Ỷ THIÊN ĐỒ LONG KÝ
23. Linh phù túy khách lục liễu trang
Hương thắm thơm nồng nơi thủy các,
Sóng tình Mông-Hán đã xiêu xiêu.
Dẫu cho hai ngả khôn đường gặp,
Một lần rung động cũng nên yêu.
Đoàn người đi được độ hơn một trăm dặm, giữa sa mạc liền dừng lại nghỉ
ngơi. Trương Vô Kỵ ngủ đến giữa đêm, bỗng nghe từ phía tây mơ hồ vọng về
tiếng leng keng, leng keng kim loại chạm nhau, trong bụng thảng thốt, lập tức
len lén trở dậy, đi về phía thanh âm truyền tới. Được hơn một dặm, chàng thấy
một bóng người mảnh khảnh di động dưới ánh trăng, vội tiến tới, kêu lên: –
Tiểu Siêu, sao cô lại tới đây?
Bóng người đó chính là Tiểu Siêu. Nàng đột nhiên gặp lại Trương Vô Kỵ, òa lên
khóc, sà vào lòng chàng, nức nở không nói gì. Trương Vô Kỵ vỗ nhẹ lên đôi vai,
nói: -Thôi em ngoan, đừng khóc nữa, đừng khóc nữa.
Tiểu Siêu dường như bao nhiêu nỗi niềm bây giờ mới có dịp phát tiết, lại càng
khóc lớn thêm, thổn thức: -Công tử đi đâu, em … em sẽ đi theo đó.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Cô bé này cha mẹ mất cả rồi, lại bị cha con Dương
tả sứ nghi ngờ, mười phần đáng thương. Có lẽ vì mình đối với cô ta ôn hòa trìu
mến, nên cô ta mới quyến luyến không muốn rời”. Chàng bèn nói: -Được rồi,
đừng khóc nữa, vậy tôi mang cô cùng đi hải ngoại nhé.
Tiểu Siêu mừng quá, ngẩng đầu lên, dưới ánh trăng mờ ảo, khuôn mặt xinh
đẹp nhỏ nhắn của nàng như phủ một lớp lụa mỏng, những giọt lệ chưa khô
lấp lánh, đôi mắt xanh như màu nước biển dường như tỏa ra một nỗi bồi hồi.
Trương Vô Kỵ mỉm cười nói: -Tiểu Siêu, mai này lớn lên cô thể nào cũng cực kỳ
xinh đẹp.
Tiểu Siêu hỏi lại: -Sao công tử biết?
Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, bỗng nghe phía đông bắc có tiếng vó ngựa lộp
bộp, một đại đội nhân mã từ tây sang đông, chạy vụt qua, ít ra cũng phải hơn
trăm con. Qua một lúc sau, Vi Nhất Tiếu và Dương Tiêu trước sau chạy đến,
nói: -Giáo chủ, trong đêm hôm khuya khoắt có đại đội nhân mã chạy như thế,
không chừng có địch ý với bản giáo.
Trương Vô Kỵ bảo Tiểu Siêu đi đến gặp bọn Bành Oánh Ngọc, còn mình cùng
Dương Vi hai người chạy về phía có tiếng vó ngựa để tra xét. Đi đến gần, quả
nhiên trên sa mạc còn một dãy vết chân ngựa. Vi Nhất Tiếu cúi xuống xem,
bốc một nắm cát lên, nói: -Có vết máu.
Trương Vô Kỵ cũng bốc một nắm cát đưa lên mũi, quả nhiên ngửi thấy mùi
máu tanh. Ba người theo vết chân ngựa đến ba bốn dặm, Dương Tiêu bỗng
thấy phía bên trái trong bãi cát có một mảnh đao gãy, vội cầm lên xem, thấy
cán đao có khắc ba chữ “Phùng Viễn Thanh”, hơi trầm ngâm, nói: -Đây là
người của phái Không Động. Thưa giáo chủ, có lẽ phái Không Động dự bị
ngựa xe tại chỗ này để về Trung Nguyên.
Vi Nhất Tiếu nói: -Từ Quang Minh Đính xuống đã hơn nửa tháng, nếu như họ
còn lẩn quẩn ở đây chẳng biết làm trò quỉ quái gì?
Ba người thấy là phái Không Động rồi, không thèm để ý nữa, quay về chỗ cũ
nằm ngủ.
Đi được năm ngày, từ thảo nguyên trước mặt có một đoàn người đi đến, phần
lớn mặc áo đen kiểu ni cô, nhưng cũng có bảy tám nam nhân. Hai bên đến
gần, một ni cô the thé kêu lên: -Đây là ác tặc của ma giáo.
Cả bọn lập tức rút binh khí, tản ra nghinh địch. Trương Vô Kỵ thấy đây là
người của phái Nga Mi, không hiểu sao đã đi rồi còn quay trở lại, mà những
người này chàng chưa gặp bao giờ nên cao giọng nói: -Các vị sư thái có phải
là môn hạ phái Nga Mi chăng?
Một ni cô người nhỏ bé vượt đám đông tiến ra, gay gắt hỏi: -Ác tặc ma giáo
kia, hỏi cái gì? Mau ra đây chịu chết.
Trương Vô Kỵ hỏi: -Sư thái thượng hạ xưng hô ra sao? Cớ sao lại nổi giận như
thế?
Ni cô đó quát lớn: -Ác tặc, thứ như ngươi mà dám hỏi danh hiệu ta ư? Ngươi
là ai?
Vi Nhất Tiếu phóng vụt ra, vào thẳng đám đông, điểm huyệt hai nam đệ tử,
nắm cổ cả hai người, chạy thẳng ra ngoài xa, ném xuống đất, rồi lại chạy về
chỗ cũ. Hành động đó chẳng khác gì chim cắt bắt mồi, nhanh không thể tả. Y
cười khẩy mấy tiếng, nói: -Vị này là Trương giáo chủ của Minh giáo, người võ
công đệ nhất đời nay, một kỳ nam tử can đảm vô song, thống suất Tả Hữu
Quang Minh Sứ Giả, Tứ Đại Hộ Giáo Pháp Vương, Ngũ Tản Nhân, Ngũ Hành
Kỳ, Thiên Địa Phong Lôi tứ môn, đã từng đuổi phái Nga Mi xuống núi, đoạt
thanh bảo kiếm Ỷ Thiên trong tay Diệt Tuyệt sư thái, với một nhân vật như thế
có đủ để hỏi pháp danh của sư thái hay chăng?
Y nói một thôi một hồi, quần đệ tử phái Nga Mi ai nấy đều kinh hãi, lại vừa mới
thấy Vi Nhất Tiếu trổ chút công phu ngoài sức tưởng tượng như thế, còn ai
dám hoài nghi lời nói của y. Ni cô trung niên kia lấy lại bình tĩnh rồi nói: -Các hạ
là ai?
Vi Nhất Tiếu đáp: -Tại hạ họ Vi, ngoại hiệu là Thanh Dực Bức Vương.
Trong phái Nga Mi có mấy tiếng kêu lên hoảng hốt, bốn người vội chạy đến
xem hai gã đồng môn vừa bị Vi Nhất Tiếu điểm huyệt vứt ngoài xa. Vi Nhất
Tiếu nói: -Phụng Trương giáo chủ hiệu lệnh, Minh giáo và lục đại môn phái
chấm dứt binh đao, bỏ hết thù cũ giao hảo với nhau. Quí đồng môn cũng may
lắm đó nên Vi Bức Vương lần này tha không hút máu họ đâu.
Từ khi y được Trương Vô Kỵ dùng Cửu Dương thần công chữa thương, không
những trừ hết âm độc Huyễn Âm Chỉ mà những độc khí từ trước tích tụ cũng
hết đi quá nửa, nên không cần phải hút máu kháng hàn mỗi khi hành công
vận kình.
Bốn người đó dìu hai đồng môn bị điểm huyệt kia về, đang định tìm cách giải
huyệt chữa trị, bỗng nghe tách tách hai tiếng, tiếp theo nghe tiếng bay vút
trong không khí, hai viên sỏi nhỏ đã bắn tới, trúng ngay huyệt đạo hai người
kia, lập tức giải khai ngay các nơi bị điểm. Đó là Dương Tiêu dùng Đạn Chỉ
Thần Thông[1] ngược lại với công phu Trịch Thạch Điểm Huyệt[2].
Ni cô trung niên kia thấy đối phương người cũng không ít, mà chỉ mới hai
người lộ chút tài năng, võ công đã cao siêu ghê gớm, nếu như động thủ,
không thể nào không bị đánh tan tành. Thành thử dù tám chữ “chấm dứt binh
đao, bỏ hết thù cũ” không biết thật hay giả cũng nói: -Bần ni pháp danh Tĩnh
Không. Các vị có thấy sư phụ chúng tôi đâu không?
Trương Vô Kỵ đáp: -Tôn sư từ Quang Minh Đính xuống núi đã hơn nửa tháng,
chắc lúc này đã vào Ngọc Môn Quan rồi đó. Các vị từ phía đông lại, không lẽ
trên đường không gặp nhau hay sao?
Một người đàn bà chừng khoảng ba mươi ở đằng sau Tĩnh Không liền nói: -Sư
tỉ đừng nghe y nói láo, chúng ta chia ba ngả tiếp ứng, có hỏa tiễn làm tín hiệu
liên lạc, lẽ nào trên đường lại hụt không bắt gặp nhau?
Chu Điên thấy người kia ăn nói vô lễ, muốn dạy cho mấy câu bèn nói: -Cái đó
cũng lạ thật …
Trương Vô Kỵ hạ giọng nói: -Chu tiên sinh đừng chấp nhất bà ta làm chi. Bọn
họ không kiếm thấy sư phụ, dĩ nhiên nóng ruột.
Tĩnh Không mặt đầy vẻ hoài nghi, nói: -Gia sư và anh em đồng môn có phải đã
vào tay Minh giáo rồi chăng? Đại trượng phu quang minh lỗi lạc, việc gì phải
giấu diếm?
Chu Điên cười nói: -Thôi nói thực cho các người nghe, phái Nga Mi không
lượng sức mình, đến đánh Quang Minh Đính, từ Diệt Tuyệt sư thái trở xuống
đều bị bắt cả rồi, hiện nay đang nhốt dưới thủy lao, để cho họ ăn năn sám hối
mười năm tám năm, đến lúc đó có thả hay không còn tùy.
Bành Oánh Ngọc vội nói: -Các vị đừng nghe vị Chu huynh này nói giỡn. Diệt
Tuyệt sư thái thần công cái thế, môn hạ đệ tử ai ai võ công cũng cao cường,
làm sao lại lạc vào tay Minh giáo cho được? Lúc này hai bên quí phái và bản
giáo đã ngừng chiến giảng hòa với nhau, các vị trở về núi Nga Mi đi, tự nhiên
sẽ gặp.
Tĩnh Không nửa tin nửa ngờ, chần chừ không thể quyết định được. Vi Nhất
Tiếu nói: -Vị Chu huynh này thích nói đùa, không lẽ đường đường địa vị giáo
chủ tôn quí của bản giáo cũng lại đánh lừa tiểu bối hay sao?
Người đàn bà trung niên kia lại nói: -Trước nay ma giáo quỉ kế đa đoan, gian
trá giảo hoạt, lời nói làm sao tin cho được?
Chưởng kỳ sứ Hồng Thủy Kỳ là Đường Dương liền phất tay một cái, lập tức
Ngũ Hành Kỳ giãn ra xa xa, sau đó lại bao vây trở lại. Cự Mộc ở phía đông, Liệt
Hỏa tại phía nam, Nhuệ Kim tại phía tây, Hồng Thủy tại phía bắc, còn Hậu Thổ
thì ở bên ngoài di động tiếp ứng, vây chặt tất cả người của phái Nga Mi.
Ân Thiên Chính lớn tiếng nói: -Lão phu là Bạch Mi Ưng Vương, chỉ cần một
mình ta ra tay, là đã có thể bắt được tất cả bọn tiểu bối chúng bay rồi. Minh
giáo hôm nay thủ hạ lưu tình, những người ít tuổi các ngươi sau này ăn nói
cho có ý tứ.
Mấy câu đó oang oang vang động, chấn động đến nỗi những người của phái
Nga Mi ù cả tai, tâm thần hoảng hốt, không tự chế nổi. Chỉ thấy ông ta mày
râu trắng xóa, thần uy lẫm lẫm, ai nấy đều kinh hãi.
Trương Vô Kỵ chắp tay nói: -Khi nào gặp lại tôn sư, xin cho Trương Vô Kỵ của
Minh giáo gửi lời hỏi thăm sức khỏe lão nhân gia.
Nói xong quay về hướng đông đi thẳng. Đường Dương đợi Vi Nhất Tiếu, Ân
Thiên Chính cả bọn đi rồi lúc ấy mới vẫy tay triệu hồi Ngũ Hành Kỳ. Quần đệ tử
phái Nga Mi thấy thế, trong bụng hãi thầm, đứng nhìn Trương Vô Kỵ và đồng
bọn đi xa xa, miệng há hốc, không nói nên lời. Bành Oánh Ngọc nói: -Giáo chủ,
tôi xem chuyện này bên trong có điều bất thường. Diệt Tuyệt sư thái cùng đệ
tử trở về theo hướng đông, không lẽ lại lạc không gặp môn nhân. Các môn các
phái đi đường thể nào chẳng có tín hiệu, lẽ nào biến mất không để lại tăm hơi
gì?
