu nghiệm, thân thể cô năm mỗi
ngày một sưng thêm. Hà Thái Xung nổi giận, đem bảy vị danh y xiềng lại, nói
là nếu cô năm trị không hết, bảy tên lang băm – danh y nay biến thành lang
băm – sẽ bị chôn sống theo.
Bảy người thầy lang trổ hết tài nghệ bình sinh, nhưng bệnh cô năm ngày càng
sưng, ai cũng lo tính mệnh mình sẽ chẳng còn, mỗi lần hội chẩn, đều lớn tiếng
cãi cọ liên miên, người này chê bai sáu người còn lại, nói cô năm sở dĩ nặng
thêm, toàn là do bọn kia làm hại, còn mình vô can. Lần này bảy người tiến vào,
chẩn mạch xong, ba điều bốn chuyện, lại bắt đầu tranh chấp. Hà Thái Xung lo
quá hóa giận, lớn tiếng mắng chửi mới át được tiếng bọn danh y biến thành
lang băm kia.
Chiêm Xuân bỗng chợt nghĩ ra, nói: -Sư phụ, con có đem từ Hà Nam về một
thầy lang, tuổi tác tuy còn nhỏ, bản lãnh so với mấy người này còn cao hơn.
Hà Thái Xung mừng quá, kêu lên: -Sao con không nói sớm, mời vào mau, mời
mau.
Mỗi vị danh y khi mới đến, y đều đối đãi cực kỳ cung kính, thế nhưng khi từ
“danh y” biết thành “dung y” rồi, y sẽ không còn nể nang gì nữa. Chiêm Xuân
quay lại đại sảnh, dẫn Trương Vô Kỵ vào. Trương Vô Kỵ vừa gặp Hà Thái Xung,
nhận ngay ra y có mặt trong đám người năm xưa lên núi Võ Đương bức tử cha
mẹ mình, lòng không khỏi căm hận. Thế nhưng Trương Vô Kỵ xa cách đã bốn
năm năm, mặt mày thân thể biến đổi rất nhiều, Hà Thái Xung không sao nhận
ra được, thấy chỉ là một thiếu niên mười bốn, mười lăm, gặp mình lại không
khấu đầu hành lễ, chỉ khinh khỉnh nhìn, thần sắc hết sức lạnh nhạt, nên cũng
không thèm lý đến, quay sang hỏi Chiêm Xuân: -Con bảo thầy thuốc nào đâu?
Chiêm Xuân đáp: -Chính là chú em này đây. Y đạo của y thật là tinh thâm, xem
ra còn giỏi hơn nhiều danh y khác.
Hà Thái Xung đời nào chịu tin, nói: -Vô lý, vô lý.
Chiêm Xuân đáp: -Đệ tử trúng phải độc chất của hoa Thanh Đà La, chính nhờ
chú ta trị khỏi đó.
Hà Thái Xung kinh ngạc, nghĩ thầm: “Nếu không có giải dược của môn phái
mình, trúng phải chất độc của hoa Thanh Đà La đều chắc chắn chết, tiểu tử
này có thể trị được, chắc là tà môn”. Y nhìn Trương Vô Kỵ đánh giá một hồi,
hỏi: -Này cậu, cậu biết chữa bệnh thật à?
Trương Vô Kỵ nghĩ tới tình cảnh chết thảm của cha mẹ mình, trong bụng đối
với Hà Thái Xung hết sức căm thù, nhưng bản tính y trời sinh không hay nhớ
oán cũ, nếu không đã chẳng chữa cho bọn Giản Tiệp, cũng chẳng liệu độc cho
Chiêm Xuân của phái Côn Lôn, nghe Hà Thái Xung hỏi sõng như thế, tuy bụng
không thích, nhưng cũng gật đầu.
Y vừa tiến vào phòng đã ngửi thấy một mùi rất cổ quái, qua một lúc sau, lại
thấy mùi hương đó lúc đậm lúc nhạt rất đặc biệt, liền đến trước giường cô
năm quan sát mặt cô ta một hồi, bắt mạch hai tay, đột nhiên lấy ra một mũi
kim châm, chích ngay vào khuôn mặt sưng như trái dưa hấu của cô năm. Hà
Thái Xung kinh hãi, quát lên: -Ngươi làm gì thế?
Định giơ tay nắm Trương Vô Kỵ, nhưng y đã rút kim ra, trên mặt cô năm không
thấy có huyết dịch hay nước chảy. Năm ngón tay Hà Thái Xung còn cách lưng
Trương Vô Kỵ chừng nửa thước vội ngừng lại, thấy y cầm kim lên mũi ngửi, rồi
gật gật đầu. Hà Thái Xung trong bụng thấy có chút hi vọng, hỏi: -Tiểu … tiểu
huynh đệ, bệnh này liệu có chữa được không?
Với tư cách tôn sư một môn phái như ông ta, mà gọi Trương Vô Kỵ một câu
“tiểu huynh đệ” phải nói là khách sáo lắm rồi.
Trương Vô Kỵ không trả lời, cúi xuống gầm giường cô năm quan sát một hồi,
lại mở cửa sổ xem xét vườn hoa ngoài song cửa, đột nhiên nhảy ra, đi xem các
cây hoa. Hà Thái Xung sủng ái cô năm, ngoài vườn chỗ cô nằm trồng toàn các
loại kỳ hoa dị thảo, lúc này thấy Trương Vô Kỵ hành động quái lạ, trong bụng
nóng như lửa đốt, chỉ mong lập tức ra toa cắt thuốc, trị lành quái bệnh cho cô
năm, y lại ra vườn ngắm hoa vui thú, làm sao không khỏi nổi giận. Thế nhưng
đang lúc thúc thủ vô sách có được chút hi vọng, nên y đành cố nén nộ khí,
nhưng mặt cũng tím ngắt, hơi thở hổn hển.
Chỉ thấy Trương Vô Kỵ xem hoa một hồi, gật gật đầu như đã hiểu, quay trở lại
phòng nói: -Bệnh có thể trị được nhưng tôi không muốn chữa. Chiêm cô
nương, tôi đi đây.
Chiêm Xuân nói: -Trương huynh đệ, nếu cậu chữa được bệnh cho cô năm, cả
phái Côn Lôn trên dưới ai ai cũng đều cảm tạ đại đức của cậu, vậy xin cậu ra
tay trị giùm cho.
Trương Vô Kỵ chỉ Hà Thái Xung nói: -Trong những người bức tử cha mẹ tôi, có
cả Thiết Cầm tiên sinh, đời nào tôi lại cứu thân nhân của ông ấy?
Hà Thái Xung kinh hoảng, hỏi lại: -Tiểu huynh đệ, cậu họ gì? Lệnh tôn lệnh
đường là ai?
Trương Vô Kỵ đáp: -Tôi họ Trương, tiên phụ là đệ tử thứ năm của phái Võ
Đương.
Hà Thái Xung giật mình: “Thì ra y là con trai của Trương Thúy Sơn. Phái Võ
Đương quả thực ghê gớm, y gia học uyên nguyên ắt hẳn có tài”. Lập tức đổi
mặt buồn rầu thở dài, nói: -Trương huynh đệ, lệnh tôn khi còn tại thế, tại hạ
cùng ông ta giao tình rất thân, khi ông ấy tự vẫn chết đi, tôi đau lòng biết mấy
…
Y vì muốn cứu người ái thiếp, nên phải thuận miệng đặt điều ra. Chiêm Xuân
cũng vội nói đốc vào cho sư phụ: -Lệnh tôn lệnh đường chết rồi, gia sư than
khóc một hồi, thường nói cùng các đệ tử chúng tôi là lệnh tôn là người gia sư
thân thiết nhất. Trương huynh đệ, sao cậu không nói sớm? Nếu biết cậu là
lệnh lang của Trương ngũ hiệp, tôi đã kính trọng cậu gấp mấy lần rồi.
Trương Vô Kỵ bán tín bán nghi, nhưng y bình sinh không hay ghi nhớ chuyện
hận thù, liền nói: -Vị phu nhân này không bị bệnh gì quái lạ cả, trúng phải nọc
độc của Kim Ngân huyết xà đó thôi.
Hà Thái Xung và Chiêm Xuân cùng kêu lên: -Kim Ngân huyết xà?
Trương Vô Kỵ đáp: -Đúng thế, loại độc xà này tôi cũng chưa thấy bao giờ. Thế
nhưng phu nhân mặt mày sưng phù, kim châm đâm vào có mùi đàn hương.
Hà tiên sinh, xin ông nhìn chân phu nhân xem, trên mười đầu ngón chân thể
nào cũng có vết răng nho nhỏ.
Hà Thái Xung vội vàng giở chăn đắp trên người cô năm, chăm chú quan sát
mười đầu ngón chân, quả nhiên mỗi ngón chân đều có vài vết răng đen tím,
nhưng nhỏ như hạt gạo, nếu không cố ý tìm kiếm, không thể nào thấy được.
Hà Thái Xung vừa thấy xong, lòng tin tưởng vào Trương Vô Kỵ tăng lên gấp
mười, nói: -Đúng quá, đúng quá, đầu ngón chân nào cũng có vết răng, tiểu
huynh đệ cao minh thực. Tiểu huynh đệ nếu biết nguồn gốc căn bệnh, ắt biết
cách chữa. Tiện thiếp khỏi rồi, thể nào tôi cũng tạ ơn thật hậu.