Mọi người vừa đi vừa bàn thảo, cảm thấy phái Nga Mi bao nhiêu người bỗng
dưng mất tích trên sa mạc, quả thật khó hiểu, Trương Vô Kỵ lại lo lắng cho an
nguy của Chu Chỉ Nhược, nhưng không tiện nói với người ngoài.
Hôm đó đi đến tối, chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ là Nhan Viên bỗng nói: -Ở đây có
điều gì khác lạ.
Y chạy đến một hàng cây thấp ở phía trước quan sát, giật một chiếc thuổng từ
tay một giáo chúng bản kỳ rồi hì hục đào dưới đất. Một lát sau, quả nhiên lộ ra
một xác người. Cái xác đó đã thối rữa, mặt mũi không còn nhận ra, nhưng cứ
theo quần áo trên người, rõ ràng là đệ tử phái Côn Lôn. Các giáo chúng Hậu
Thổ Kỳ liền nhất tề đào bới, trong chốc lát đã thành một cái hố lớn, trong hố
để chất đống mười sáu tử thi, tất cả đều là người của phái Côn Lôn. Nếu như
người của môn phái họ chôn cất, ắt không thể nào đơn sơ như thế, hiển nhiên
là do kẻ địch mai táng. Xem xét những xác này, ai ai cũng có vết thương trên
người. Trương Vô Kỵ ra lệnh cho Hậu Thổ Kỳ chia ra từng người chôn cất riêng
rẽ cho tử tế.
Cả bọn người nọ nhìn người kia, bụng ai cũng hỏi thầm: “Ai giết bọn này?”.
Ngơ ngẩn một hồi, Bành Oánh Ngọc nói: -Nếu không truy cứu cho đến đầu
đến đũa, cái món nợ này thể nào cũng đổ lên đầu Minh giáo chúng ta.
Thuyết Bất Đắc lớn tiếng nói: -Các anh em nghe đây, nếu như đánh nhau ban
ngày ban mặt, mình có giáo chủ tất lãnh, tuy không dám nói là vô địch thiên
hạ, nhưng cũng không thể thua ai. Thế nhưng tên bắn trộm thì khó mà đề
phòng, từ rày trở đi, ăn uống gì, nghỉ ngơi ở đâu, chỗ nào cũng phải đề phòng
địch nhân ám toán, hạ độc.
Tất cả đồng thanh đáp ứng. Đi một quãng nữa, thấy mặt trời đỏ như máu, trời
từ từ tối dần, mọi người đang tính chuyện tìm chỗ nghỉ ngơi, bỗng thấy trên
trời phía đông bắc có bốn con kên kên ở trên không bay lượn vòng vòng. Đột
nhiên một con bay lao xuống, rồi lại bay vọt lên, lông rơi tơi tả, kêu kéc kéc
mấy tiếng, hiển nhiên bị vật gì đánh trúng.
Từ khi chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim Kỳ Trang Tranh bị chết vì kiếm Ỷ Thiên, Trương
Vô Kỵ đưa phó kỳ sứ Ngô Kình Thảo lên làm chính kỳ sứ, lúc này thấy chim kên
kên có vẻ lạ lùng, liền nói: -Để tôi đi xem.
Y dẫn theo hai người đồng bọn, vội chạy về phía đó. Một lúc sau, một giáo
chúng chạy trở lại, bẩm với Trương Vô Kỵ: -Bẩm cáo giáo chủ, Ân lục hiệp của
phái Võ Đương bị rơi xuống dưới vực cát.
Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, nói: -Ân lục hiệp ư? Có bị thương không?
Người kia đáp: -Dường như bị thương nặng, Ngô kỳ sứ thấy là Ân lục hiệp, sai
thuộc hạ cấp tốc báo cho giáo chủ. Ngô kỳ sứ hiện đang xuống dưới sa cốc
cứu giúp …
Trương Vô Kỵ lòng nóng như lửa đốt, không đợi y nói hết, vội vàng chạy đi.
Dương Tiêu, Ân Thiên Chính cả bọn lục tục chạy theo. Đi đến gần, thấy đó là
một cái vực cát thật lớn, sâu đến hơn chục trượng, Ngô Kình Thảo tay trái ôm
Ân Lê Đình, đi một bước lại sụp một cái, đang cố gắng hết sức để trèo lên.
Trương Vô Kỵ liền theo vách cát trượt xuống, đưa tay nắm cánh tay phải của
Ngô Kình Thảo, tay kia đưa vào thăm hơi thở, thấy vẫn còn thoi thóp, cũng hơi
yên lòng, vội đón lấy Ân Lê Đình. Chàng nhảy mấy cái đã ra khỏi sa cốc, để
ông ta nằm trên mặt đất, chăm chú xem kỹ, không khỏi vừa kinh hãi, vừa tức
giận, không biết tính sao.
Chỉ thấy Ân Lê Đình hơi thở yếu ớt đầu gối, khuỷu tay, cổ chân, cổ tay, ngón
chân, ngón tay tất cả các khớp xương đều bị đánh gãy không cử động được,
đối phương hạ độc đến thế thực khiến người ta phải ghê rợn. Tuy nhiên thần
trí vẫn chưa đến nỗi hôn mê, thấy Trương Vô Kỵ, mặt lộ vẻ vui mừng, nhả ra
hai viên đá. Thì ra sau khi bị thương, chàng bị người ta vứt xuống vực cát, nhờ
có nội lực tinh thuần, không đến nỗi chết ngay, kên kên sà xuống toan ăn thịt,
bị chàng nghiêng đầu ngoạm mấy viên đá, phun ra chặn chúng lại, cứ khổ sở
chống đỡ như thế đã mấy hôm nay.
Dương Tiêu thấy bốn con kên kên kia vẫn vòng vòng chưa chịu bỏ đi, chắc
chúng đợi khi nào bỏ xác Ân Lê Đình rồi sẽ đáp xuống ăn thịt, liền nhặt bốn
viên sỏi dưới đất, tách tách bắn liền mấy phát, cả bốn con kên kên đều rơi
xuống, con nào đầu cũng bị viên sỏi bắn trúng vỡ tan.
Trương Vô Kỵ trước hết cho Ân Lê Đình uống thuốc an thần giảm đau, sau đó
mói coi kỹ lại một lần nữa, thấy chân tay đến hơn hai mươi chỗ gãy, mỗi nơi
gãy đều bị địch dùng trọng thủ, lấy ngón tay bóp nát nhừ, không cách nào nối
lại được. Ân Lê Đình nói nhỏ: -Chẳng khác gì tam ca, bị phái Thiếu Lâm dùng
… Kim Cương chỉ lực … đánh đó …
Trương Vô Kỵ nhớ tới năm xưa nghe cha kể chuyện Du tam sư bá Du Đại
Nham bị phái Thiếu Lâm dùng Kim Cương chỉ lực bóp nát các khớp xương,
phải nằm liệt trên giường hơn hai mươi năm nay. Lúc đó cha chàng chưa gặp
mẹ chàng, không ngờ việc đã bao nhiêu năm, lại thêm một vị sư thúc bị
thương vì Kim Cương chỉ lực của phái Thiếu Lâm lần nữa. Chàng suy nghĩ một
lát rồi nói: -Lục thúc không phải lo lắng, chuyện này cứ giao cho điệt nhi, kẻ
gian nhất định chạy trời không khỏi nắng. Kẻ nào trong phái Thiếu Lâm, lục
thúc có nhận ra không?
Ân Lê Đình lắc đầu, mấy hôm nay chàng kiệt lực ráng sống, hơi sức không còn
chút nào, lúc này trong lòng vừa hết lo, chịu không nổi lập tức ngất đi. Trương
Vô Kỵ nghĩ đến thân thế mình, cha mẹ tự vẫn mà chết, cũng chỉ vì không nên
không phải với Tam sư bá, bây giờ Lục sư thúc lại gặp nạn, nếu không ép được
phái Thiếu Lâm giao ra kẻ gây nên tội lỗi, thì còn ra gì với hai vị Du Ân? Thì còn
ra gì đối với song thân đã quá cố? Chàng thấy Ân Lê Đình tuy bất tỉnh nhưng
tính mệnh không có gì đáng ngại, chỉ có điều tay chân gãy khó mà nối lại
được, xem ra sẽ chẳng khác gì Du Đại Nham.
Chàng kinh lịch chưa nhiều, thấy việc không quyết định được, phải kiếm chỗ
nào thanh tĩnh suy nghĩ cho chín, bèn chắp tay sau lưng, đi ra đằng xa, trèo
lên trên một cái gò nhỏ ngồi xuống, trong đầu hai ý nghĩ không ngừng xung
đột: “Nên hay không nên lên chùa Thiếu Lâm đi tìm kẻ tội khôi họa thủ kia, để
báo thù cho cha mẹ, tam sư bá, lục sư thúc? Nếu phái Thiếu Lâm thừa nhận
giao hung thủ ra thì mọi việc đều tốt đẹp, nếu không Minh giáo sẽ phải liên kết
với phái Võ Đương, cùng đối phó với phái Thiếu Lâm? Mình đã cùng tất cả anh
em cắt máu ăn thề, nhất quyết không đi sinh sự, tầm thù các môn phái bang
hội khác, nhưng nay việc lại đến ngay với mình, chính mình lại vứt bỏ lời thề
không lý gì nữa thì làm sao cho mọi người tuân phục được? Một khi đầu họa
đã mở ra rồi, từ nay oán oán tương báo, e rằng không biết bao nhiêu đời máu
chảy, bao nhiêu anh hùng hảo hán bỏ mạng vì chuyện này?”.
Lúc này trời đã tối hẳn, người của Minh giáo liền đốt lửa lên, làm lò nấu ăn.
Trương Vô Kỵ vẫn ngồi trên ngọn đồi, nhìn trăng lên dần, vẫn không định được
chủ ý, mãi đến nửa đêm, mới quyết định: “Phải lên núi Thiếu Lâm gặp chưởng
môn Không Văn thần tăng, nói rõ đầu đuôi, yêu cầu ông ta đưa ra một biện
pháp”. Nghĩ thế xong lại tưởng: “Nếu như mình nói xong rồi không đến đâu,
phải động thủ thì làm sao đây?”.
Chàng thở dài một tiếng, đứng lên, nghĩ thầm: “Ta tuổi còn trẻ, mới giữ nhiệm
vụ lớn, gặp ngay một chuyện thật khó nghĩ, chỉ một lòng muốn bãi chiến,
không tranh giành, thế nhưng những món nợ máu này lại ép mình phải tiến
tới. Ta đảm đương trọng nhiệm giáo chủ Minh giáo, từ chối cũng không xong,
bỏ đi cũng không được, từ nay còn bao nhiêu là lo buồn, khốn khổ thực không
kể đâu cho xiết. Giá như không làm giáo chủ có phải sướng biết bao?”.
Chàng trở về bên đống lửa, mọi người tuy bụng đói, nhưng chưa ai dám cầm
đũa ăn trước, vội vàng cung kính đứng lên. Trương Vô Kỵ thấy vậy áy náy, vội
nói: -Các vị từ rày về sau cứ dùng bữa tự nhiên, không phải đợi tôi làm gì.
Chàng đến thăm Ân Lê Đình, thấy Dương Bất Hối đang dùng nước nóng lau
những vết thương, đang cho chàng ăn cháo. Ân Lê Đình thần trí mơ hồ, đột
nhiên mắt mở to, trừng trừng nhìn Dương Bất Hối, kêu lên: -Hiểu Phù muội tử,
anh nhớ em biết là chừng nào, em có biết không?
Dương Bất Hối mặt đỏ bừng, thần sắc thật là bẽn lẽn, tay phải cầm muỗng nói
nhỏ: -Lục hiệp uống thêm vài thìa nữa.
Ân Lê Đình nói: -Em hứa đừng bao giờ xa anh nữa nhé.
Dương Bất Hối nói: -Được rồi, được rồi. Lục hiệp ăn thêm vài thìa rồi sẽ nói
sau.
Ân Lê Đình dường như trong lòng hết sức vui sướng, vội há mồm ăn ngay.
Hôm sau Trương Vô Kỵ truyền lệnh xuống, mọi người tạm thời đừng phân tán
vội, tất cả cùng đi lên chùa Thiếu Lâm trên núi Tung Sơn, hỏi cho ra nguyên ủy
việc Ân Lê Đình bị thương rồi sẽ tính sau. Cả bọn Vi Nhất Tiếu, Chu Điên thấy
Ân Lê Đình bị thương nặng như thế, trong bụng ai cũng bất bình, nghe giáo
chủ bảo đi lên Thiếu Lâm vấn tội, đều lớn tiếng hoan hô. Dương Tiêu vì việc Kỷ
Hiểu Phù, đối với Ân Lê Đình hết sức thương cảm, tuy không nói ra nhưng
trong bụng đã có chủ ý, quyết tâm hết sức vì chàng mà báo thù, lại bảo con
gái cố gắng chăm lo săn sóc, bù lại phần nào lỗi lầm khi xưa.
Từ đó trên đường không gặp chuyện gì khác lạ. Ân Lê Đình lúc mê lúc tỉnh,
Trương Vô Kỵ hỏi chàng bị thương thế nào, Ân Lê Đình ngơ ngẩn không kể rõ
được, chỉ nói: -Năm hòa thượng phái Thiếu Lâm vây đánh một mình ta. Đúng
là võ công phái Thiếu Lâm không thể nào lầm được.
Chẳng bao lâu cả đoàn tiến vào Ngọc Môn Quan, liền bán hết lạc đà chuyển
sang cưỡi ngựa, lại sợ người ngoài dòm ngó nên mua quần áo cải trang làm
khách thương. Có người thì đánh xe lừa, giả vờ như chở theo hàng hóa, thuốc
men.
Hôm đó sáng sớm mọi người đã ra đi, theo đường lớn Cam Lương mà đi, ánh
mặt trời chói lọi, trời đã bắt đầu nóng. Đi được chừng hai giờ, thấy trước mặt
một hàng dương liễu khoảng hai chục cây, ai nấy đều mừng rỡ, vội vàng thúc
ngựa đi tới dưới bóng cây nghỉ ngơi.
Đến gần hơn, đã thấy dưới tàn cây có chín người ngồi đó, tám người đàn ông
mặc quần áo kiểu thợ săn, bên hông đeo đao, lưng đeo cung tên, còn thêm
năm sáu con chim ưng dùng để đi săn, lông đen móng sắc, hình dáng trông
rất hiên ngang. Một người nữa là thanh niên công tử, mặc áo dài lam, phe
phẩy quạt lông không giấu vẻ ung dung sang trọng.
Trương Vô Kỵ nhảy xuống ngựa, liếc nhìn thanh niên công tử kia một cái, thấy
chàng ta tướng mạo cực kỳ đẹp đẽ, đôi mắt trắng đen rõ ràng, lấp loáng hữu
thần, cái quạt trong tay cán làm bằng bạch ngọc, bàn tay cầm quạt cũng
trắng không khác gì cán quạt. Bỗng mọi người không hẹn mà cùng nhìn xuống
ngang hông công tử đó, thấy thắt lưng có khóa bằng vàng, đeo một thanh
trường kiếm, trên cán kiếm có khắc hai chữ Ỷ Thiên theo kiểu triện. Nhìn kiếm
đó, hình dáng dài ngắn, chính là thanh kiếm Ỷ Thiên mà Diệt Tuyệt sư thái đã
dùng để đồ sát giáo chúng Minh giáo và Chu Chỉ Nhược đã dùng để đâm
Trương Vô Kỵ một nhát suýt chết. Người trong Minh giáo ai nấy ngạc nhiên,
Chu Điên nhịn không nổi toan lên tiếng hỏi. Ngay lúc đó, thấy trên đường cái
từ phía đông có tiếng vó ngựa lộp cộp, một đoàn người cưỡi ngựa chạy ào tới.
Đoàn người đó là một đội quân Nguyên, khoảng chừng năm sáu chục người,
lại có thêm khoảng trên trăm phụ nữ, bị quân Mông Cổ dùng thừng trói lôi
theo. Những người đàn bà đó phần lớn chân yếu tay mềm, làm sao chạy kịp
với ngựa, có người ngã lăn, liền bị kéo lê trên đất. Họ đều là người Hán, hiển
nhiên là dân chúng bị đoàn quân Nguyên này bắt cóc, hơn nửa y phục rách
bươm, có người lộ cả thân trên, khóc khóc mếu mếu, cực kỳ thảm thiết. Quân
Nguyên có đứa tay cầm bình rượu, uống đã nửa tỉnh nửa say, có kẻ vung roi
đánh túi bụi vào đám phụ nữ. Những tên quân Mông Cổ này lớn lên trên lưng
ngựa, thuật đánh roi cực kỳ xảo diệu, roi vung ra lúc rút về đều cuốn một
mảng quần áo của những người đàn bà. Những kẻ khác liền lớn tiếng reo hò,
cười nói xí xố.
Người Mông Cổ xâm nhập Trung Quốc đã gần một trăm năm, trước nay vẫn coi
người Hán chẳng bằng súc vật, nhưng ngay giữa ban ngày ban mặt làm trò
dâm ô hối nhục thế này thì là điều ít thấy. Người trong Minh giáo ai nấy mắt
như đổ lửa, chỉ chờ Trương Vô Kỵ ra lệnh một tiếng, là lập tức xông ra giết bọn
quân binh cứu người.
Thanh niên công tử kia bỗng nói: -Ngô Lục Phá, ngươi ra bảo bọn chúng thả
những người đàn bà ra, quấy rối như thế, còn ra cái giống gì nữa.
Thanh âm trong trẻo, vừa yểu điệu vừa nũng nịu, tưởng như giọng con gái.
Một đại hán đáp lời: “Vâng”, cởi giây buộc một con ngựa vàng dưới gốc cây,
nhảy lên lưng ra roi chạy lên, lớn tiếng quát: -Này, ban ngày mà làm loạn như
thế, các ngươi không có quan trưởng ước thúc hay sao? Mau thả đàn bà con
gái ra ngay lập tức.
Một tên quan quân trong đám Nguyên binh giục ngựa chạy ra, mắt lờ đờ say,
tay vẫn còn cắp một thiếu nữ, cười ha hả nói: -Thằng chó chết kia không
muốn sống hả, sao dám xen vào chuyện của các ông?
Đại hán nọ cười nhạt nói: -Thiên hạ loạn lạc khắp nơi, cũng vì chúng mày
không biết thương xót trăm họ mà ra cả, để ta dạy các ngươi một trận cho
biết phép tắc.
Tên quân nọ đánh giá đám người dưới bóng cây, trong lòng hơi lấy làm lạ,
nghĩ thầm dân chúng mỗi khi thấy quan binh, chạy cho nhanh còn không kịp,
còn bọn này không biết uống mật báo, ăn gan hổ hay sao mà lại dám can
thiệp vào việc của quan quân? Y liếc qua thấy trên khăn đầu của công tử nọ
có đính hai hạt châu to bằng quả long nhãn, lấp lánh phát quang, liền nổi lòng
tham, cười lớn: -Này chú thỏ con kia, đi theo ông, ta cho mày hưởng phúc.
Nói xong hai đùi thúc một cái, giục ngựa xông đến chàng thanh niên công tử.
Chàng kia vốn dĩ mặt mày hòa hoãn, thấy bọn Nguyên binh bạo hành không
nổi giận, bấy giờ nghe tên quân này vô lễ như thế, đôi lông mày hơi nhướng
lên nói: -Không để tên nào sống sót.
Tiếng “sót” vừa ra khỏi miệng, nghe vụt một tiếng, một mũi tên đã xuyên
thủng ngực tên quân kia, chính là do một người thợ săn đứng bên cạnh chàng
thanh niên bắn ra. Người đó phát tiễn thủ pháp thật nhanh nhẹn, kình lực lại
mạnh, dường như là một cao thủ bậc nhất võ lâm, thợ săn tầm thường làm
sao có tài như thế?
Chỉ nghe tách tách tách liên tiếp, cả tám người cùng bắn, quả thực có tài bách
bộ xuyên dương, không mũi tên nào hụt, một mũi tên bắn chết một tên
Nguyên binh. Bọn quân Nguyên thấy tình thế đột biến, giật mình kinh hoảng,
nhưng vốn cung tên thuần thục nên lớn tiếng kêu la lập tức bắn trả. Bảy
người thợ săn cũng đều nhảy lên lưng ngựa xông ra, cứ một mũi tên là một
đứa, chỉ trong khoảnh khắc đã bắn chết trên ba chục tên. Những đứa còn lại
thấy tình hình không ổn, luôn mồm kêu la, vội bỏ đám phụ nữ giục ngựa chạy
ngay. Thế nhưng ngựa của tám người thợ săn đều là tuấn mã, chạy nhanh
như gió đuổi theo, cứ tám mũi tên buông ra là có tám tên ngã xuống, đuổi
chưa đầy một dặm, tất cả quân Mông Cổ không còn ai sống sót.
Thanh niên công tử kia cũng nhảy lên ngựa, giục ngựa chạy đi, không quay
đầu nhìn lại lấy một lần. Y ra lệnh cho bộ thuộc trong nháy mắt giết hơn năm
chục tên quân Mông Cổ, tưởng như ăn cơm uống nước thường ngày, không
coi vào đâu cả. Chu Điên kêu lên: -Này, này, hượm đã, cho tôi hỏi một câu.
Công tử kia không thèm để ý đến, do tám người thợ săn hộ vệ theo sau, chạy
về hướng xa xa.
Trương Vô Kỵ, Vi Nhất Tiếu nếu như thi triển khinh công đuổi theo, cũng có
thể kịp ngựa đang chạy, hỏi chàng công tử này cho minh bạch, thế nhưng
thấy tám người thợ săn kia thần tiễn sát địch như thế, vẻ đầy hiệp nghĩa,
trong bụng ai cũng ngầm kính phục, không tiện mạo phạm đến họ. Mọi người
bàn tán xôn xao nhưng không ai đoán ra được lai lịch của chín người này.
Dương Tiêu nói: -Thanh niên công tử kia rõ ràng là gái giả trai, còn những cao
thủ ăn mặc như thợ săn kia đối với chàng ta cực kỳ cung kính. Tiễn pháp của
tám người đó thật là thần diệu, không giống nhân vật của môn phái nào ở
Trung Nguyên.
Lúc đó Dương Bất Hối và những giáo chúng trong Hậu Thổ Kỳ đã chạy ra an ủi
những người đàn bà bị bắt cóc, hỏi thăm tình hình mới biết đều là người ở các
thôn trấn chung quanh, bèn lục các xác quân Nguyên lấy kim ngân tài bảo
chia cho họ bảo họ tìm đường nhỏ tự kiếm đường về nhà.
Mấy ngày liền, quần hào vẫn tiếp tục bàn về chín người dừng cung tên giết
quân Nguyên kia, trong bụng ai ai cũng có chiều ái mộ, ân hận không có dịp
làm quen. Chu Điên nói với Dương Tiêu: -Dương huynh, lệnh ái vốn dĩ là một
mỹ nữ, thế nhưng so với tiểu thư mặc giả trai kia, cứ bề ngoài mà nói, xem ra
còn kém một chút.
Dương Tiêu nói: -Đúng vậy, đúng vậy. Bọn họ nếu như gia nhập bản giáo, cứ
tám người thợ săn kia phải xếp hạng trên cả Ngũ Tản Nhân.
Chu Điên giận dữ nói: -Nói thối bỏ mẹ, bọn ta cưỡi ngựa có kém gì ai đâu?
Ngươi thử bảo bọn họ thi tài với Chu Điên xem nào.
Dương Tiêu trầm ngâm rồi nói: -Cứ so với Chu huynh thì quả có kém thực,
nhưng nếu chỉ tính võ công thôi, xem ra họ có vẻ hơn Lãnh Khiêm huynh một
chút.
Trong năm người Ngũ Tản Nhân của Minh giáo thì Lãnh Khiêm võ công đứng
đầu, chuyện đó ai ai cũng biết. Dương Tiêu và Chu Điên trước nay vẫn không
hợp tính, tuy không còn công khai kèn cựa với nhau nhưng Chu Điên hễ có cơ
hội là cãi với Dương Tiêu vài câu ngay, bây giờ nghe y nói võ công tám người
thợ săn kia cao hơn Lãnh Khiêm, rõ ràng là trên tất cả Ngũ Tản Nhân, trong
bụng tức lắm, đang tính châm chọc mấy câu trả miếng, Bành Oánh Ngọc cười
nói: -Chu huynh lại bị Dương tả sứ cho vào tròng rồi, y định chọc cho Chu
huynh tức đấy mà.
Chu Điên cười sằng sặc nói: -Vậy ta không thèm tức xem làm gì được nào?
Thế nhưng chẳng mấy chốc, Chu Điên lại chỉ trích Dương Tiêu cưỡi ngựa
không được tinh thông, quần hào chỉ mặc kệ không ai trả lời.
Ân Lê Đình được Trương Vô Kỵ ngày ngày chữa trị, thần trí đã tỉnh táo nhiều,
kể lại hôm đó từ Quang Minh Đính chạy xuống, tâm thần khích động, nên lạc
lối, càng chạy càng xa, lang thang trong sa mạc mênh mông tám chín ngày.
Đến khi kiếm được đường cũ quay về thì không còn liên lạc được với huynh đệ
đồng môn phái Võ Đương nữa.