Y quay đầu lại mắng bảy ông thầy lang: -Thế mà bảo phong hàn trúng tà, toàn
là nói láo nói lếu. Trên đầu ngón chân cô ấy có vết răng, sao bảy tên bị thịt ăn
hại không đứa nào trông thấy?
Tuy y mắng chửi nhưng trong giọng đầy những vui mừng hớn hở. Trương Vô
Kỵ nói: -Bệnh của phu nhân vốn thật đặc biệt, bọn họ không định được căn
nguyên, cũng không có gì đáng trách, vậy xin thả cho họ về đi.
Hà Thái Xung cười đáp: -Đúng lắm, đúng lắm. Đã có đại giá quang lâm của
tiểu huynh đệ, để bọn lang băm này ở đây thêm chỉ tổ bực mình. Xuân nhi,
cho mỗi người một trăm lượng bạc, bảo họ tự tìm đường về nhà.
Bảy ông thầy lang thật là chết đi sống lại, ai nấy đều mừng rỡ hết sức, vội vã
ra ngay, sợ Trương Vô Kỵ chữa không xong, Hà Thái Xung lại đem tên “lang
băm con” này xích luôn chung cho cả tám tên lang băm lớn bé tuẫn táng theo
ái thiếp của y. Trương Vô Kỵ nói: -Xin gọi đầy tớ khiêng giường của phu nhân
ra, dưới gầm giường có cái lỗ nhỏ, chính là hang của Kim Ngân huyết xà.
Hà Thái Xung không đợi đầy tớ ra tay, tay phải nắm ngay chân giường, kéo
luôn cả người lẫn giường ra, quả nhiên dưới đất có một cái lỗ, vừa mừng vừa
tức, kêu lên: -Mau đem lưu hoàng đốt lửa vào đây, xông cho con rắn độc chạy
ra, chặt nó thành nghìn vạn mảnh.
Trương Vô Kỵ vội xua tay: -Không được đâu, không được đâu. Chất độc mà
phu nhân trúng phải, toàn do hai con rắn độc này chữa cả. Nếu giết chúng đi,
bệnh của phu nhân trị không được nữa đâu.
Hà Thái Xung nói: -Thì ra là thế. Trung gian nguyên ủy thế nào, xin được thỉnh
giáo.
Hai chữ “thỉnh giáo”, từ khi nghiệp sư chết đi đến giờ, hôm nay lần đầu tự
miệng y nói ra. Trương Vô Kỵ chỉ bồn hoa trước cửa sổ nói: -Hà tiên sinh, bệnh
tình của tôn phu nhân đều do tám cây lan Linh Chi trong vườn hoa kia mà ra.
Hà Thái Xung nói: -Cây đó gọi là lan Linh Chi ư? Ta không biết tên gọi là gì,
một vị bằng hữu biết ta thích hoa cỏ, đem từ Tây Vực về tám bồn hoa lan cho
ta. Hoa này khi nở có mùi đàn hương, sắc hoa lại thật là kiều diễm, không ngờ
trồng lại sinh họa.
Trương Vô Kỵ nói: -Cứ theo sách viết, loại lan Linh Chi này củ tròn như trái cầu
màu đỏ như lửa, trong củ đó có chất cực độc. Mình ra đào thử xem có đúng
thế không.
Lúc đó các đệ tử đều nghe tin có một thầy lang trẻ đến chữa quái bệnh cho
ngũ sư mẫu, nam đệ tử không tiện vào phòng, nhưng sáu nữ đệ tử trong đó
có cả Chiêm Xuân đang đứng gần bên, nghe Trương Vô Kỵ nói như thế, liền có
hai người đi lấy mai ra đào một cây lan Linh Chi lên. Quả nhiên dưới đất có
một cái củ tròn đỏ như lửa, hai cô đệ tử nghe nói củ này có chất kịch độc,
không dám dùng tay cầm.
Trương Vô Kỵ nói: -Xin các vị đào cả tám cái củ lên, cho vào bồn sành, bỏ
thêm tám cái trứng gà, một bát máu gà, giã cho nhuyễn thành hồ. Khi làm
việc nhớ cẩn thận, đừng để dính vào da thịt.
Chiêm Xuân vâng lời, chính mình cùng hai người sư muội làm đúng như lời
dặn. Trương Vô Kỵ lại bảo lấy hai ống tre dài chừng một thước, một cái que
tre, để sẵn một bên.
Chẳng mấy chốc những củ Linh Chi Lan đã quết thành hồ, Trương Vô Kỵ lấy hồ
đó đổ xuống đất thành một cái vòng tròn, nhưng để khuyết một khoảng chừng
hai tấc, nói: -Nếu quí vị thấy có sự gì kỳ lạ, xin đừng lên tiếng, để độc xà khỏi
kinh hoảng, chạy mất tăm mất tích. Các vị đi lấy cam thảo và bông gòn nhét
vào mũi.
Mọi người đều làm y như thế. Trương Vô Kỵ cũng bịt chặt mũi lại, sau đó lấy
lửa đốt lá lan Linh Chi ngay trước hang rắn. Chưa đến thời gian uống xong một
tuần trà, đã thấy trong động chui ra một con rắn nhỏ, thân mình đỏ như máu,
trên đầu có một cái mào màu vàng. Con rắn từ từ chui ra, thì ra nó có bốn
chân, dài chừng tám tấc. Trong động lại chui ra một con rắn nữa, thân hình
ngắn hơn, hình dáng tương tự, nhưng cái mào trên đầu màu bạc.
Bọn Hà Thái Xung thấy hai con quái xà đều nín thở không dám lên tiếng. Loại
độc xà dị tướng này dĩ nhiên có chất độc nhưng ai nấy võ công cao cường,
không sợ, thế nhưng nếu làm nó sợ chạy mất, e rằng quái bệnh của phu nhân
không thể chữa khỏi.
Lại thấy hai con rắn thè lưỡi ra, liếm lẫn nhau xem chừng thân mật lắm. Chúng
lại cọ vào nhau rồi từ từ đi vào trong vòng hồ làm bằng lan Linh Chi. Trương Vô
Kỵ vội vàng lấy một ống tre chặn ngay chỗ khuyết của vòng, cầm cái gậy lên
gạt nhè nhẹ vào đuôi con ngân quan huyết xà một cái. Con rắn đó nhanh như
chớp, mọi người chỉ thấy một ánh sáng bạc lóe lên, đã chui ngay vào trong
ống tre.
Con kim quan huyết xà cũng muốn vào theo, nhưng ống tre rất nhỏ chỉ đủ chỗ
cho một con, con rắn mào vàng không sao vào được, chỉ có nước kêu ù ù.
Trương Vô Kỵ lại lấy ống tre kia rồi dùng que gạt cho kim quan huyết xà chui
vào nốt. Y vội vàng lấy nắp gỗ đóng chặt hai con rắn lại.
Từ khi con kim quan huyết xà từ trong hang chui ra, mọi người ai nấy hồi hộp,
lo lắng, đến khi Vô Kỵ đóng nắp ống tre lại rồi, mọi người mới cùng thở phào
một tiếng. Trương Vô Kỵ nói: -Xin đem vài thùng nước nóng, rửa sạch sàn nhà
đừng để lưu lại độc tính của Linh Chi Lan.
Sáu cô đệ tử liền xuống nhà bếp đun nước, chẳng bao lâu đã rửa sạch không
còn tơ tóc gì. Trương Vô Kỵ ra lệnh cho đóng kín cửa sổ, lại bảo đem hùng
hoàng, minh phàn,[3] đại hoàng, cam thảo … các loại dược vật, giã nhỏ thành
bột, trộn với vôi sống, đổ vào trong ống tre có con ngân quan huyết xà, con
rắn lập tức kêu lên ù ù. Con kim quan huyết xà bên chiếc ống kia lập tức kêu
lên đáp ứng. Trương Vô Kỵ mở nắp con kim xà, con rắn liền từ trong ống vọt
ra, chạy quanh chiếc ống có con ngân xà vài vòng, có vẻ cấp bách, đột nhiên
nhảy vọt lên giường, chui vào trong chiếc mền của cô năm.
Hà Thái Xung kinh hoảng, “A” lên một tiếng. Trương Vô Kỵ xua xua tay, nhẹ
nhàng mở chiếc chăn lên, thấy con kim quan huyết xà đang cắn chặt ngón
chân giữa bàn chân bên trái của cô năm. Trương Vô Kỵ lộ vẻ vui mừng, hạ
giọng nói nhỏ: -Phu nhân trúng phải chất độc của kim ngân huyết xà, nay lại
chính đôi rắn này hút ra khỏi thân thể.
Độ tàn nửa nén hương, con rắn thân thể phình to gấp mấy lần, cái mào trên
đầu sáng lấp lánh. Trương Vô Kỵ mở nắp ống đựng con ngân xà ra, con kim xà
lập tức từ trên giường nhảy xuống, chạy đến chiếc ống, miệng nhả độc huyết
mớm cho con ngân xà. Trương Vô Kỵ nói: -Tốt lắm, mỗi ngày cứ hút độc như
thế này hai lần, để tôi biên một cái toa bớt sưng, bổ hư, chỉ trong vòng mười
ngày là có thể khỏi hẳn.