Hôm đó chàng bất ngờ gặp phải năm nhà sư Thiếu Lâm, những hòa thượng
đó không nói một lời, lập tức tiến lên gây sự. Năm nhà sư đó võ công rất cao,
tuy Ân Lê Đình đánh bại hai người nhưng quả bất địch chúng, cuối cùng bị
đánh trọng thương. Chàng thấy võ công họ đều thuộc phái Thiếu Lâm không
còn nghi ngờ gì nữa, nhưng chưa từng lên Quang Minh Đính nên không gặp
mặt bao giờ, xem ra có thể là người đi sau tiếp viện, nhưng vì cớ gì lại hạ độc
thủ thì không nghĩ ra. Chàng cũng đã thông báo tên tuổi, như thế không thể
nói là lầm người được.
Trên đường đi, Dương Bất Hối săn sóc Ân Lê Đình cực kỳ chu đáo, nàng biết
cha mẹ mình đã không phải với chàng thật nhiều, lại thấy bị nạn thê thảm như
thế, không khỏi chạnh lòng thương hại.
Đế sẩm tối hôm đó, quần hào qua khỏi Vĩnh Đăng, cố giục ngựa chạy nhanh
hơn mong đến được Giang Thành Tử nghỉ ngơi. Đang đi bỗng nghe tiếng vó
ngựa lộp cộp, trên đường cái có hai kỵ sĩ song song chạy đến, cách chừng
mươi trượng liền nhảy xuống ngựa, đứng tránh qua một bên đường, cử chỉ
thật là cung kính. Hai người đó mặc theo lối đi săn, chính là người trong bát
hùng bắn tên giết quân Nguyên hôm trước. Quần hào vui mừng, vội vàng
nhảy xuống ngựa đến chào hỏi.
Hai người đó đi đến trước mặt Trương Vô Kỵ, khom lưng hành lễ. Một người
cao giọng nói: -Tệ thượng[3] ngưỡng mộ hành vi nhân hiệp cao nghĩa của
Trương giáo chủ Minh giáo, cùng cung cách anh hùng của quí liệt vị, nên sai
tiểu nhân mời các vị dừng ngựa nơi tệ trang để tỏ lòng hâm mộ.
Trương Vô Kỵ hoàn lễ hỏi lại: -Không dám, không dám. Không hiểu quí thượng
tên họ xưng hô thế nào?
Người kia đáp: -Tệ thượng họ Triệu, khuê danh không dám gọi tới.
Mọi người thấy y nhận ngay thanh niên công tử kia là con gái giả trang, quả
thực có thành ý, trong bụng mừng thầm. Trương Vô Kỵ nói: -Từ khi được
chứng kiến thần kỹ bắn tên của quí vị, chúng tôi ai ai cũng khen ngợi hết lời,
quí vị không hiềm hạ mình kết giao thì thật vinh dự xiết bao, chỉ e như thế
không tiện.
Người kia đáp: -Các vị là anh hùng đời nay, tệ thượng đã ngưỡng mộ từ lâu,
hôm nay có dịp đi qua đất nhà, nếu chẳng được dâng lên ba chén rượu nhạt
thì e không hết được lễ nghi của địa chủ.
Trương Vô Kỵ đang muốn được quen biết thêm với những nhân vật anh hùng
này, lại muốn hỏi xem thanh kiếm Ỷ Thiên vì đâu qua tay đổi chủ như thế nên
nói: -Nếu đã như thế, từ chối quả là không cung kính, vậy xin được đến viếng
quí trang.
Hai người kia mừng lắm, lên ngựa đi trước dẫn đường. Qua khoảng chưa tới
một dặm, trước mặt lại có hai người cưỡi ngựa chạy đến, ở xa xa xuống ngựa
đứng đợi, cũng là người trong thần tiễn bát hùng. Đi thêm một dặm nữa, bốn
người còn lại trong bát hùng lại phi ngựa đến đón tiếp. Quần hào Minh giáo
thấy bên kia lễ số chu đáo như thế, ai nấy cực kỳ cảm động.
Cả bọn đi theo một con đường lát đá xanh dẫn đến một đại trang viện, có
sông nhỏ uốn khúc vây quanh, bờ sông trồng đầy dương liễu xanh rờn, suốt
một dải Cam Lương bây giờ bỗng thấy phong cảnh chẳng khác gì ở Giang
Nam, quần hào ai cũng thấy tinh thần sảng khoái hẳn lên. Trước mặt trang
môn mở lớn, cầu treo đã hạ xuống từ bao giờ, vị cô nương họ Triệu kia vẫn
mặc nam trang, đứng ngay tại cửa nghênh tiếp.
Triệu tiểu thư tiến lên hành lễ, dõng dạc nói: -Quí vị hào hiệp của Minh giáo
hôm nay giá lâm Lục Liễu Sơn Trang, quả thực là rạng rỡ cho nhà tranh vách
đất của chúng tôi. Xin mời Trương giáo chủ, mời Dương tả sứ, mời Ân lão tiền
bối, mời Vi Bức Vương …
Nàng biết hết từng người trong quần hào Minh giáo, không cần phải giới thiệu,
thuận miệng nói ra danh hiệu, kẻ cao người thấp không sai một ai. Cả bọn
kinh ngạc, Chu Điên nhịn không nổi liền hỏi: -Đại tiểu thư, sao cô biết hết tên
tuổi chúng tôi? Chẳng lẽ cô có bản lãnh tiên tri hay sao?
Triệu tiểu thư mỉm cười nói: -Quần hiệp Minh giáo danh mãn giang hồ, ai
chẳng hay biết? Trận đánh trên Quang Minh Đính mới rồi, Trương giáo chủ
dùng tuyệt thế thần công uy nhiếp lục đại môn phái, việc đó đã vang động cả
võ lâm. Các vị đến Trung Nguyên, trên đường biết bao bằng hữu võ lâm mong
được tiếp đãi, có phải chỉ mình tiểu nữ đâu?
Mọi người nghe thấy quả không sai, trong bụng mừng thầm nhưng miệng ai
cũng khiêm tốn, hỏi ngay đến sư thừa tên tuổi thần tiễn bát hùng. Một người
thân thể cao to đáp: -Tại hạ là Triệu Nhất Thương, đây là Tiền Nhị Bại, đây là
Tôn Tam Hủy, đây là Lý Tứ Tồi.
Y chỉ tiếp qua mấy người kia nói: -Đây là Chu Ngũ Thâu, đây là Ngô Lục Phá,
đây là Trịnh Thất Diệt, còn đây là Vương Bát Suy.
Quần hào Minh giáo nghe xong, ai cũng ngẩn người, nghĩ thầm tám người này
họ sắp xếp theo Bách Gia Tính[4] là Triệu Tiền Tôn Lý, Chu Ngô Trịnh Vương,
đã là hết sức lạ lùng rồi nhưng tên lại toàn những chữ không gì tốt lành như
Vương Bát Suy chẳng hạn, thật ngoài dự liệu. Thế nhưng người trên giang hồ
vì lánh nạn, tránh thù, tùy nghi lấy tên giả là chuyện rất thường, thành ra
không dám hỏi thêm.
Triệu tiểu thư tự mình dẫn đường, nhường cho mọi người tiến vào đại sảnh
trước. Quần hào thấy đại sảnh trên cao có treo một tấm biển viết bốn chữ đại
tự Lục Liễu Sơn Trang. Ngay tại chính giữa treo một bức tranh Bát Tuấn Đồ[5]
do Triệu Mạnh Phủ[6] vẽ, tám con ngựa mỗi con một kiểu không con nào
giống con nào, con nào cũng ra vẻ thần mã. Bên phía trái treo một bức bút
thiếp, văn viết:
Bạch hồng tòa thượng phi,
Thanh xà hạp trung hống.
Sát sát sương tại phong,
Đoàn đoàn nguyệt lâm nữu.
Kiếm quyết thiên ngoại vân,
Kiếm xung nhật trung đẩu.
Kiếm phá yêu nhân phục,
Kiếm phất nịnh thần thủ.
Tiềm tương tịch lị mị,
Hốt đãn kinh thiếp phụ.
Lưu trảm hoằng hạ giao,
Mạc thí nhai trung cẩu.
Mống trắng bay vụt lên,
Rắn xanh kêu lồng lộn.
Sương đọng trên đỉnh núi,
Mây quấn quanh vầng trăng.
Kiếm quyết tỏa tận mây,
Kiếm khí xung tinh đẩu.
Kiếm phá phục yêu ma,
Kiếm cắt đầu gian nịnh.
Nằm yên ma quỉ kinh,
Vung lên thiếp rùng mình.
Xuống vực chém giao long,
Ai giết chó chạy rông.
Dưới bài thơ đề một hàng chữ nhỏ: “Dạ thí Ỷ Thiên bảo kiếm, tuân thần vật
dã, tạp lục Thuyết Kiếm thi dĩ tán chi. Biện Lương Triệu Mẫn” (Ban đêm lấy
bảo kiếm Ỷ Thiên ra thử, thấy quả là thần vật nên tạm chép Thuyết Kiếm ra để
ca ngợi. Triệu Mẫn ở Biện Lương đề thơ)
Trương Vô Kỵ thư pháp tuy không giỏi nhưng đã theo Chu Cửu Chân học tập
phép viết chữ, người khác viết xấu đẹp chàng cũng tạm nhận ra, thấy bức
thiếp đó nét bút tung hoành, nhưng vẫn có nét ủy mị, rõ ràng là chữ con gái,
biết là vị Triệu tiểu thư này viết. Chàng ngoài y thư ra chẳng đọc sách bao
nhiêu, nhưng ý thơ không mấy khúc mắc, đọc là hiểu ngay, nghĩ thầm: “Thì ra
nàng vốn là người Biện Lương[7], tên chỉ có một chữ Mẫn, liền nói: -Triệu cô
nương văn võ toàn tài, thật là bội phục. Thì ra cô nương vốn là thế gia ở cựu
kinh đô.
Triệu tiểu thư Triệu Mẫn mỉm cười nói: -Tôn đại nhân của Trương giáo chủ có
ngoại hiệu Ngân Câu Thiết Hoạch, hẳn là danh gia thư pháp. Trương giáo chủ
gia học uyên nguyên, tiểu nữ mong được giáo chủ ban cho một bức thiếp.
Trương Vô Kỵ nghe câu đó, mặt đỏ bừng. Cha chàng mất khi mới lên mười,
chưa từng được theo cha tập viết chữ, về sau học thuốc học võ, chữ nghĩa
quả thật ít ỏi, liền nói: -Cô nương bảo tôi viết chữ, có khác gì giết tôi. Tại hạ
bất hạnh, tiên phụ qui tiên từ khi còn nhỏ, chưa được kế thừa sở học của cha,
thật là xấu hổ.
Còn đang nói chuyện, trang đinh đã đem trà lên, thấy trong những chén sứ vũ
quá thiên thanh (màu xanh như trời sau cơn mưa), nổi mấy lá trà Long Tỉnh
xanh rờn, mùi thơm ngào ngạt. Quần hào ai nấy đều lạ lùng, nơi này cách đất
Giang Nam cả mấy nghìn dặm, làm sao có được trà Long Tỉnh còn tươi như thế
này? Cô nương này cái gì cũng đều cực kỳ lạ lùng. Triệu Mẫn cầm chén lên
uống trước một ngụm, dường như muốn cho mọi người biết trà không có gì
độc, đợi mọi người uống xong mới nói: -Các vị đường xa chiếu cố đến, tệ trang
thật là giản mạn, xin thứ tội cho. Các vị đi đường chắc cũng đã mệt, xin qua
bên này ăn chút cơm dùng chút rượu.
Nói xong, nàng đứng dậy, đưa quần hào qua một hành lang đến một vườn hoa
lớn. Trong vườn có giả sơn đá xù xì, suối hồ nước trong vắt, hoa tuy không
nhiều nhưng thật là thanh nhã. Trương Vô Kỵ chưa lãnh hội được vẻ đẹp của
thú chơi vườn cảnh nhưng Dương Tiêu đã ngầm gật gù, biết rằng chủ nhân
của vườn hoa này là kẻ lòng mang chí lớn không phải người thô tục tầm
thường.
Trong thủy các đã bày hai mâm tiệc, Triệu Mẫn liền mời mọi người vào bàn,
còn bọn thần tiễn bát hùng Triệu Nhất Thương, Tiền Nhị Bại thì ở sảnh đường
bên cạnh bồi tiếp các giáo chúng Minh giáo khác. Ân Lê Đình không sao dậy
được, nên Dương Bất Hối phải ở trong phòng đút cơm cho ăn.
Triệu Mẫn rót đầy một chén rượu lớn, một hơi cạn sạch, nói: -Đây là Nữ Trinh
Thiệu Hưng trần tửu, đã được một trăm mười tám năm, các vị thử nếm xem
tửu vị thế nào?
Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Ân Thiên Chính tuy đã tin rằng Triệu tiểu thư là
người hiệp nghĩa, nhưng vẫn mười phần cẩn thận, xem kỹ hồ rượu, chén rượu
không có gì khác lạ, Triệu tiểu thư lại uống một chén trước rồi, mới hết nghi kỵ
ăn uống tự nhiên. Giáo qui Minh giáo trước nay vẫn là “ăn chay thờ ma” cấm
uống rượu, kỵ ăn mặn nhưng từ khi tổng đàn dọn vào trong dãy Côn Lôn mới
bỏ đi các lề luật cấm kỵ này. Tây Vực khó kiếm rau dưa, chỉ toàn là thịt, hơn
nữa khí hậu lạnh buốt, nếu như không ăn mỡ bò mỡ cừu, chỉ thuần nội lực thì
không đề kháng nổi.