Hà Thái Xung mừng lắm, mời Trương Vô Kỵ vào trong thư phòng, hỏi: -Tiểu
huynh đệ kỹ thuật thần kỳ, vụ này do duyên cớ gì, xin được thỉnh giáo.
Trương Vô Kỵ nói: -Cứ theo sách viết, đôi kim quan, ngân quan huyết xà này,
trong các độc chất của thiên hạ đứng hàng thứ bốn mươi bảy, không phải là
loại độc vật ghê gớm lắm đâu. Thế nhưng có một đặc điểm, tính thích ăn
những loại có chất độc chẳng hạn như tì sương, hạc đính hồng, khổng tước
đảm, trẩm tửu[4] … đều rất ưa. Trong bồn hoa ngoài cửa sổ của phu nhân có
trồng Linh Chi Lan là loại cây có chất độc rất ghê gớm nên đã dẫn dụ kim ngân
huyết xà đến.
Hà Thái Xung gật đầu nói: -Thì ra là thế.
Trương Vô Kỵ nói: -Kim ngân huyết xà bao giờ cũng có một con trống một con
mái sống chung với nhau, mới rồi tôi dùng hùng hoàng các loại dược vật để
hun con ngân quan thư xà, kim quan hùng xà vì muốn cứu bạn nó, nên chạy
tới cắn ngón chân phu nhân hút máu độc ra nuôi con mái. Kế đây tôi sẽ dùng
thuốc để trị con hùng xà, con thư xà ắt cũng hút máu độc nuôi con trống, cứ
đổi qua đổi lại, dần dần sẽ hút hết máu độc trong người phu nhân ra.
Nói đến đây, y chợt nghĩ ra một việc: “Thế nhưng đôi huyết xà này thoạt đầu
tại sao lại đến cắn ngón chân của phu nhân, bên trong ắt có điều gì khác lạ. “Y
chưa nghĩ ra được tại sao nên không nói ra.
Hôm đó Hà Thái Xung mở tiệc tại hậu đường, khoản đãi Trương Vô Kỵ và
Dương Bất Hối. Trương Vô Kỵ nghĩ Dương Bất Hối là con tư sinh của Kỷ Hiểu
Phù, nói ra e sẽ tổn thương thanh danh của phái Nga Mi nên khi Hà Thái Xung
hỏi đến lai lịch, chỉ nói mơ hồ đôi câu không rõ ràng. Qua vài ngày, mặt cô năm
giảm sưng, tinh thần khôi phục, đã bắt đầu ăn uống lại. Trương Vô Kỵ liền ngỏ
lời cáo từ, Hà Thái Xung nhất định nài nỉ ở lại, chỉ sợ bệnh của ái thiếp tái
phát. Đến hơn mười ngày, bệnh phù của cô năm hoàn toàn khỏi hẳn.
Cô năm sửa soạn một bữa tiệc thật linh đình để đích thân cảm ơn Trương Vô
Kỵ, lại mời Chiêm Xuân ngồi bồi tiếp. Cô ta tuy dung mạo còn tiều tụy, nhưng
nét đẹp vẫn như xưa, Hà Thái Xung thập phần hoan hỉ.
Chiêm Xuân nhân lúc sư phụ cao hứng, xin ông ta thu Tô Tập Chi làm môn đệ.
Hà Thái Xung ha hả cười: -Xuân nhi, cái kế Phủ Để Trừu Tân[5] quả thực hay
lắm, ta thu tên tiểu tử họ Tô đó làm học trò, mai mốt sẽ truyền cho nó Côn Lôn
Lưỡng Nghi Kiếm, thành ra trước đây có nhìn lén một lần cũng chẳng hề chi.
Chiêm Xuân cười: -Sư phụ, nếu như không vì gã họ Tô nhìn trộm lão nhân gia
sử kiếm, đệ tử đâu có phải đi bắt y, thì làm sao gặp được Trương thế huynh.
Cố nhiên sư phụ và ngũ cô hồng phúc tề thiên thì đã đành, lại thêm Trương
thế huynh y đạo cao minh, nhưng tên họ Tô nói cho cùng cũng có một tí công
lao nho nhỏ.
Cô năm nói với Hà Thái Xung: -Ông thu bao nhiêu là đệ tử, thế nhưng lúc gặp
chuyện nào có đứa nào giúp được gì, chỉ có mình Chiêm cô nương lập được
đại công. Chiêm cô nương đã nhắm gã tiểu tử đó, ắt hẳn phải là người khá,
ông thu thêm một đệ tử nữa, sau này lại là người đắc lực nhất không chừng.
Người ái thiếp này nói gì Hà Thái Xung cũng nghe nên liền nói: -Được rồi, thu
y cũng được có sao, nhưng có một điều kiện.
Cô năm hỏi: -Cái gì thế?
Hà Thái Xung nghiêm nét mặt: -Y gia nhập môn hạ của ta rồi, phải chú tâm
học nghệ, không được si tâm vọng tưởng Xuân nhi, định lấy nó làm vợ, cái đó
ta nhất định không bằng lòng.
Chiêm Xuân mặt mày đỏ ửng, thẹn thùng cúi đầu xuống. Cô năm cười khúc
khích, nói: -Ối chào, ông làm sư phụ thì chính mình phải làm gương, chính
mình năm thê bảy thiếp, lại cấm học trò lấy nhau là sao?
Hà Thái Xung vốn chỉ định nói đùa Chiêm Xuân, nghe thế bèn cười ha hả, nói:
-Uống rượu đi nào, uống nào.
Một con a hoàn bưng khay, trên khay để một vò rượu, đi đến bên mâm tiệc,
rót rượu cho từng người. Rượu này đặc sệt như keo, màu sắc vàng ửng, thơm
ngon nức mũi. Hà Thái Xung nói: -Trương huynh đệ, đây là danh sản của bản
sơn, làm bằng hổ phách mật lê trên đỉnh núi, gọi là Hổ Phách Mật Lê Tửu, bên
ngoài không có được, mình nên uống thêm với nhau ít chén.
Y trong bụng nghĩ thầm: “Làm thế nào để lừa được nó nói ra chỗ ở của Kim
Mao Sư Vương Tạ Tốn nhỉ? Việc này phải từ từ tính kế, nhất định không thể
gấp gáp được”. Trương Vô Kỵ vốn không biết uống rượu, nhưng thấy mùi loại
rượu Hổ Phách Mật Lê Tửu này xông lên ngào ngạt, nên cũng đưa chén ra,
đang toan đưa lên môi, đột nhiên hai con kim ngân huyết xà trong bọc cùng
kêu lên u u. Trương Vô Kỵ chợt động tâm, kêu lên: -Rượu này không uống
được.
Mọi người ngạc nhiên, đều vội đặt ly xuống. Trương Vô Kỵ lấy ống tre trong
bọc ra, thả con kim quan hùng xà, con rắn liền đi tới bên cạnh chén rượu, thò
đầu uống sạch không để lại một giọt. Trương Vô Kỵ lại cho nó vào trong ống,
thả con ngân quan thư xà ra, cho nó uống một chén. Hai con rắn này rất quấn
quít nhau, nếu chỉ thả một con trống hay mái sẽ không bao giờ đi xa, lại rất dễ
bảo, thế nhưng nếu thả cả hai con ra một lượt thì khó có thể bắt trở lại, không
những thế có khi còn hung bạo cắn lại người nuôi.
Cô năm cười: -Tiểu huynh đệ, đôi rắn của chú biết uống rượu, trông hay quá
nhỉ?
Trương Vô Kỵ nói: -Xin cho người đem ra một con chó hay con mèo thử xem.
Đứa đầy tớ đáp lời, quay mình toan đi vào. Trương Vô Kỵ nói: -Chị này đứng lại
đây đừng đi đâu, để người khác đi lấy con mèo, con chó được rồi.
Một lát sau, một người đầy tớ đem một con chó vàng vào. Trương Vô Kỵ lấy
chén rượu trước mặt Hà Thái Xung, đổ vào mồm con chó. Con chó vàng hộc
lên mấy tiếng, thất khổng ứa máu chết ngay.
Cô năm sợ đến toàn thân run rẩy, nói: -Trong rượu có thuốc độc … ai … ai định
hại chúng ta thế này, Trương huynh đệ, sao cậu biết được?
Trương Vô Kỵ nói: -Kim ngân huyết xà thích ăn độc vật, chúng ngửi thấy chất
độc trong rượu, nên cao hứng kêu lên.
Hà Thái Xung mặt tím lại, chộp ngay cổ tay đứa a hoàn, hỏi khẽ: -Rượu độc
này ai bảo ngươi đem lên đây?
Con ở đó sợ đến hết cả hồn vía, run rẩy đáp: -Con … con không biết rượu …
rượu có độc. Con … con đem dưới nhà bếp lên …
Hà Thái Xung hỏi: -Ngươi từ nhà bếp lên, có gặp ai không?
A hoàn đáp: -Đi tới hành lang có gặp chị Hạnh Phương, chị ta giữ lại nói
chuyện một lát, mở bình rượu ra ngửi mùi.