Trong hồ bao quanh nơi thủy các có trồng bảy tám cây hoa trông giống như
thủy tiên nhưng lớn hơn, hoa màu trắng hương thơm thoang thoảng. Quần
hào được ngửi hoa thơm, uống rượu ngon, gió hiu hiu mát rượi thật không còn
gì thoải mái bằng.
Triệu tiểu thư ăn nói rất tự nhiên, bàn luận về các nhân vật võ lâm Trung
Nguyên thật sành sỏi, nhiều điều đến cha con Ân Thiên Chính cũng không
biết. Đối với võ công các phái Thiếu Lâm, Nga Mi, Côn Lôn nàng không khen
ngợi lắm nhưng khi nhắc tới Trương Tam Phong và Võ Đương thất hiệp thì hết
lời tán tụng, cũng ca ngợi võ công môn phái các thủ lãnh Minh giáo, thoạt
nghe tưởng như không có gì đặc sắc nhưng mỗi câu khen ngợi đều đúng vào
chỗ trọng yếu. Quần hào vừa hoan hỉ, vừa bội phục, thế nhưng khi hỏi đến võ
công môn phái của chính nàng, Triệu Mẫn chỉ mỉm cười không đáp, lảng qua
chuyện khác.
Rượu được mấy tuần, rót đến đâu nàng cạn ly đến đó, thật là hào sảng. Mỗi
món ăn đưa lên, nàng cũng đưa đũa gắp một miếng ăn trước, đôi má hồng
lên, dường như đã hơi say, trông càng thêm diễm lệ. Người đẹp xưa nay, nếu
không dịu dàng ẻo lả thì cũng kiều diễm tươi tắn, nhưng cô gái họ Triệu này
không những mười phần xinh đẹp, lại thêm ba phần anh khí, ba phần hào
hùng, mà vẫn ung dung cao quí, toát ra một vẻ đoan nghiêm khiến người ta
phải nổi lòng kính trọng, không dám coi thường.
Trương Vô Kỵ nói: -Triệu cô nương, được cô nương hậu đãi như thế này, tệ
giáo từ trên xuống dưới ai nấy đều cảm kích. Tại hạ có một câu muốn hỏi, có
điều ngại nên không dám mở miệng mà thôi.
Triệu Mẫn đáp: -Trương giáo chủ sao phải dè dặt thế? Chúng ta hành tẩu
giang hồ, bốn bể đều là anh em, các vị nếu không hiềm thì cho tiểu muội được
kết bạn. Có chuyện gì sai bảo hỏi han, ắt sẽ hết sức trình bày.
Trương Vô Kỵ nói: -Nếu đã như thế, tại hạ mong được thỉnh vấn, thanh bảo
kiếm Ỷ Thiên của cô nương vì sao mà có được?
Triệu Mẫn mỉm cười, cởi thanh kiếm Ỷ Thiên ở hông ra, đặt lên trên bàn, nói: –
Tiểu muội từ khi gặp các vị đến giờ, ai nấy chăm chăm mắt không rời thanh
kiếm này, không hiểu vì duyên cớ gì, mong cho biết được chăng?
Trương Vô Kỵ nói: -Quả không dám giấu, thanh kiếm này nguyên là sở hữu của
Diệt Tuyệt sư thái chưởng môn phái Nga Mi, anh em trong tệ giáo táng thân
dưới thanh kiếm này không phải ít. Chính tại hạ đây cũng đã từng bị kiếm này
đâm vào ngực, suýt nữa bỏ mạng, vì thế mà ai nấy đều để ý.
Triệu Mẫn nói: -Trương giáo chủ thần công vô địch, từng nghe dùng Càn Khôn
Đại Na Di đoạt thanh kiếm này trên tay Diệt Tuyệt sư thái, sao lại có thể bị
thương vì nó được? Lại nghe nói kẻ dùng kiếm đâm Trương giáo chủ chỉ là một
nữ đệ tử trẻ tuổi của phái Nga Mi, võ công cũng chỉ bình bình, tiểu muội quả
không sao hiểu được.
Nàng nói câu đó không chớp mắt, chăm chăm nhìn Trương Vô Kỵ, trên môi
dường như điểm một nụ cười. Trương Vô Kỵ mặt đỏ lên, nghĩ thầm: “Sao cô ta
biết rõ như thế nhỉ?” liền đáp: -Đối phương đâm đột ngột quá, tại hạ chưa kịp
để ý cho nên sẩy tay.
Triệu Mẫn mỉm cười: -Chắc Chu Chỉ Nhược Chu tỉ tỉ xinh đẹp lắm, phải không
nhỉ?
Trương Vô Kỵ mặt đỏ như gấc, ngượng nghịu nói: -Cô nương lại nói đùa rồi.
Chàng cầm chén lên định uống một ngụm để chữa thẹn, nào hay tay trái hơi
run, làm sánh mấy giọt rượu ra ngoài, văng cả lên tà áo. Triệu Mẫn cười nụ
nói: -Tiểu muội tửu lực không bao nhiêu, ăn nói đã không biết nặng nhẹ nữa
rồi, sợ uống thêm đâm ra thất thố. Để xin phép vào trong thay quần áo, sẽ trở
ra ngay, xin các vị cứ tự nhiên, đừng khách sáo gì cả.
Nói xong đứng dậy, làm như kiểu cách nam nhi, cung kính vái một vái rồi đi ra
khỏi thủy các, lần theo những luống hoa cành liễu vào bên trong. Thanh Ỷ
Thiên kiếm kia vẫn để trên bàn, không đem theo.
Các gia đinh phục thị tiếp tục đem các món ăn lên. Quần hào không dám ăn
tiếp nữa, đợi một lúc lâu, không thấy Triệu Mẫn quay trở lại. Chu Điên nói: –
Nàng ta để bảo kiếm lại đây, quả là tin bọn mình quá.
Nói xong cầm thanh kiếm lên để trong tay, đột nhiên “Ối” một tiếng, nói: -Sao
nhẹ thế này?
Y cầm cán kiếm rút ra, kiếm vừa khỏi vỏ, quần hào đều đứng bật cả lên, ai nấy
cực kỳ kinh ngạc. Kiếm này đâu phải Ỷ Thiên bảo kiếm, chém vàng chặt sắt
sắc bén phi thường đâu? Chẳng qua chỉ là một thanh kiếm gỗ màu vàng. Mọi
người lập tức ngửi thấy một mùi hương thơm nhè nhẹ, chính là bằng gỗ đàn
hương.
Chu Điên nhất thời không hiểu tại sao, đút kiếm trở lại vỏ, lắp bắp: -Dương …
Dương tả sứ, cái này … cái này là cái trò gì đây?
Y tuy ngày ngày cãi cọ với Dương Tiêu, nhưng trong bụng thực sự bội phục
Dương Tiêu kiến thức siêu việt, bây giờ gặp chuyện nghi nan, tự nhiên mở
mồm hỏi ngay như thế. Dương Tiêu mặt mày trịnh trọng, hạ giọng nói: -Giáo
chủ, Triệu tiểu thư này mười phần đến chín không có ý tốt đâu. Bây giờ bọn
mình ở trong cảnh nguy khốn, nên đi ngay là hơn.
Chu Điên nói: -Việc gì mà sợ? Nếu nàng ta có giở trò gì, với bây nhiêu người
chúng ta, chẳng lẽ không đánh cho một trận tan tành hay sao?
Dương Tiêu nói: -Từ khi vào trong Lục Liễu Sơn Trang này, cái gì cũng thấy
thần bí, chính chẳng ra chính, tà chẳng ra tà, không biết đường đâu mà mò.
Bọn mình việc gì phải ở nơi đây, để cho mọi việc người ta khắc chế?
Trương Vô Kỵ gật đầu: -Dương tả sứ nói phải lắm. Bọn mình ăn uống xong rồi,
cáo từ là vừa.
Nói xong lập tức đứng lên. Thiết Quan đạo nhân hỏi: -Thế thanh Ỷ Thiên kiếm
thực nay ở đâu, giáo chủ không muốn dò hỏi hay sao?
Bành Oánh Ngọc nói: -Theo thuộc hạ, Triệu tiểu thư này dàn nghi binh, đã
toan tính chuyện gì rồi. Mình nếu không đi kiếm cô ta, cô ta sẽ đi kiếm mình.
Trương Vô Kỵ nói: -Đúng thế, chúng mình bây giờ đang có việc phải làm,
không nên thêm việc làm chi. Mai sau mình cứ chờ họ đến, bao giờ rõ ràng
mọi việc hãy hay.
Mọi người ra khỏi thủy các, trở về đại sảnh, bảo gia đinh thông báo tiểu thư,
gửi lời cảm ơn bữa thịnh yến rồi lập tức cáo từ. Triệu Mẫn lật đật đi ra, nàng
đã thay một bộ áo thêu màu vàng nhạt, hình dung thật là tiêu sái phiêu dật,
mặt mày sáng rỡ nói: -Vừa mới gặp nhau sao đã vội đi? Hay là chê tiểu nữ tiếp
đãi đơn sơ quá chăng?
Trương Vô Kỵ đáp: -Đa tạ cô nương tiếp đãi hậu hĩ như thế, đâu thể gọi là
“đơn sơ” được. Chúng tôi có những việc cần kíp, không dám ở nán lại lâu.
Ngày sau có dịp gặp lại, sẽ xin học hỏi thêm.
Khóe miệng Triệu Mẫn tưởng như cười mà không phải cười, đưa mọi người ra
khỏi sơn trang. Thần tiễn bát hùng cung kính đứng hai bên đường, khom lưng
tiễn khách. Quần hào ôm quyền từ biệt, không nói một lời giục ngựa chạy
ngay, chẳng mấy chốc thấy đã cách xa Lục Liễu Sơn Trang, bốn bề chung
quanh là đồng trống, nhưng không thấy ai khác. Chu Điên lớn tiếng nói: -Cái
cô Triệu tiểu thư này chưa chắc đã sắp đặt chuyện gì không tốt đâu, chẳng
qua tính đàn bà trẻ con hay dỡn hớt, nên đem một thanh kiếm gỗ để đùa giáo
chủ, có gì mà lo? Dương tả sứ, kỳ này ngươi đi quá xa rồi.
Dương Tiêu trầm ngâm nói: -Là cái trò gì, thực tình tôi không biết rõ, chỉ thấy
có gì không ổn thôi.
Chu Điên cười nói: -Dương tả sứ đại danh vang dậy của chúng ta sau trận
chiến Quang Minh Đính đã biến thành kinh cung chi …ối chà …
Y nói tới đây bỗng lảo đảo ngã xuống ngựa. Thuyết Bất Đắc ở gần y nhất, vội
vàng nhảy ra, đỡ y lên, hỏi: -Chu huynh, sao thế?
Chu Điên cười nói: -Chẳng … chẳng sao cả. Có lẽ uống quá chén, đầu hơi váng
vất thôi.
Y nói tới “váng vất”, quần hào ai nấy đều thất sắc. Thì ra từ khi rời Lục Liễu
Sơn Trang, trên đường chạy, ai ai cũng thấy hơi váng vất, nhưng cũng chỉ cho
rằng vì uống mấy chén rượu, không ai để ý, thế nhưng Chu Điên võ công cao
cường, tửu lượng lại mạnh, uống có vài chén đâu đến nỗi phải ngã ngựa? Bên
trong hẳn có gì bất thường.
Trương Vô Kỵ ngửng đầu lên, duyệt lại một lượt Độc Kinh của Vương Nạn Cô
trong đầu, xem có loại độc dược nào không vị, không sắc, không mùi, làm cho
người ta choáng váng. Khắp cuốn Độc Kinh xem ra không thấy chỗ nào phù
hợp, mà chính mình cùng với quần hào uống chung ăn chung, sao không thấy
gì khác lạ? Đột nhiên, trong óc như một ánh chớp lóe lên, giật mình nghĩ tới
một chuyện, khiến chàng kinh hoảng kêu to: -Tất cả các vị uống rượu ở trong
thủy các xuống ngựa hết, ngồi xếp bằng trên đất, nhất định không được vận
khí điều tức, cứ để tự nhiên.
Chàng lại hạ lệnh: -Các đệ tử Ngũ Hành Kỳ và Thiên Ưng Kỳ chia ra bố phòng
bốn mặt, nghiêm mật bảo vệ các thủ lãnh, bất luận ai đến gần đều giết hết
không tha.
Mọi người nghe thấy giáo chủ hạ nghiêm lệnh, đáp ứng vang dậy, lập tức rút
binh khí chia ra tứ phương. Trương Vô Kỵ lại nói: -Phải đợi đến khi ta về,
không được ly tán.