Hà Thái Xung, cô năm, Chiêm Xuân ba người nhìn nhau, đều có vẻ hãi sợ. Thì
ra Hạnh Phương là người hầu của bà vợ cả. Trương Vô Kỵ nói: -Hà tiên sinh,
việc này tôi vẫn ngần ngại không nói ra, chỉ bên trong đang cố tra xét. Ông
thử nghĩ xem, đôi Kim Ngân huyết xà này lúc đầu tại sao lại đến cắn ngón
chân phu nhân để nọc độc truyền vào trong người? Cái đó cũng dễ hiểu, trong
người phu nhân vốn đã có mạn tính độc dược sẵn rồi, mới dụ đôi Kim Ngân
huyết xà đến. Người đã bỏ chất độc cho phu nhân và người hôm nay bỏ chất
độc vào rượu chắc cũng là một.
Hà Thái Xung chưa kịp trả lời, đột nhiên rèm cửa mở ra, một bóng người thấp
thoáng, Trương Vô Kỵ thấy dưới hai bên vú trên ngực đau nhói, đã bị người ta
điểm trúng huyệt đạo rồi một giọng nói sắc như dao cất lên: -Ngươi nói không
sai chút nào, chính ta hạ độc đó.
Người vừa đi vào là một người đàn bà cao lớn, tuổi đã quá trung niên, tóc hoa
râm, hai mắt có uy, trong lông mày dường như có sát khí. Người đàn bà đó nói
với Hà Thái Xung: -Tôi bỏ nọc rết vào trong rượu, ông làm gì nào?
Cô năm vẻ mặt hoảng sợ, lập tức đứng dậy, cung kính chào: -Thái thái.
Thì ra người đàn bà cao to này là nguyên phối của Hà Thái Xung, tên là Ban
Thục Nhàn, vốn là sư tỉ của ông ta. Hà Thái Xung thấy vợ hùng hổ tiến vào
phòng, ngồi im không nói, chỉ hừ một tiếng. Ban Thục Nhàn nói: -Tôi hỏi ông,
chính tôi hạ độc đó, ông làm gì nào?
Hà Thái Xung nói: -Bà không ưa cậu bé này, cũng chẳng sao cả. Thế nhưng bà
làm vậy không phân biệt trắng đen, lỡ tôi uống phải rượu độc vào trong bụng,
thì có phải hỏng không?
Ban Thục Nhàn giận dữ nói: -Tất cả những người ở đây có ai tốt lành gì đâu,
chết bớt ai thì đỡ ngứa mắt một chút.
Bà ta cầm hồ rượu lên lắc thử, có tiếng óc ách, còn đến quá nửa bình, liền rót
một ly đầy, đặt ngay trước mặt Hà Thái Xung, nói: -Ta định hạ độc chết cả
năm người, nhưng tên tiểu quỉ này phát giác, vậy ta tha cho bốn người khỏi
chết. Còn một chén này ai uống cũng được. Lão quỉ, ông tùy ý lo liệu.
Nói xong nghe soẹt một tiếng đã rút kiếm cầm trên tay. Ban Thục Nhàn là một
nhân vật kiệt xuất trong phái Côn Lôn, còn lớn hơn Hà Thái Xung hai tuổi,
nhập môn cũng sớm hơn ông ta, võ công không kém gì chồng. Hà Thái Xung
khi còn trẻ anh tuấn tiêu sái, rất được vị sư tỉ này ưa thích. Sư phụ của họ là
Bạch Lộc Tử đấu với một cao thủ của Minh giáo mà chết, không kịp để lại di
ngôn khiến các đệ tử tranh đoạt chức chưởng môn, không ai chịu nhường ai.
Ban Thục Nhàn lúc đó hết sức suy cử Hà Thái Xung, hai người hợp lực, thế lực
mạnh hẳn, so với các sư huynh đệ khác không ai sánh được, nên Hà Thái
Xung mới được tiếp nhiệm ngôi vị. Ông ta nhớ ơn cảm đức nên lấy vị sư tỉ này
làm vợ. Khi còn trẻ thì không sao, nhưng khi tuổi càng lớn, Ban Thục Nhàn so
với Hà Thái Xung xem như già hơn chục tuổi. Hà Thái Xung lấy cớ không có
con nối dõi tông đường, nên nạp thêm thị thiếp.
Trong mấy chục năm nay tích uy, lại thêm Hà Thái Xung biết mình không nên
không phải, trong lòng hổ thẹn, đối với vị vừa là sư tỉ vừa là nghiêm thê này
càng thêm nể sợ. Thế nhưng sợ là một chuyện, thị thiếp cứ lấy hết người này
đến người khác, nhưng mỗi khi thêm một phòng, thì đối với vợ lại sợ thêm mấy
phần. Lúc này Hà Thái Xung thấy vợ để chén rượu độc trước mặt mình, ông ta
hoàn toàn không có ý gì chống lại, nghĩ thầm: “Bản thân mình đương nhiên
không uống rồi, cô năm và Xuân nhi lẽ dĩ nhiên cũng không, Trương Vô Kỵ là
ân nhân cứu mạng của mình, chỉ có con bé con này là đối với mình vô thân vô
cố”. Y liền đứng lên, đưa chén rượu cho Dương Bất Hối nói: -Này bé, ngươi
uống chén rượu này đi.
Dương Bất Hối kinh hãi, nó vừa thấy một con chó to khỏe thế mà uống một
chén rượu đã lăn ra chết tươi, nên đâu dám cầm chén rượu, khóc òa lên: -Tôi
không uống, tôi không uống.
Hà Thái Xung liền nắm ngay ngực nó, định đổ chén rượu vào mồm. Trương Vô
Kỵ liền thản nhiên nói: -Để tôi uống cũng được.
Hà Thái Xung trong bụng không bằng lòng nhưng không dám buông lời cự
tuyệt. Ban Thục Nhàn bụng dạ ghen ghét, muốn bỏ thuốc độc giết người thiếp
mà Hà Thái Xung sủng ái nhất là cô năm, tưởng đã chắc ăn, nào ngờ Trương
Vô Kỵ từ đâu tới cứu nàng ta khỏi, thành thử trong bụng ghét cay ghét đắng
thiếu niên này, nên lạnh lùng nói: -Thằng bé này nhiều trò cổ quái, có giải
dược không chừng. Nếu ngươi thay nó uống thì một chén không đủ, phải uống
cạn cả bình.
Trương Vô Kỵ đưa mắt nhìn Hà Thái Xung, mong y sẽ đưa ra vài lời khuyên
giải, nào ngờ lão ta chỉ cúi đầu không dám hé môi nói một lời. Chiêm Xuân và
cô năm cũng lặng thinh, sợ nếu mở miệng, Ban Thục Nhàn lại trút cơn giận
lên đầu mình, bắt uống hơn nửa vò rượu kia không chừng. Trương Vô Kỵ trong
lòng tê tái, nghĩ thầm: “Mấy người này tính mệnh đều do mình cứu cả, nhưng
khi ta vừa gặp nguy nan, bọn họ liền tụ thủ bàng quan, đến một lời xin giùm
cũng không dám”. Y liền nói: -Chiêm cô nương, sau khi tôi chết rồi, nhờ cô đưa
em bé này đến Tọa Vong Phong kiếm cha nó, liệu có được chăng?
Chiêm Xuân nhìn sư phụ thấy Hà Thái Xung gật đầu, liền nói: -Được rồi, tôi sẽ
đưa nó đi.
Tuy nhiên trong lòng cô ta nghĩ thầm: “Dãy Côn Lôn dài cả nghìn dặm, biết
Tọa Vong Phong ở chỗ nào mà tìm?” Trương Vô Kỵ thấy cô ta nói cho qua
chuyện, không một chút thành ý nào, biết những người này toàn là loại vô tình
bạc bẽo, có nói thêm cũng chỉ phí lời, cười khẩy: -Phái Côn Lôn là một danh
môn đại phái trong võ lâm, hóa ra là thế. Hà tiên sinh, đưa rượu cho tôi uống.
Hà Thái Xung nghe thế trong bụng tức giận, chỉ muốn cho Vô Kỵ uống rượu
chết đi cho xong, để cho vợ mình hả dạ, khỏi tìm kế khác giết hại cô năm,
chuyện cấp bách quan trọng như lửa cháy lông mày, còn tung tích Tạ Tốn
không cần nữa, liền cầm ngay vò rượu đổ thẳng vào mồm Trương Vô Kỵ.
Dương Bất Hối ôm chặt lấy anh, khóc òa lên. Ban Thục Nhàn khinh khỉnh nói: –
Ngươi y thuật có giỏi, ta thử xem có cứu được chính mình không nào?
Y thị liền giơ ngón tay điểm vào đầu vai và mạng sườn Vô Kỵ mấy chỗ, lại xoay
ngược cán kiếm điểm mấy đại huyệt trên người tất cả Hà Thái Xung, Chiêm
Xuân, cô năm và Dương Bất Hối, nói: -Hai giờ nữa ta sẽ quay lại tha cho các
ngươi.
Khi bà ta điểm huyệt, Hà Thái Xung và Chiêm Xuân không dám động đậy, cũng
không dám né tránh. Ban Thục Nhàn quay lại nói với những thị tì đang đứng
bên cạnh: -Đi ra hết.
Bà ta ra sau cùng, quay tay đóng cửa, vừa đi cười nhạt liên tiếp.
Uống rượu độc rồi, chỉ giây lát Vô Kỵ bụng đau như cắt, thấy Ban Thục Nhàn
ra khỏi phòng đóng cửa lại, nghĩ thầm: “Ngươi đi khỏi rồi, chưa chắc ta đã
chết đâu”. Y cố nhịn đau, ám tự vận khí, dùng phương pháp Tạ Tốn truyền
cho, trước hết tự giải các huyệt đạo bị điểm, sau đó nhổ mấy sợi tóc trên đầu,
cho vào trong cổ họng ngoáy ngoáy, ngứa miệng ọe một tiếng nôn ra, rượu
độc mười phần cũng thổ ra được tám chín. Hà Thái Xung, Chiêm Xuân thấy y
đã bị điểm huyệt mà vẫn cử động được, đều lấy làm vô cùng kinh ngạc.
Hà Thái Xung muốn ra tay ngăn trở, nhưng khổ nỗi chính y cũng bị vợ điểm
huyệt, tuy một thân võ công cũng chỉ đành giương mắt nhìn, có nóng nảy
cũng không làm gì được. Trương Vô Kỵ thấy trong bụng vẫn còn đau, cố mửa
thêm nhưng không được, nghĩ bụng phải thoát khỏi nguy cơ trước, sau sẽ tìm
cách trừ độc, liền đưa tay giải huyệt cho Dương Bất Hối. Nào ngờ thủ pháp
điểm huyệt của Ban Thục Nhàn rất tinh diệu, Trương Vô Kỵ nắn mãi vẫn không
giải được, lúc này sự thế khẩn bách, không dám thử các phương pháp khác,
nên ôm con bé lên, mở cửa sổ nhìn ra, không thấy ai liền bỏ Dương Bất Hối ra
ngoài.
Nếu Hà Thái Xung dùng chân khí thúc đẩy các huyệt đạo, chỉ nửa giờ là các
huyệt đạo cũng giải khai, nay thấy Trương Vô Kỵ đang định bỏ trốn, sợ khi bà
vợ tra hỏi thể nào cũng gây rắc rối, huống chi để một thằng bé con phái Võ
Đương tay không trốn từ Tam Thánh Đường của phái Côn Lôn xuống, đem
chuyện vong ân phụ nghĩa của mình truyền khắp giang hồ, thì còn mặt mũi
nào xưng là một đại tông sư?
Thành thử không thể nào không bắt y lại giết đi, nên y hít một hơi dài, đang
tính kêu lên báo động cho vợ biết. Trương Vô Kỵ đã tính đến chuyện đó, lấy
trong bọc ra một viên thuốc màu đen, nhét vào mồm cô năm, nói: -Đây là một
viên Cưu Tì Hoàn, mười hai giờ đồng hồ sau, ngũ phu nhân sẽ bị đứt ruột,
đứng tim mà chết. Tôi sẽ để thuốc giải cách đây ba mươi dặm trên một cây to,
có đánh dấu, ba giờ đồng hồ sau, Hà tiên sinh có thể sai người đến lấy. Nếu tôi
đi ra mà bị bắt lại, thì có thêm một người nữa chết cùng với tôi cũng là điều
hay.
Vô Kỵ làm như thế thật ngoài dự liệu của Hà Thái Xung, y trầm ngâm một
chút, nói nhỏ: -Tiểu huynh đệ, tuy Tam Thánh Đường của chúng tôi không
phải đầm rồng hang hổ gì, nhưng hai đứa trẻ như các ngươi, không thể nào
qua được đâu.
Trương Vô Kỵ biết y không nói sai, lạnh lùng đáp: -Thế nhưng viên thuốc Cưu
Tì Hoàn mà ngũ phu nhân vừa uống, tại đây ngoài tôi ra không ai có thể giải
cứu được.
Hà Thái Xung nói: -Được rồi, cậu giải huyệt cho tôi, tôi sẽ đích thân đưa cậu
xuống núi.
Hai huyệt Hà Thái Xung bị điểm là Phong Trì và Kinh Môn, Trương Vô Kỵ liền
xoa bóp các huyệt Thiên Trụ, Hoàn Khiêu, Đại Truy, Thương Khúc một hồi,
nhưng không hiệu quả. Hai người thầm phục lẫn nhau, Trương Vô Kỵ nghĩ
thầm: “Công phu điểm huyệt của phái Côn Lôn quả là ghê gớm, Hồ tiên sinh
truyền cho ta tất cả bảy phương pháp giải huyệt khác nhau, ta áp dụng mà
không có hiệu quả”.
Hà Thái Xung lại nghĩ bụng: “Tiểu tử này sao biết nhiều phương pháp giải
huyệt thế, thủ pháp quái dị, thực là cao minh. Sư tỉ rõ ràng điểm bảy tám chỗ
trên người y, vậy mà sao không ăn thua gì cả? Phái Võ Đương những năm gần
đây danh chấn giang hồ, lão đạo Trương Tam Phong quả thực bản lãnh không
ai sánh kịp. Hôm đó ở trên núi Võ Đương, may mà mình không động thủ với
họ, nếu không thể nào cũng bị bẽ mặt. Một đứa bé con mà đã thế này, lớn lên
còn lợi hại gấp mười”.
Y không biết công phu tự thông huyệt đạo của Vô Kỵ là học ở Tạ Tốn, còn
phép giải huyệt là do Hồ Thanh Ngưu truyền thụ, việc phái Võ Đương danh
chấn thiên hạ với hai công phu bản lãnh của Vô Kỵ không có liên can gì.
Hà Thái Xung thấy y giải huyệt không hiệu quả, bỗng chợt nghĩ ra, nói: -Cậu
đem bình trà lại đây, cho tôi uống vài ngụm.
Trương Vô Kỵ không hiểu sao y đột nhiên lúc này lại đòi uống trà, nhưng chắc
rằng vì lo lắng cho tính mạng ái thiếp, không dám giở trò gì với mình, nên lấy
bình trà đem lại để vào miệng cho ông ta uống. Hà Thái Xung uống một ngụm
to, nhưng không nuốt xuống, nhắm thẳng vào huyệt Thanh Lãnh Uyên ở
khoeo tay phun mạnh một cái. Một luồng nước vọt thẳng ra nghe phụp một
tiếng, lập tức giải ngay huyệt đạo trên tay y.
Trương Vô Kỵ từ khi đến Tam Thánh Đường ở núi Côn Lôn, chỉ thấy Hà Thái
Xung lo lắng buồn rầu vì bệnh trạng của cô năm, sợ vợ cả chiều vợ lẽ, vừa
khiếp nhược vừa nhỏ nhen, chẳng khác gì một người đàn ông tầm thường,
bây giờ lần đầu thấy y hiển thị võ công, không khỏi giật mình kinh sợ: “Võ
công của vị chưởng môn phái Côn Lôn thâm hậu như thế, vậy mà trước nay
mình vẫn cứ coi thường ông ta. Xem ra ông ta không kém gì Du nhị sư bá, Kim
Hoa bà bà, Diệt Tuyệt sư thái. Lúc đầu mình thấy ông ta tầm thường, kém cỏi,
quên rằng ở vị trí chưởng môn phái Côn Lôn ắt phải có điểm người khác không
theo kịp. Luồng tên nước này mà nhắm vào mặt hay ngực ta, thể nào mình
cũng chết ngay”.
Hà Thái Xung lấy tay phải quay quay vài vòng, rồi tự giải huyệt ở trên đùi
mình, nói: -Ngươi cho cô ta uống giải dược trước đi, ta sẽ đưa ngươi ra khỏi
thung lũng an toàn.
Trương Vô Kỵ lắc đầu, Hà Thái Xung vội vã nói: -Ta là chưởng môn phái Côn
Lôn, không lẽ thất tín với một đứa trẻ như ngươi sao? Lỡ như độc tính phát
tác, thì biết làm cách nào bây giờ?
Trương Vô Kỵ đáp: -Chất độc không phát bất ngờ đâu.
Hà Thái Xung thở dài một tiếng, nói: -Được rồi, bọn mình lẻn đi vậy.
Hai người đi ra bằng cửa sổ, Hà Thái Xung dùng tay phất nhẹ một cái vào lưng
Dương Bất Hối, lập tức giải ngay huyệt đạo cho cô bé, thủ pháp khinh linh
không ai bì kịp. Trương Vô Kỵ thật là bội phục, ánh mắt lộ vẻ hâm mộ, Hà Thái
Xung biết được tâm ý của y, mỉm cười, mỗi tay dắt một đứa, vòng qua hoa
viên đằng sau Tam Thánh Đường, theo cửa hông mà đi.
Tam Thánh Đường trước sau có đến chín lối vào, đi khỏi hoa viên, lại theo một
dãy hoa vòng vèo, qua khỏi nhiều sảnh đường khác nữa. Chỉ thấy nhà cửa san
sát, cổng trong cổng ngoài, nếu không do Hà Thái Xung đích thân dẫn đi,
Trương Vô Kỵ thể nào cũng lạc, dù đệ tử phái Côn Lôn không ngăn trở cũng
chưa chắc đã qua được.
Qua khỏi Tam Thánh Đường, Hà Thái Xung tay phải bồng Dương Bất Hối, tay
trái cắp Trương Vô Kỵ, thi triển khinh công theo hướng tây bắc mà chạy.
Trương Vô Kỵ bị y ôm lên, thân hình nhẹ nhàng bay bổng, mỗi lần nhảy cả hơn
một trượng, chỉ thấy gió ù ù bên tai, chẳng khác gì bay trong không trung,
khiến cho tấm lòng kính phục phái Côn Lôn và bản thân Hà Thái Xung tăng
thêm mấy phần.