Quần hào không hiểu lý do tại sao, chỉ thấy hơi hơi váng vất, không thấy gì
khác, sao giáo chủ lại có vẻ kinh hoảng như thế? Trương Vô Kỵ lại dặn thêm: –
Dù cho có nhức đầu khó chịu đến đâu, tuyệt đối không được điều vận nội tức,
nếu không chất độc phát ra không sao chữa được.
Quần hào ai nấy hoảng sợ tự hỏi: “Mình trúng độc như thế nào?”.
Trương Vô Kỵ thân hình hơi lắc một cái, đã vọt ra ngoài hơn chục trượng.
Chàng sợ cưỡi ngựa chậm quá, lập tức thi triển khinh công chạy về phía Lục
Liễu Sơn Trang. Chàng gấp gáp dị thường biết rằng kỳ này bọn Dương Tiêu,
Ân Thiên Chính đều trúng chất kịch độc, nếu phát tác thì tính mạng chỉ còn
được một giờ ba khắc, không phải như trúng Huyễn Âm Chỉ xong còn có thể
diên trì ngày này sang ngày khác, nếu không cướp được giải dược, tất cả mọi
người đều chết cả. Đoạn đường hơn hai mươi dặm kia chốc lát đã tới ngay,
đến trước sơn trang, chàng lao một cái, thân hình như một mũi tên bắn tới.
Những trang đinh canh nơi cửa chỉ thấy hoa mắt, dường như có một cái bóng
vụt qua nhưng không nhìn rõ là người nào đã vào trang môn.
Trương Vô Kỵ liền vọt vào ngay vườn sau, chạy đến thủy các, thấy một thiếu
nữ mặc áo màu xanh nhạt, tay trái cầm chén, tay phải cầm sách, đang ngồi
uống trà đọc sách, chính là Triệu Mẫn. Lúc này cô ta đã đổi sang y phục đàn
bà.
Nàng nghe thấy tiếng chân Trương Vô Kỵ, quay đầu nhìn lại, mỉm cười. Trương
Vô Kỵ nói: -Triệu cô nương, tại hạ xin cô vài cây hoa.
Không đợi nàng trả lời, chân trái điểm một cái, nhảy từ bờ hồ sang thủy các,
thân hình tà tà bay qua, chẳng khác gì chuồn chuồn điểm nước, hai tay đã
nhổ sạch mấy cây hoa trông như thủy tiên trồng trong hồ. Chàng đang toan
đạp lên thủy các, bỗng nghe soẹt soẹt, mấy ngọn ám khí nhỏ li ti đã bắn vào
mặt. Tay áo phải Trương Vô Kỵ liền phất một cái, cuộn hết ám khí vào trong,
tay áo bên trái hất ra, đánh vào Triệu Mẫn.
Triệu Mẫn nghiêng người né tránh, chỉ thấy gió nổi vù vù, bao nhiêu bình trà,
chén trà, đĩa trái cây trên bàn bị tụ phong thổi bay qua hồ rơi vào trong đám
cây cỏ, vỡ tan tành. Trương Vô Kỵ thân hình đứng vững rồi, nhìn lại mấy cây
hoa trong tay, thấy mỗi cây đều có một chùm rễ dài màu tím, trên mỗi cái rễ
dính đầy những củ lớn bằng hạt hạt ngọc trai, xanh biếc như phỉ thúy, mừng
lắm biết là đã có được thuốc giải, lập tức bỏ vào trong túi nói: -Đa tạ giải
dược, cáo từ.
Triệu Mẫn nói: -Đến thời dễ nhưng đi thì khó.
Nàng ném quyển sách đi, thuận tay rút từ trong quyển sách hai lưỡi kiếm
mỏng như giấy, sáng loáng như gương, đâm tới. Trương Vô Kỵ lo cho thương
thế của bọn Ân Thiên Chính, không dám đánh lâu, tay áo phải phất ra, hơn
chục mũi kim châm dính trong tay áo cùng bắn tới. Triệu Mẫn nghiêng người
nhảy ra khỏi thủy các, chân trái điểm vào bậc thềm một cái nhảy trở lại, trong
khi nhảy ra nhảy vào như thế, những mũi kim châm đều rơi cả xuống ao.
Trương Vô Kỵ khen ngợi: -Hảo thân pháp.
Chàng lại thấy nàng tay trái ra trước, tay phải ra sau đâm hai thanh đoản kiếm
tới, nghĩ thầm: “Con a đầu này lòng dạ độc ác đến thế, nếu ta không luyện
được Cửu Dương thần công, đọc được Độc Kinh của Vương Nạn Cô, hôm nay
Minh giáo đều bị chết vì tay nó một cách bất minh bất bạch”. Chàng hai tay
vươn ra, khi chập lại toan cướp hai thanh đoản kiếm. Triệu Mẫn liền xoay cổ
tay dùng kiếm chặt ngón tay Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ không cướp được
binh khí của đối phương, cũng hơi lấy làm lạ nhưng thần công của chàng biến
ảo khôn lường, khéo léo biết bao, mấy ngón tay liền phất một cái trúng ngay
những huyệt đạo trên cổ tay. Kiếm trong tay Triệu Mẫn cầm không vững, thừa
thế ném tới, Trương Vô Kỵ nghiêng đầu, nghe băng băng hai tiếng, hai thanh
kiếm cắm luôn vào cột thủy các, kình lực vẫn còn rung rung không ngớt.
Trương Vô Kỵ trong bụng hơi sợ, nếu nói về võ công, nàng kém xa Dương
Tiêu, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu, nhưng nói về cơ cảnh linh mẫn, biến chiêu
vừa nhanh vừa độc, song kiếm không còn giữ được vẫn còn toan đả thương
người, nếu như né tránh chậm một chút có phải chết dưới kiếm của nàng rồi
không?
Triệu Mẫn mất hai thanh kiếm rồi, liền lật tay lại cầm luôn thanh kiếm gỗ Ỷ
Thiên nhưng không rút ra, múa lên đâm vào hông Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ
liền giơ ngón tay trỏ và ngón tay giữa bên trái điểm vào huyệt Kiên Trinh trên
vai nàng, đợi Triệu Mẫn vừa né qua, liền thò tay phải dùng Càn Khôn Đại Na Di
đoạt luôn thanh kiếm gỗ.
Triệu Mẫn vừa đứng vững liền cười hì hì nói: -Trương công tử, công phu đó là
công phu gì thế? Có phải Càn Khôn Đại Na Di đấy không? Tôi xem cũng bình
bình không có gì lạ.
Trương Vô Kỵ liền xòe tay trái ra, trong lòng bàn tay có một đóa hoa kết bằng
ngọc trai đang rung động, chính là bông hoa nàng cắm ở trên mái tóc. Triệu
Mẫn sắc mặt hơi đổi khác, Trương Vô Kỵ lấy bông hoa trên tóc nàng không hay
biết gì cả, nếu như thay vì thò tay lấy bông hoa lại đánh vào huyệt thái dương
một cái thì mạng nàng đâu còn nữa. Thế nhưng Triệu Mẫn trấn tĩnh ngay, cười
nhạt một tiếng nói: -Nếu công tử thích bông châu hoa đó thì tôi tặng cho công
tử cần gì phải ra tay cướp đoạt.
Trương Vô Kỵ nghe nàng nói dường như cho mình có ý không tốt, tay trái liền
vung lên một cái ném trả bông hoa, nói: -Trả lại cho cô.
Quay mình ra khỏi thủy các. Triệu Mẫn giơ tay đón lấy bông hoa, kêu lên: –
Khoan đã.
Trương Vô Kỵ quay đầu lại thấy nàng cười nói: -Sao công tử lại lấy mất hai viên
ngọc trai lớn nhất trên đóa hoa này là sao?
Trương Vô Kỵ nói: -Chỉ nói quấy quá, tôi không hơi đâu mà đùa với cô.
Triệu Mẫn giơ cao đóa hoa, nghiêm mặt nói: -Xem này, chẳng phải mất hai viên
ngọc trai đấy ư?
Trương Vô Kỵ nhìn đến quả nhiên có hai sợi chỉ vàng thiếu mất hạt châu, biết
là nàng cố tình giựt đứt để dụ cho mình đến gần hầu thi hành ngụy kế nên chỉ
hừ một tiếng không thèm để ý đến nữa. Triệu Mẫn tay vịn vào thành bàn,
thống thiết kêu lên: -Trương Vô Kỵ, ngươi có giỏi thì đến cách ta ba bước xem
nào.
Trương Vô Kỵ không mắc vào kế nói khích của nàng, nói: -Cô bảo tôi nhát gan
sợ chết cũng chẳng sao.
Nói xong nhảy xuống hai bậc thềm. Triệu Mẫn thấy mình khích tướng không đi
đến đâu mặt liền biến sắc, buồn bã nói: -Thôi rồi, thôi rồi. Hôm nay ta đã đến
nước này, còn mặt mũi nào gặp lại sư phụ?
Nàng vói tay rút ngay một thanh đoản kiếm cắm trên cột, kêu lên: -Trương
giáo chủ, đa ta ngươi đã thành toàn cho ta.
Trương Vô Kỵ quay đầy nhìn lại, chỉ thấy một ánh sáng trắng lóe lên, nàng đã
đâm thẳng mũi kiếm vào ngực. Trương Vô Kỵ cười nhạt: -Ta đâu có để cho …
Chưa nói tới chữ “cô lừa” thì thấy mũi kiếm quả thật đã đâm vào ngực, Triệu
Mẫn thảm thiết kêu lên một tiếng, gục ngay xuống bàn. Trương Vô Kỵ kinh
hoảng không để đâu cho hết, không ngờ cô gái lại ngang ngạnh đến vậy, vài
chiêu chưa thắng đã vung kiếm tự sát ngay, nghĩ thầm nếu như nhát kiếm
không trúng tim thì may ra còn cứu được. Chàng liền quay trở lại chạy tới coi
thương thế của nàng thế nào.
Chàng vừa tới cách bàn chừng ba bước, đang toan thò tay nắm lấy vai cô ta,
bỗng nhiên dưới chân hỗng xuống, đạp vào chỗ không, thân hình rơi tụt ngay
xuống. Chàng biết là không ổn, hai tay áo vận khí phất xuống, thân hình đang
trên không lập tức ngừng lại, liền giơ tay đánh một chưởng vào cạnh bàn.
Chưởng đó nếu đánh trúng, chàng có thể mượn sức vọt lên, không để rơi vào
chiếc hầm dưới chân. Nào ngờ Triệu Mẫn tự sát là giả nên đã liệu trước chuyện
này, chưởng phải vận kình đánh ra không để cho tay chàng đụng vào bàn.
Chuyện đó nhanh như chim cắt bắt mồi, chỉ trong nháy mắt, song chưởng
đụng nhau, Trương Vô Kỵ đã rơi tụt xuống lưng chừng, vội vàng lật tay một
cái, chộp luôn mấy ngón tay phải của Triệu Mẫn. Bàn tay nàng trơn tuột,
dường như muốn thoát ra, nhưng Vô Kỵ chỉ cần một chút lực có thể mượn
được, là có thể bay vụt lên, chàng liền vươn tay nắm cánh tay cô gái. Thế
nhưng đang sức rơi rất mạnh, chàng vừa nắm được Triệu Mẫn, hai người cùng
lộn xuống hầm.
Chỉ thấy tối đen như mực, thân hình tiếp tục rơi xuống, nghe một tiếng cách ở
trên đầu, cửa hầm bên trên đã đóng chặt lại. Hai người rơi đến bốn năm
trượng mới tới đáy. Trương Vô Kỵ vừa chạm đất, lập tức nhảy lên, thi triển Bích
Hổ Du Tường Công[8] bò lên đến tận trên, giơ tay đẩy nắp đậy. Tấm bửng đó
vừa chắc vừa lạnh, là một thiết bản thật lớn, đẩy vào chỉ trơ trơ. Chàng tuy có
Càn Khôn Đại Na Di thần công nhưng thân hình lơ lửng trên không đâu có
được như đứng trên mặt đất mà lực đạo chuyển qua chuyển lại, đẩy tới đẩy lui
một hồi, tấm sắt không hề lay chuyển, thân hình lại tụt trở xuống.
Triệu Mẫn cười khanh khách: -Bên trên có tám thanh sắt to chặn lại, công tử ở
bên dưới, dù có mạnh đến đâu cũng không sao mở được.
Trương Vô Kỵ giận nàng giảo hoạt gian trá, không thèm để ý đến, lần mò
chung quanh cái hố để tìm cách thoát thân nhưng cả bốn bề đều lạnh ngắt,
trơn tuột, cứng rắn dị thường. Triệu Mẫn cười nói: -Trương công tử, công phu
Bích Hổ Du Tường cửa công tử thật là tài tình. Cái hầm này làm bằng thép
đúc, rèn trơn như thế, ngay cả đường nối cũng không, thế mà công tử vẫn
trèo lên được, hi hi, ha ha.
Trương Vô Kỵ giận dữ nói: -Chính cô cũng bị nhốt chung với tôi ở dưới đây, có
gì đáng cười đâu?