Y biết chất độc trong bụng chưa hết, vội vàng móc trong bọc ra hai viên thuốc
giải độc, uống vào lúc ấy mới yên tâm. Đang chạy đi, bỗng nghe tiếng đàn bà
kêu: -Hà Thái Xung … Hà Thái Xung … mau đứng lại ta bảo …
Tiếng nói đó theo gió mà tới, tưởng như thật xa, mà cũng thật gần, chính là
giọng của Ban Thục Nhàn. Hà Thái Xung hơi chần chừ, rồi đứng lại, thở dài
nói: -Tiểu huynh đệ, hai người mau chạy đi, nội nhân đuổi tới nơi rồi, ta không
thể giúp hai người được nữa.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Người này đối với ta cũng không đến nỗi tệ bạc lắm”
liền nói: -Hà tiên sinh, ông về đi được rồi. Viên thuốc tôi cho cô năm uống
không phải độc dược đâu, cũng chẳng phải Cưu Tì Hoàn, chỉ là một viên thuốc
giảm ho, thông cổ Tang Bối Hoàn thôi. Mấy hôm trước Bất Hối muội muội bị
ho, tôi bào chế cho nó uống, còn mấy viên để lại, không khỏi làm ông kinh sợ.
Hà Thái Xung vừa tức vừa sợ, lại cũng yên tâm, quát lên: -Có thật không phải
độc dược chăng?
Trương Vô Kỵ đáp: -Ngũ phu nhân do tay tôi cứu sống, lẽ nào lại bỏ thuốc độc
hại bà ta.
Chỉ nghe Ban Thục Nhàn liên tiếp kêu réo: -Hà Thái Xung … Hà Thái Xung …
ngươi chạy có nổi không?
Tiếng gọi càng lúc càng gần. Hà Thái Xung sở dĩ ôm Trương Vô Kỵ và Dương
Bất Hối chạy trốn, chỉ vì sợ ái thiếp của y độc tính phát tác không trị kịp, bây
giờ biết chắc thuốc cô năm uống không phải là thuốc độc, hóa ra bị thằng nhỏ
này đánh lừa, cơn giận bùng lên, y liền giáng cho Vô Kỵ bốp bốp bốp bốp bốn
cái tát liền, khiến hai má thằng nhỏ sưng vù lên, mồm đầy máu.
Trương Vô Kỵ trong lòng hết sức hối hận, vội sử chiêu Đảo Kỵ Long trong Võ
Đương trường quyền, giơ tay đỡ. Chiêu này ví như cỡ Du Liên Châu sử dụng,
ắt uy lực vô cùng, nhưng Vô Kỵ chỉ học được chút vỏ bên ngoài, làm sao có
thể chống được với chưởng môn phái Côn Lôn? Hà Thái Xung hoi nghiêng
mình né qua, đánh ra một chưởng trúng ngay mắt phải Vô Kỵ, khiến mắt sưng
lên. Trương Vô Kỵ biết bản lãnh mình so với ông ta hơn kém quá xa, một chiêu
không ăn thua gì, đành thõng tay đứng chịu không kháng cự gì nữa.
Thế nhưng Hà Thái Xung đâu phải thằng bé đứng yên mà ngừng tay, y tay trái
một cái, tay phải một cái đánh liên tiếp không ngừng. Tuy chưởng của ông ta
không vận nội lực, nếu không một cú là đánh chết nó ngay, nhưng dù sao,
chưởng nào chưởng nấy cũng làm cho Vô Kỵ mắt hoa đầu váng, đau đớn
không sao chịu nổi.
Y vừa bắt đầu dụng kình, Ban Thục Nhàn đã dẫn hai đệ tử chạy đến, lặng lẽ
đứng một bên. Ban Thục Nhàn thấy Trương Vô Kỵ hoàn toàn không kháng cự,
không thấy hứng thú nói: -Ngươi đánh con bé đó thử coi.
Hà Thái Xung hơi chuyển người qua, nghe bốp một cái, đã tát cho Dương Bất
Hối một cái. Dương Bất Hối đau quá, lập tức khóc ré lên. Trương Vô Kỵ giận
dữ nói: -Ngươi đánh ta đi, sao lại ăn hiếp một đứa con gái nhỏ?
Hà Thái Xung không thèm để ý, lại giơ tay đánh Dương Bất Hối tiếp. Trương
Vô Kỵ nhảy tới, lấy đầu húc vào bụng y. Ban Thục Nhàn cười khẩy nói: -Một
đứa bé như thế, còn có tình nghĩa, có đâu như ngươi trăng hoa, là một đứa vô
tình vô nghĩa.
Hà Thái Xung nghe vợ mỉa mai, mặt đỏ bừng, chộp cổ Trương Vô Kỵ, ném ra
bên ngoài, quát lớn: -Đồ chó má, cho mày đi theo bố mẹ mày.
Y ném cái đó sử dụng lực thật sự, nhắm ngay một tảng đá lớn ở sườn núi liệng
tới. Trương Vô Kỵ thấy thân hình bay vụt đi, chỉ nháy mắt sẽ đập vào tảng đá,
đầu nát như tương.
Nào ngờ ngay lúc đó từ đâu một luồng lực đạo bay tới, đỡ lấy y đứng thẳng
trên mặt đất ngay bên cạnh tảng đá. Trương Vô Kỵ hồn phách chưa định, vừa
đứng xuống giương đôi mắt sưng vù nhìn qua, thấy cách độ năm thước, một
thư sinh trung niên mặc trường bào trắng bằng vải thô đứng đó.
Ban Thục Nhàn và Hà Thái Xung cùng kinh hãi, thư sinh này đến từ lúc nào, ở
đâu đến, sao họ không hề hay biết, dù y có trốn ở sau tảng đá, với bản lãnh
của hai người lẽ nào không phát giác? Hà Thái Xung khi ném Trương Vô Kỵ vào
tảng đá, lực đạo ít ra cũng năm sáu trăm cân, vậy mà thư sinh đó tay áo chỉ
cuộn một cái, lập tức tiêu giải, để Trương Vô Kỵ sang một bên, hiển nhiên võ
công thực là cao siêu. Người đó chỉ độ trên dưới bốn mươi, tướng mạo tuấn
nhã, có điều hai lông mày hơi xuôi xuống, hai bên mép có mấy ngấn sâu,
không khỏi có tướng buồn rầu khổ sở. Y không nói năng, không động đậy,
thần sắc thản nhiên, tưởng như đang mải mê nghĩ chuyện đâu đâu, không để
ý tới việc trước mắt.
Hà Thái Xung đằng hắng một tiếng, hỏi: -Các hạ là ai? Tại sao lại nhúng tay
vào việc người khác, can dự vào việc của phái Côn Lôn?
Thư sinh đó lạnh lùng đáp: -Có phải hai vị là Thiết Cầm tiên sinh và Hà phu
nhân chăng? Tại hạ là Dương Tiêu.
Hai chữ Dương Tiêu vừa ra khỏi cửa miệng, Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn,
Trương Vô Kỵ không hẹn mà cùng “A” lên một tiếng. Có điều tiếng kêu của Vô
Kỵ vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, còn vợ chồng họ Hà thì vừa kinh hoàng vừa
phẫn nộ. Chỉ nghe soẹt soẹt, hai đệ tử của phái Côn Lôn đã rút kiếm khỏi bao,
chuyển ngược cán lại đưa cho sư phụ sư mẫu.
Hà Thái Xung giơ kiếm ngang bụng, ra thế sử chiêu Tuyết Ủng Lam Kiều. Ban
Thục Nhàn mũi kiếm xeo xéo xuống đất, ra chiêu Mộc Diệp Tiêu Tiêu. Hai
chiêu này đều là kiếm pháp tinh áo của phái Côn Lôn, thoạt trông có vẻ tầm
thường, dễ dàng sơ sài, nhưng thực ra bên trong có ẩn bảy tám chiêu hết sức
ghê gớm. Hai người cũng đã vận nội lực lên cánh tay phải, chỉ cần rung cổ tay
một cái, kiếm quang lóe lên là đã đâm bảy tám chỗ yếu hại trên người địch
nhân. Lúc này hai người gặp phải kình địch, đành giở hết bình sinh tuyệt học
ra đối phó.
Dương Tiêu vẫn bình thản tưởng như không biết đến, nghe Trương Vô Kỵ
trong tiếng kêu đầy vẻ vui mừng, hơi ngạc nhiên, quay sang liếc y một cái. Lúc
này mặt Trương Vô Kỵ đầy máu tươi, mũi sưng mắt bầm, bị Hà Thái Xung
đánh không còn ra hình thù gì nữa, nhưng trong lòng đầy hoan hỉ, tuy khó coi
như thế nhưng niềm vui sướng vẫn lộ ra. Trương Vô Kỵ kêu lên: -Ông … ông
có phải là Quang Minh tả sứ giả của Minh giáo Dương Tiêu Dương bá bá đấy
không?
Dương Tiêu gật đầu, hỏi: -Sao một đứa bé như cậu lại biết được tên tôi?
Trương Vô Kỵ chỉ vào Dương Bất Hối, nói: -Nó là con gái của bác đó.
Y nắm tay Dương Bất Hối đưa đến nói: -Bất Hối muội muội, mau gọi cha đi,
mau gọi cha đi. Anh em mình cuối cùng đã tìm thấy ông ấy rồi.
Dương Bất Hối giương mắt trừng trừng nhìn Dương Tiêu, mười phần đến chín
không tin, ông ta có phải cha nó không nó cũng không cần, chỉ hỏi lại: -Mẹ
con đâu? Sao mẹ chưa bay từ trên trời xuống?
Dương Tiêu trong lòng bàng hoàng, chộp lấy đầu vai Trương Vô Kỵ, hỏi: -Này
cậu bé, ngươi nói cho rõ ràng. Nó … nó là con của ai, mẹ nó là ai?
Y tay dụng lực nắm chặt, đầu vai Trương Vô Kỵ kêu lách cách, đau thấu tâm
can. Trương Vô Kỵ không chịu hèn, quyết không kêu đau, nhưng sau cùng
cũng phải “A” lên một tiếng, nói: -Nó là con gái bác, mẹ nó là nữ hiệp Kỷ Hiểu
Phù của phái Nga Mi.
Mặt Dương Tiêu vốn đã xanh xao, lúc này lại không còn chút huyết sắc nào,
run run nói: -Nàng … nàng có con gái ư? Nàng … nàng bây giờ ở đâu?
Vội vàng cúi xuống bế Dương Bất Hối lên, thấy con bé bị Hà Thái Xung đánh
hai cái tát, mặt sưng vù, nhưng trong nét mày ánh mắt, vẫn có vài phần xinh
tươi của Kỷ Hiểu Phù. Đang định hỏi lại, đột nhiên Dương Tiêu thấy trên cổ nó
có một sợi dây tơ đen, nhẹ nhàng kéo ra, thấy ở đầu kia có đeo một cái thiết
bài, trên thiết bài có một ngọn lửa đang bốc cháy kết bằng chỉ vàng. Đó chính
là Thiết Diễm Lệnh của Minh giáo mà y đã tặng cho Kỷ Hiểu Phù, nên không
còn hoài nghi gì nữa, liền ôm chặt Dương Bất Hối vào lòng, hỏi: -Mẹ con đâu?
Mẹ con đâu?
Dương Bất Hối nói: -Mẹ con đi lên trời rồi, con đang đi tìm, ba có thấy mẹ con
không?
Dương Tiêu thấy nó còn bé quá, nói năng không rõ ràng, đưa mắt cho Trương
Vô Kỵ có ý dò hỏi. Trương Vô Kỵ thở dài một tiếng, nói: -Dương bá bá, cháu
nói ra bác đừng buồn. Kỷ cô cô bị sư phụ cô ta đánh chết rồi, lúc sắp chết …
Dương Tiêu la lớn: -Ngươi dối ta, ngươi dối ta.
Nghe một tiếng cách, cánh tay trái của Vô Kỵ đã bị y bóp gãy, lịch bịch lịch
bịch, cả hai người đều ngã lăn ra, tay phải Dương Tiêu vẫn còn ôm chặt đứa
con gái.
Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn đưa mắt nhìn nhau, hai người cùng vung
kiếm tới, chia nhau chỉ ngay vào cổ họng và giữa hai lông mày Dương Tiêu.
Dương Tiêu là đại cao thủ của Minh giáo, uy danh rất lớn. Sư phụ của Hà Thái
Xung và Ban Thục Nhàn là Bạch Lộc Tử chết dưới tay người của Minh giáo, thủ
phạm đích thực là ai không biết, nhưng người của phái Côn Lôn đều đổ riệt
cho Dương Tiêu. Hôm nay hai vợ chồng họ Hà bất ngờ gặp y tại đây, trong
bụng hết sức phập phồng, chưa biết sẽ ra sao, bỗng thấy y đột nhiên bất tỉnh,
quả thực là dịp may trời cho, lập tức ra tay chế ngự hai nơi yếu hại.
Ban Thục Nhàn nói: -Chặt đứt hai tay y đã rồi tính sau.
Hà Thái Xung đáp lời: -Đúng thế.
Lúc đó Dương Tiêu chưa tỉnh lại, Trương Vô Kỵ thì chỗ gãy trên tay đau nhói
đến toát mồ hôi, nhưng đầu óc vẫn tỉnh táo, thấy tình thế nguy cấp, vội lấy
chân điểm nhẹ vào huyệt Bách Hội trên đầu Dương Tiêu.
Huyệt Bách Hội liên quan đến óc, nay bị chấn động, Dương Tiêu lập tức tỉnh
lại, vừa hé mắt ra, thấy hơi lạnh rung rung, một mũi kiếm đang để ngay mi
tâm mình, kế tiếp ánh sáng xanh lấp lánh, một thanh kiếm khác chém xuống
tay trái. Y dù muốn ra chiêu chống trả, không sao kịp nữa, huống chi kiếm của
Ban Thục Nhàn chế ngự ngay chỗ yếu hại trên người khiến không thể nào cử
động được, nên vội vàng vận chân khí ra tay trái.
Trường kiếm của Hà Thái Xung chém xuống, đột nhiên mũi kiếm trượt sang
một bên, lưỡi kiếm cũng không xuống được, giống như chém phải một vật vừa
trơn vừa dai, nhưng thấy máu đã vọt ra tay áo trắng, y cũng đã bị thương.
Ngay lúc đó, thân hình Dương Tiêu đột nhiên chuồi về phía sau hơn một
trượng, tưởng như có ai lấy dây buộc vào cổ y dùng thủ pháp thật nhanh kéo
đi. Kiếm của Ban Thục Nhàn vốn đã để vào mi tâm của Dương Tiêu, thân y
tuột về sau nhanh quá, mũi kiếm liền rạch từ giữa hai lông mày xuống mũi,
miệng, ngực thành một đường máu dài, sâu đến vài phân. Chiêu này thực là
nguy hiểm, nếu mũi kiếm của Ban Thục Nhàn chỉ nhấn sâu thêm độ nửa tấc,
Dương Tiêu sẽ không khỏi bị cái họa mổ bụng phanh thây. Thân hình y vừa
lướt ra được, lập tức dựng tưng lên, tưởng như thân thể có một cái lò so,
nhưng người thì lại cứng đơ đơ, trông không khác gì một xác chết.
Dương Tiêu vừa đứng lên, hai chân đạp xuống, nghe lách cách hai tiếng, song
kiếm của vợ chồng họ Hà gãy đôi ngay. Tuy hai chân của y đạp xuống có trước
có sau, nhưng nhanh như ánh chớp, tưởng như đạp xuống cùng một lúc vậy.
Với tài nghệ kiếm pháp của Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn, Dương Tiêu võ
công tuy cao, nhưng cũng không thể nào chỉ một chiêu đã đạp gãy binh khí
của hai người, nhưng vì chiêu số quái dị, đã trọng thương rồi lại đột nhiên
thoát thân phản kích, vợ chồng họ Hà đang kinh hãi, không kịp rút kiếm về.
Dương Tiêu lập tức hai chân đá ra, hai mảnh lưỡi kiếm lập tức chia ra bắn vào
hai người. Vợ chồng Hà Thái Xung liền giơ hai thanh kiếm gãy ra đỡ, tuy gạt
được ra nhưng cũng hoảng sợ, vội nhảy lùi về phía sau, người đứng bên tây
bắc, kẻ đứng phía đông nam. Hai vợ chồng mỗi người cầm một nửa thanh
kiếm, dương kiếm chỉ lên trời, âm kiếm chỉ xuống đất, song kiếm hợp bích, sử
dụng Lưỡng Nghi kiếm pháp của phái Côn Lôn, trong lòng tuy hoảng hốt,
nhưng vẫn khí định thần nhàn, ngưng trọng như núi.
Lưỡng Nghi kiếm pháp của phái Côn Lôn nổi danh đã mấy trăm năm, là một
trong những kiếm pháp nổi danh trong thiên hạ, hai vợ chồng họ Hà đồng
môn học nghệ, từ trẻ luyện đến già, tinh thục vô cùng. Dương Tiêu đã mấy lần
đại chiến với phái Côn Lôn, biết kiếm pháp này rất lợi hại, tuy không sợ gì,
nhưng muốn đánh bại hai người không thể nào dưới vài trăm chiêu, lúc này
chĩ nghĩ đến việc sống chết của Kỷ Hiểu Phù, làm gì có bụng nào mà tranh
đấu. Huống chi trên tay và trên mặt thương thế không phải là nhẹ, nếu để
máu chảy mãi, sẽ thực là hung hiểm, nên cười nhạt nói: -Phái Côn Lôn càng
ngày càng tệ hại, hôm nay ta tạm bỏ qua, sau này sẽ kiếm hiền kháng lệ[6]
đòi món nợ này.
Y tay trái bồng Dương Bất Hối, tay phải nắm Trương Vô Kỵ, không thấy y cử
động đôi chân, đột nhiên thụt lùi hơn một trượng, xoay mình một cái đã vọt ra
ngoài mấy trượng. Vợ chồng Hà Thái Xung đang kinh hoảng, nay thấy tên đại
ma đầu tự ý bỏ đi, nên nào dám đuổi theo.
Dương Tiêu dắt hai đứa trẻ chạy một mạch luôn mấy dặm, đột nhiên ngừng
lại, hỏi Trương Vô Kỵ: -Kỷ Hiểu Phù cô nương sự thể như thế nào?