Đột nhiên nghĩ ra: “Con a đầu này gian xảo lắm, cái hố này hẳn phải có đường
ra, không thể để nó trốn ra một mình”. Chàng bèn tiến lên nắm chặt tay cô
gái. Triệu Mẫn kinh hoảng kêu lên: -Ngươi làm gì thế?
Trương Vô Kỵ nói: -Cô đừng nghĩ chuyện thoát ra một mình. Nếu muốn sống
thì mau mau mở tấm nắp đậy ra.
Triệu Mẫn cười đáp: -Công tử làm gì mà lo thế? Mình đâu có chết đói ở dưới
này đâu mà sợ. Để họ tìm không thấy tôi, ắt sẽ mở cho mình ra. Có lo là thủ
hạ của tôi lại tưởng tôi đi ra ngoài, cái đó mới là phiền.
Trương Vô Kỵ hỏi: -Thế cái hố này không có cơ quan để mở đường ra hay sao?
Triệu Mẫn cười đáp: -Trông mặt công tử có vẻ thông minh mà sao hỏi một câu
ngớ ngẩn thế? Cái hố này có phải làm ra để chơi cho vui đâu. Làm ra để bắt kẻ
địch mà lại cố ý thiết lập cơ quan đóng mở thì địch nhân ra mất còn gì?
Trương Vô Kỵ nghĩ nàng ta nói không sai nói: -Có người rơi xuống hố, không lẽ
bên ngoài không hay biết gì? Cô mau bảo người ta mở nắp hầm ra.
Triệu Mẫn nói: -Thủ hạ của tôi sai đi ra ngoài cả rồi, công tử có thấy ai khác ở
trong thủy các đâu? Ngày mai giờ này họ mới trở về. Công tử không phải nóng
ruột, cứ nghỉ một lát, mình cũng mới ăn xong chưa đến nỗi đói.
Trương Vô Kỵ nổi khùng, nghĩ thầm: “Ta có đợi thêm cũng đâu có sao nhưng
làm sao cứu được ông ngoại với những người khác?”. Năm ngón tay bóp chặt,
sử đến hai thành kình lực, quát lên: -Cô không thả tôi ra ngay, tôi sẽ giết cô
trước.
Triệu Mẫn cười nói: -Nếu công tử giết tôi thì vĩnh viễn không thể nào ra khỏi
cương lao này được. Mà này, nam nữ thụ thụ bất thân, sao công tử cứ nắm
tay tôi mãi thế?
Trương Vô Kỵ bị cô ta trách cứ, vội vàng bỏ tay nàng ra, lùi lại hai bước, ngồi
dựa vào tường. Cái hầm này vuông vức bất quá vài thước, dù có xa nhất hai
người cũng chỉ cách nhau một bước, càng bồn chồn, càng bực bội, ngửi thấy
hơi thở của cô gái, cộng thêm hương thơm của những cây hoa trong túi, lòng
chàng không khỏi lâng lâng liền đứng lên giận dữ nói: -Minh giáo chúng tôi
vốn không quen biết, không thù oán gì với cô, sao cô lại mưu tính ác độc đưa
tất cả chúng tôi vào chỗ chết?
Triệu Mẫn nói: -Công tử còn nhiều chuyện chưa biết, nếu đã hỏi đến, để tôi nói
cho nghe từ đầu. Công tử có biết tôi là ai không?
Trương Vô Kỵ nghĩ lại quả không sai, tuy cũng muốn biết dụng ý và lai lịch của
cô gái này nhưng nếu chờ được cô ta từ đầu kể lại đầy đủ, bọn Ân Thiên Chính
chắc đã bị chất độc phát tác chết cả rồi, huống chi biết được cô ta nói thật
hay giả, nếu như bịa chuyện nói lăng nhăng thì mất biết bao nhiêu thì giờ.
Trước mắt thấy không còn biện pháp gì khác chỉ còn cách ép cho nàng phải
mở cửa hầm cho mình ra, liền nói: -Tôi không biết cô là ai, cũng không có hơi
đâu mà nghe cô nói. Cô có gọi người mở cho tôi ra không thì bảo?
Triệu Mẫn nói: -Có ai đâu mà gọi? Hơn nữa, ở dưới này có kêu gào bên trên
cũng không nghe thấy. Nếu công tử không tin thì kêu mấy tiếng thử xem.
Trương Vô Kỵ giận dữ giơ tay nắm đầu vai cô gái, Triệu Mẫn hoảng sợ kêu lên
một tiếng, giơ tay ra gạt nhưng đã bị điểm trúng huyệt đạo nơi hông không cử
động được. Trương Vô Kỵ tay trái giơ ra nắm ngay yết hầu nàng nói: -Tôi chỉ
bóp nhẹ một cái thì cô sẽ táng mạng ngay.
Lúc đó hai người đứng sát bên nhau, thấy nàng thở hổn hển, hơi thơm như
lan, Trương Vô Kỵ vội ngửng đầu về sau cho mặt mình xa mặt cô ta một tí.
Triệu Mẫn đột nhiên khóc rấm rứt: -Ngươi hà hiếp ta, ngươi hà hiếp ta.
Việc đó quả ngoài dự liệu nên chàng ngạc nhiên, vội vàng bỏ tay ra nói: -Tôi
đâu có ý định hà hiếp cô, chỉ muốn cô thả tôi ra thôi.
Triệu Mẫn khóc nói: -Có phải tôi không bằng lòng đâu. Được rồi, để tôi gọi.
Nàng cao giọng gọi lớn: -Này, này, có ai không? Mở nắp hầm ra, ta bị rơi xuống
cương lao đây này.
Nàng liên tiếp kêu réo, bên ngoài vẫn không thấy động tĩnh gì cả. Triệu Mẫn
cười nói: -Thấy chưa, có ích gì đâu?
Trương Vô Kỵ cực kỳ giận dữ nói: -Không biết xấu, vừa khóc xong lại cười, còn
ra cái trò gì nữa?
Triệu Mẫn nói: -Chính ngươi mới là không biết xấu. Thân con trai mà sao lại ăn
hiếp con gái chân yếu tay mềm?
Trương Vô Kỵ nói: -Cô mà chân yếu tay mềm ư? Cô ngụy kế đa đoan, còn ghê
gớm gấp mười người đàn ông.
Triệu Mẫn cười: -Cám ơn Trương giáo chủ đã khen ngợi, tiểu nữ không dám
nhận.
Trương Vô Kỵ thấy tình thế khẩn cấp, nếu không ra tay độc ác thì toàn thể
người trong Minh giáo sẽ chết sạch, liền nghiến răng, thò tay ra, soẹt một
tiếng đã xé ngay một mảnh vải quần của cô ta. Triệu Mẫn tưởng chàng đột
nhiên có tà ý, lúc này cực kỳ hoảng sợ kêu lên: -Ngươi … ngươi làm gì thế?
Trương Vô Kỵ nói: -Nếu cô bằng lòng thả tôi ra thì gật đầu.
Triệu Mẫn nói: -Để làm gì?
Trương Vô Kỵ không thèm để ý, nhổ nước miếng cho ướt mảnh vải nói: -Xin lỗi
nhé, tôi cũng đành vậy biết sao hơn.
Chàng lấy mảnh vải bịt chặt mồm mũi cô gái lại, Triệu Mẫn không thở được
nữa chỉ giây lát đã thấy tức ngực chịu không nổi. Thế nhưng nàng ta thật
ương ngạnh, nhất định không gật đầu, sau cùng dãy dụa mấy cái rồi ngất đi.
Trương Vô Kỵ giơ tay thăm mạch thấy nhảy rất yếu ớt nên bỏ miếng vải ướt bịt
miệng mũi cô ta ra. Một lát sau, Triệu Mẫn từ từ tỉnh lại, rên lên mấy tiếng.
Trương Vô Kỵ nói: -Như thế đâu có thích thú gì phải không? Cô thả tôi ra hay
không nào?
Triệu Mẫn hậm hực nói: -Dù ta có ngất đi một trăm lần, ta cũng không thả, để
xem ngươi có dám giết ta chăng?
Nàng đưa tay chùi miệng mũi, hứ mấy tiếng nói: -Nước miếng ngươi, hừ, thối
muốn chết được.
Trương Vô Kỵ thấy nàng ta cứng đầu như thế, không biết phải làm sao, thêm
một lúc nữa càng thêm nóng ruột nói: -Tôi vì cứu mạng cho mọi người đành
phải làm ẩu một phen, đừng trách vô lễ nhé.
Chàng nắm lấy bàn chân trái nàng, lột luôn giày vớ ra. Triệu Mẫn vừa giận vừa
sợ, kêu lên: -Xú tiểu tử, ngươi làm gì thế?
Trương Vô Kỵ không trả lời, lại lột luôn giày vớ chân phải, giơ ngón tay trỏ
điểm vào huyệt Dũng Tuyền dưới gan bàn chân, vận Cửu Dương thần công
lên, một luồng khí ấm liền theo ngón tay truyền vào.
Huyệt Dũng Tuyền ở chỗ lõm dưới lòng bàn chân khởi đầu của Túc Thiếu Âm
Thận Kinh, là nơi nhạy cảm hơn cả. Trương Vô Kỵ tinh thông y lý biết rõ như
thế. Trẻ con chơi đùa thường lấy tay cù vào gan bàn chân sẽ làm cho đối
phương tê cả người, lúc này chàng dùng khí nóng của Cửu Dương thần công
mơn man huyệt Dũng Tuyền, so với lấy lông chim hay tóc cọ xát vào còn khó
chịu gấp bội. Chỉ mới cù mấy cái, Triệu Mẫn nhịn không nổi phải cười lên
khanh khách, toan rút chân về để tránh nhưng khổ nỗi huyệt đạo đã bị điểm
làm sao cử động gì được? Nỗi khổ đó còn khó chịu hơn dùng dao cắt, dùng roi
đánh, chẳng khác gì muôn ngàn con rận cùng thi nhau cắn ngũ tạng lục phủ,
cốt tủy huyết quản một lượt, khiến nàng chỉ cười được mấy tiếng rồi chịu
không nổi khóc òa lên.
Trương Vô Kỵ mặc kệ tiếp tục tra tấn. Trái tim Triệu Mẫn dường như muốn
nhảy khỏi lồng ngực ra ngoài, các chân lông chân tóc toàn thân ngứa không
chịu nổi như muốn rụng hết, mở miệng mắng chửi: -Tên thối tha … tên giặc
con … sẽ có ngày ta đem ngươi ra … lăng trì tùng xẻo … thôi … thôi … tha … tha
cho tôi … Trương … Trương giáo chủ … Trương công tử … Trương giáo … giáo
chủ … hu hu … hu hu …
Trương Vô Kỵ hỏi: -Cô đã chịu thả tôi ra chưa?
Triệu Mẫn khóc nói: -Để tôi … thả … mau ngừng … ngừng tay …
Trương Vô Kỵ bấy giờ mới ngưng lại nói: -Xin lỗi nhé.
Chàng nắn mấy cái vào lưng giải khai huyệt đạo cho nàng. Triệu Mẫn thở phào
một hơi, mắng: -Tặc tiểu tử, đi vớ xỏ giày vào cho ta.
Trương Vô Kỵ cầm chiếc vớ lụa, một tay cầm chân nàng. Khi trước chàng chỉ
chăm chăm lo thoát thân, không có ý gì khác, lúc này cầm bàn chân nhỏ nhắn
mềm mại của cô gái, trong lòng không khỏi lâng lâng. Triệu Mẫn thẹn thùng
rụt chân về, mặt đỏ bừng, cũng may là trong hầm tối đen nên Trương Vô Kỵ
không nhìn thấy, nàng chẳng nói chẳng rằng tự mình đi vớ xỏ giày, trong chỉ
một giây bỗng thấy lòng nổi lên một cảm giác lạ kỳ, tưởng như lại mong được
chàng cầm chân mình lần nữa. Bỗng nghe Trương Vô Kỵ hậm hực quát lên: –
Mau lên, mau lên, thả tôi ra.
Triệu Mẫn không nói một lời, giơ tay mò lên tường kiếm chỗ có khắc một cái
vòng tròn, xoay ngược cán kiếm, tại cái vòng đó gõ khi chậm khi nhanh, lúc
dài lúc ngắn đâu bảy tám tiếng. Gõ vừa xong, nghe xạch một tiếng, một luồng
ánh sáng từ trên đầu chiếu xuống, cái nắp hầm đã mở ra. Cái vòng đó có cơ
quan liên lạc với bên ngoài, nàng đã ước định tín hiệu nên khi nghe thấy,
người canh cửa liền mở nắp hầm ra.
Trương Vô Kỵ đâu ngờ bảo mở là mở nhanh đến thế, không khỏi ngạc nhiên
nói: -Thôi mình đi ra.
Triệu Mẫn cúi đầu đứng qua một bên, không nói lời nào. Vô Kỵ nghĩ nàng là
một cô gái nhỏ, nếu mình còn chì chiết thêm nữa không khỏi thất thố, vái một
vái nói: -Triệu cô nương, vừa rồi chuyện chẳng đặng đừng mới làm như thế,
bây giờ xin tạ tội.