Y đang chạy nhanh, nào ngờ muốn dừng là dừng, thân hình như đóng chặt
dưới đất, không di động nửa phân. Trương Vô Kỵ thu thế không kịp, ngã bổ
nhào về trước, nếu không được Dương Tiêu níu lại, ắt đã lăn dưới đất, nghe y
hỏi như thế, thở hổn hển mấy lần mới nói: -Kỷ cô nương đã chết rồi, bác tin
cũng được, không tin cũng không sao, việc gì phải bóp gãy tay cháu.
Dương Tiêu trên mặt thoáng vẻ ân hận, hỏi tiếp: -Nàng … vì sao nàng chết?
Thanh âm dường như có chiều nghẹn ngào. Trương Vô Kỵ uống phải độc tửu
của Ban Thục Nhàn, tuy đã nôn ra gần hết, trên đường cũng đã uống hai viên
thuốc giải độc, nhưng chất độc chưa hết hẳn, lúc này trong bụng lại bắt đầu
đau. Y lấy con kim quan huyết xà cho nó cắn đầu ngón tay trỏ hút chất độc,
một mặt kể cho Dương Tiêu nghe tại sao y biết được Kỷ Hiểu Phù, làm sao trị
bệnh cho cô ta, tại sao nàng bị Diệt Tuyệt sư thái đánh chết kể lại đầu đuôi.
Đến khi kể xong, kim quan huyết xà cũng đã hút hết máu độc trong cơ thể y.
Dương Tiêu lại hỏi kỹ những lời nàng thốt ra khi sắp chết, rơi lệ nói: -Diệt
Tuyệt ác ni ép nàng phải đến hại ta, chỉ cần nàng nhận lời, là sẽ lập được đại
công với phái Nga Mi, có thể kế thừa chức vụ chưởng môn. Ôi, Hiểu Phù ôi
Hiểu Phù, em thà chết chứ không chịu làm. Thực ra, em chỉ cần giả vờ ưng
thuận, hai đứa mình chẳng những gặp lại nhau, mà cũng chẳng chết dưới tay
của Diệt Tuyệt ác ni đâu.
Trương Vô Kỵ nói: -Kỷ cô cô là người chính trực, cô không muốn lén hạ độc thủ
hại bác, lại cũng không muốn dùng lời giả dối để đánh lừa sư phụ.
Dương Tiêu buồn bã nhếch mép: -Cậu quả thực đáng là người tri kỷ của Hiểu
Phù … đâu ngờ rằng sư phụ nàng độc ác đến thế, đang tâm giết nàng.
Trương Vô Kỵ nói: -Cháu đáp ứng Kỷ cô cô, đưa Bất Hối muội muội đến giao
cho bác …
Dương Tiêu giật mình, nói: -Bất Hối muội muội?
Y quay sang hỏi Dương Bất Hối: -Con yêu quí của bố, con họ gì? Tên gì?
Dương Bất Hối đáp: -Con họ Dương, tên là Bất Hối.
Dương Tiêu ngửng đầu lên hú một tiếng dài, làm chấn động bốn bề, lá cây rơi
lả tả hồi lâu chưa dứt, nói: -Con quả thực họ Dương. Bất Hối, Bất Hối. Đúng
rồi, Hiểu Phù ơi, tuy ta cưỡng bức em, nhưng không vì thế mà em hối tiếc.
Trương Vô Kỵ đã nghe Kỷ Hiểu Phù kể qua cái nghiệt duyên của hai người, lúc
này thấy Dương Tiêu anh tuấn tiêu sái, tuổi tuy có hơi lớn, nhưng không mất
cái phong độ của một người đàn ông đẹp trai, so với Ân Lê Đình lục thúc vẫn
còn tính khí trẻ con, thì người như Dương Tiêu vẫn dễ được đàn bà say đắm
hơn. Kỷ Hiểu Phù bị y cưỡng bức thất thân nhưng lại đổi thành mê say y, cũng
không trách cô ta được. Ở vào tuổi của Vô Kỵ tuy không hiểu rõ mọi bề, nhưng
cũng mơ hồ nhận ra điều đó.
Tay trái của Trương Vô Kỵ bị gãy đau đớn không chịu nổi, nhất thời không kiếm
ra các loại dược vật để tiếp cốt và giảm đau, đành phải nối xương trước, đắp ít
lá làm bớt sưng, bẻ hai cành cây dùng vỏ cây bó lại để giữ cánh tay. Dương
Tiêu thấy y tuổi còn nhỏ, một tay tiếp cốt trị thương, thủ pháp thập phần khéo
léo cũng lấy làm lạ.
Trương Vô Kỵ buộc tay xong rồi, nói: -Dương bá bá, cháu không phụ lòng ủy
thác của Kỷ cô cô, Bất Hối muội muội đã gặp được cha. Vậy mình chia tay từ
đây.
Dương Tiêu nói: -Cậu đường xa vạn dặm, đưa con ta đến, lẽ nào ta không có
gì báo đáp? Cậu muốn gì, chỉ cần mở miệng nói ra, chuyện gì mà Dương Tiêu
này không làm được, vật gì mà ta không lấy được, thiên hạ chắc cũng không
mấy người làm nổi.
Trương Vô Kỵ cười ha hả, nói: -Dương bá bá, bác xem Kỷ cô cô nhẹ thể quá,
uổng công cô ấy chết vì bác.
Dương Tiêu mặt mày đại biến, quát hỏi: -Ngươi nói gì?
Trương Vô Kỵ nói: -Kỷ cô cô không coi thường cháu, nên mới gửi con để cháu
mang đến cho bác, nếu vì cháu cầu gì mà đến đây, người như thế có đáng để
gửi gấm chăng?
Y trong bụng nghĩ thầm: “Trên đường đi em Bất Hối gặp biết bao điều nguy
nan, ta bao nhiêu lần lấy thân ra đỡ? Nếu ta là kẻ tham lợi vô nghĩa, làm gì cha
con hôm nay có thể đoàn viên?”. Thế nhưng y không phải là người thích khoe
khoang công lao, một câu cũng không đề cập đến những nguy khốn dọc
đường, nên chỉ nói thêm vài câu rồi cúi đầu vái chào, quay mình ra đi.
Dương Tiêu nói: -Khoan đã, cậu giúp tôi một việc to tát như thế, Dương Tiêu
trước nay có oán tất trả, có ơn tất đền. Cậu theo ta, chỉ trong một năm, ta sẽ
truyền cho cậu vài pho võ công trên đời ít ai địch lại.
Trương Vô Kỵ chính mắt thấy y đạp gãy hai thanh trường kiếm của vợ chồng
Hà Thái Xung, võ công cao cường như thế, trên giang hồ quả thực ít ai sánh
kịp, chỉ cần học được của y một chiêu, nửa thức sẽ có ích rất nhiều. Thế
nhưng nghĩ đến thái sư phụ từng dặn đi dặn lại, không được lai vãng với người
trong Ma giáo, huống chi tuy võ công có cao, nhưng y sao bằng được thái sư
phụ? Hơn nữa mình chỉ còn sống được nửa năm nữa thôi, dù có học được võ
công tuyệt thế vô địch, cũng có làm gì? Nghĩ thế y bèn nói: -Đa tạ Dương bá
bá đã có lòng, nhưng vãn bối là đệ tử phái Võ Đương, không dám đi học cao
chiêu của phái khác.
Dương Tiêu “A” lên một tiếng, nói: -Thì ra cậu là đệ tử phái Võ Đương? Thế Ân
Lê Đình … Ân lục hiệp …
Trương Vô Kỵ tiếp lời: -Ân lục hiệp là sư thúc của cháu, từ khi tiên phụ chết đi,
Ân lục thúc đối với cháu chẳng khác gì chú ruột. Cháu nhận lời gửi gấm của Kỷ
cô cô đưa em Bất Hối đến núi Côn Lôn, đối với Ân lục thúc không khỏi …
không khỏi có điều bất ổn trong lòng.
Dương Tiêu gặp ánh mắt của y bỗng thấy ăn năn, tay phải vẫy một cái, nói: –
Dương mỗ thâm cảm đại đức, hổ thẹn không có gì báo đáp. Nếu đã như thế,
sau này mong có dịp gặp lại.
Thân hình y động nhẹ một cái, đã vọt ra ngoài mấy trượng. Dương Bất Hối kêu
to: -Vô Kỵ ca ca, Vô Kỵ ca ca.
Nhưng Dương Tiêu đã thi triển khinh công, trong khoảnh khắc đã đi xa tít,
những tiếng Vô Kỵ ca ca nhỏ dần, sau cùng cả người lẫn âm thanh đều biến
mất.
[1] Địa danh thuộc tỉnh Hà Nam, phía bắc huyện Xác Sơn bốn mươi dặm.
[2] Đúng nghĩa là một chỗ đất trũng
[3] phèn trắng
[4] tì sương tức là thạch tín, hay nhân ngôn, hạc đính hồng là cái mào con
hạc, khổng tước đảm là mật chim công, trẩm tửu là lông chim trẩm ngâm vào
rượu đều là những chất độc
[5] rút bớt củi dưới bếp đang đun, một trong ba mươi sáu kế ngày xưa (Tam
Thập Lục Kế) ý nói nhân việc nọ làm việc kia luôn thể
[6] vợ chồng (chữ dùng văn vẻ)
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.