Triệu Mẫn hất đầu quay sang nhìn vào tường, đôi vai rung rung hình như đang
khóc. Khi nàng ta gian trá độc ác, Trương Vô Kỵ cùng nàng đấu trí đấu lực
không có một chút tạp niệm nào, bây giờ thấy lòng hổ thẹn, thấy tấm lưng
thon của nàng, nước da nơi cổ trắng như ngọc, làn tóc xõa ra, không khỏi nhủ
lòng thương cảm nói: -Triệu cô nương, tôi đi nhé. Trương mỗ thật là không
phải.
Chàng thấy bóng lưng Triệu Mẫn rung rung nhưng nàng không quay lại.
Trương Vô Kỵ không dám nấn ná thêm, lập tức thi triển công phu Bích Hổ Du
Tường trèo lên, đến khoảng còn chừng hơn một trượng, chân phải điểm vào
tường một cái, bay vọt lên cao, tay áo phất một cái bảo vệ trên đỉnh đầu sợ có
kẻ nào ở trên đánh lén. Chân chàng chưa rơi chạm đất nhìn chung quanh,
thấy thủy các không một bóng người. Chàng không muốn gây thêm chuyện,
vượt qua tường theo đường nhỏ chạy về nơi quần hào Minh giáo đang đợi.
Trước mắt thấy trời đã ngả bóng, hóa ra chàng bị hãm dưới hầm hơn nửa giờ,
không biết tính mệnh bọn Ân Thiên Chính giờ này ra sao, trong bụng lo lắng lại
càng chạy nhanh hơn, chẳng bao lâu đã về gần tới nơi quần hào dừng chân,
không khỏi giật mình kinh hãi.
Trước mặt đại đội kỵ binh Mông Cổ chạy qua chạy lại, vây chặt người của Minh
giáo, quân Nguyên ai nấy giương cung, nhắm vào người trong vòng bắn tới.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Những nhân vật thủ lãnh của bản giáo ai ai cũng
trúng độc cả, không ai ra lệnh chỉ huy, làm sao chống trả được với đại đội
quân địch vây đánh?”. Chàng gia tăng cước lực, chạy vọt lên.
Chạy đến gần hơn, thấy trong đám người một giọng con gái trong trẻo cất lên:
-Nhuệ Kim Kỳ tấn công mặt đông bắc, Hồng Thủy Kỳ bao vây phương tây
nam.
Đó chính là giọng của Tiểu Siêu. Nàng vừa ra lệnh xong, một đội giáo chúng
mang cờ trắng liền xung sát mặt đông bắc, còn một đội giáo chúng mang cờ
đen bao vòng qua mặt tây nam. Quân Nguyên chia ra chống đỡ, đột nhiên đội
cờ vàng Hậu Thổ Kỳ, cờ xanh Cự Mộc Kỳ song song từ trong đánh ra, chẳng
khác gì một con rồng xanh, một con rồng vàng chộp tới. Quân Nguyên bị đánh
tập hậu, trận thế liền đại loạn, phải lùi về sau.
Trương Vô Kỵ nhảy mấy cái, đã tới trước mặt các giáo chúng. Mọi người thấy
giáo chủ quay về đều reo hò ầm ỹ, tinh thần phấn chấn hẳn lên. Trương Vô Kỵ
thấy Ân Thiên Chính, Dương Tiêu, Chu Điên và các chính phó kỳ sứ của Ngũ
Hành Kỳ vẫn ngồi dưới đất, còn Tiểu Siêu tay cầm cờ lệnh, đứng trên gò đất
chỉ huy giáo chúng ngự địch. Những người trong Ngũ Hành Kỳ, Thiên Ưng Kỳ
đều võ nghệ cao cường, chỉ vì thủ lãnh trúng độc nên loạn cả lên, đến khi Tiểu
Siêu dùng thuật số bát quái bố trí chống đỡ, quân Nguyên không thể tấn công
lên được nữa.
Tiểu Siêu mừng rỡ kêu lên: -Trương công tử, mời công tử lên chỉ huy.
Trương Vô Kỵ nói: -Tôi đang bận, cô cứ chỉ huy tốt hơn, để tôi xung sát một
trận, giết vài tên quân quan.
Chỉ thấy vèo vèo mấy tiếng, mấy mũi tên nhắm chàng bắn tới. Trương Vô Kỵ
giật ngay một thanh trường mâu của một giáo chúng, gạt hết những mũi tên
đó ra, vung tay một cái ném chiếc thương đó bay vụt ra ngoài, xuyên qua
ngực một tên bách phu trưởng, đóng chặt y xuống đất. Quân Nguyên liền kêu
la ầm ỹ, lui ra ngoài mấy chục bước.
Đột nhiên nghe tiếng tù và u u vang lên, độ mươi tên kỵ binh từ xa chạy tới.
Trương Vô Kỵ thấy đi trước chính là bọn thần tiễn bát hùng, thủ hạ của Triệu
Mẫn, không khỏi nhíu mày nghĩ thầm: “Tám người này tiễn pháp quá ư ghê
gớm, nếu để bọn chúng bắn tên e rằng anh em sẽ bị thương không phải ít, ta
nên tiên hạ thủ vi cường”.
Người thủ lãnh của thần tiễn bát hùng là Triệu Nhất Thương tay cầm một cây
đoản trượng khắc đầu rồng màu vàng kêu lớn: -Chủ nhân có lệnh, lập tức thu
binh.
Người thiên phu trưởng chỉ huy đội quân Nguyên liền nói xí xố mấy tiếng Mông
Cổ, bọn quân quan liền quay đầu ngựa chạy đi. Tiền Nhị Bại tay cầm một cái
khay, xuống ngựa tiến đến trước mặt Trương Vô Kỵ, khom lưng nói: -Chủ nhân
chúng tôi xin giáo chủ nhận món quà lưu niệm.
Trương Vô Kỵ nhìn đến thấy khay lót một tấm nhiễu màu vàng, trên để một
chiếc hộp hoàng kim, trạm trổ cực kỳ tinh xảo. Trương Vô Kỵ không ngại y làm
trò quỉ gì, giơ tay cầm lấy. Tiền Nhị Bại cung thân hành lễ, lùi lại ba bước, quay
mình lên ngựa đi thẳng.
Trương Vô Kỵ thuận tay giao luôn cái hộp cho Tiểu Siêu, chàng lo lắng cho
bệnh tình của mọi người, không thì giờ đâu mà xem trong hộp có gì, lập tức
lấy trong bọc ra những cây hoa, sai người đem nước lạnh tới nghiền nát
những rễ màu đỏ và những củ màu xanh, hòa vào trong nước, chia cho Ân
Thiên Chính, Dương Tiêu và các chính phó kỳ sứ Ngũ Hành Kỳ uống. Chuyến
đi này, tất cả những ai yến ẩm nơi thủy các, trừ Trương Vô Kỵ có Cửu Dương
thần công hộ thể ra nên chư độc bất xâm, các thủ lãnh Minh giáo ai ai cũng
đều bị trúng độc cả. Chỉ có Dương Bất Hối vì phải đút cơm cho Ân Lê Đình ở
bên ngoài, Tiểu Siêu và các giáo chúng ăn cơm ngoài đại sảnh, ai ai theo lệnh
giáo chủ, phàm vật gì trước khi cho vào mồm đều dùng ngân châm thử trước
nên không ai bị trúng độc.
Thuốc giải độc thật công hiệu, chưa đến nửa giờ sau, độc tính trong cơ thể
quần hào đều tiêu giải không còn thấy đầu váng mắt hoa nhưng toàn thân
dường như hơi sức mất hết, lập tức hỏi xem đã bị trúng độc như thế nào.
Trương Vô Kỵ thở dài: -Bọn ta mọi việc đều đã đề phòng, những món ăn uống
rượu thịt không hề có chất độc bản nhân đã xem xét kỹ. Nào ngờ cách hạ độc
của Triệu cô nương thật không sao ngờ nổi. Cây hoa trông như thủy tiên kia
gọi là Túy Tiên Linh Phù, tuy rất khó kiếm nhưng vốn không có độc tính. Còn
thanh kiếm Ỷ Thiên giả kia làm bằng một loại gỗ dưới đáy biển tên là Kỳ Lăng
Hương Mộc, vốn cũng không độc. Thế nhưng hai mùi kia trộn lại với nhau thì
biến thành kịch độc.
Chu Điên vỗ đùi kêu lên: -Cũng tại ta cả, ai bảo ta ngứa tay rút thanh kiếm Ỷ
Thiên kia ra làm cái mẹ gì cơ chứ.
Trương Vô Kỵ nói: -Cô ta nếu đã tính toán chuyện hại chúng ta, nếu Chu
huynh không động thủ thì cũng sai người đến rút ra để hạ độc không thể nào
phòng bị nổi.
Chu Điên nói: -Đi, mình đến cho một mồi lửa đốt rụi cái Lục Liễu Sơn Trang đó
cho rồi.
Y vừa nói tới câu đó, thấy đằng xa khói đen đã bốc lên, bên trong ánh lửa thấp
thoáng chính là Lục Liễu Sơn Trang đang cháy.
Quần hào ai nấy nhìn nhau không nói được một lời nào, trong bụng ai cũng
nghĩ thầm: “Triệu cô nương này chuyện gì cũng tính trước được cả, biết rằng
mình giải độc xong thể nào cũng tới đốt trang viện thành ra phóng hỏa trước
cho chắc ăn. Cô ta tuổi còn nhỏ, lại phận đàn bà nhưng quả là một kình địch”.
Chu Điên lại vỗ đùi kêu lên: -Cô nàng đốt trang viện thì ăn thua gì? Mình cũng
cứ tới đuổi đánh cho một trận tan tành mới thôi.
Dương Tiêu nói: -Đến như trang viện cô ta cũng đã đốt rồi đủ biết chuyện gì
cũng tính toán trước, xem ra mình có đuổi cũng không kịp đâu.
Chu Điên nói: -Dương huynh, võ công ngươi không nói làm gì, ngay cả mưu kế
xem ra cũng còn hơn Chu Điên này một bực.
Dương Tiêu cười: -Không dám, không dám. Chu huynh thần cơ diệu toán, tiểu
đệ làm sao bì kịp?
Trương Vô Kỵ cười nói: -Hai vị bất tất quá khiêm nhường. Bọn mình kỳ này
không bị tổn thất lớn, chỉ có mười ba mười bốn anh em bị trúng tên, cũng là
may lắm rồi, thôi lên đường là vừa.
Trên đường đi quần hào hỏi Vô Kỵ xem làm sao tìm ra được nguyên ủy bị trúng
độc, Trương Vô Kỵ nói: -Ta nhớ trong Độc Kinh có một đoạn chép:
Kỳ Lăng Hương Mộc nếu như gặp phải hương thơm của một loại giống như
thủy tiên, có thể làm cho người ta say sưa mê mẩn mấy ngày, nếu dùng cái củ
tròn của cây hoa pha với nước thì giải được. Nếu không giải kịp, độc tính sẽ ăn
vào tim phổi.
Túy Tiên Linh Phù so với loại phù dung thường còn lợi hại hơn nhiều. Vì thế tôi
dặn các vị chớ nên vận tức dụng công, nếu không hương hoa sẽ đi vào các
kinh mạch có thể nguy hiểm đến tính mạng.
Vi Nhất Tiếu nói: -Không ngờ con a hoàn Tiểu Siêu lại lập được kỳ công, nhân
khi nguy cấp nếu không có cô ta đứng ra, bọn mình bị chết chắc nhiều lắm.
Dương Tiêu vốn cho rằng Tiểu Siêu là của kẻ địch sai đến nằm vùng nhưng
sau chuyện hôm nay, cô nàng đã thành một công thần của Minh giáo, khiến y
không sao ngờ nồi, nhất thời không hiểu nguyên do ra sao.
Mọi người trên đường đi đàm luận lai lịch Triệu Mẫn nhưng chẳng ai có được
đầu mối nào. Trương Vô Kỵ không nói chuyện chàng bị rơi xuống hố cùng với
Triệu Mẫn, việc mình cù gan bàn chân nàng để thoát thân, tuy trong lòng
không có điều gì phải hổ thẹn nhưng trước mặt mọi người thì chuyện này thì
cũng khó ăn khó nói. Tối hôm đó mọi người vào quán trọ nghỉ ngơi, còn đại đội
nhân mã chia ra tìm đền đài miếu mạo ngủ tạm. Tiểu Siêu lấy một thau nước
bưng vào phòng, Trương Vô Kỵ nói: -Tiểu Siêu, hôm nay em lập được kỳ công,
từ rày không phải làm những tiện dịch của tôi đòi như trước nữa.
Tiểu Siêu cười nói: -Em rất thích được hầu hạ công tử, có gì đâu mà tiện dịch
hay không tiện dịch?
Đợi chàng rửa mặt xong, Tiểu Siêu lấy chiếc hộp vàng ra nói: -Không biết bên
trong hộp có độc trùng độc dược, độc tiễn ám khí gì không?
Trương Vô Kỵ nói: -Đúng vậy, cứ cẩn thận là hơn.
Chàng để chiếc hộp trên bàn, cầm tay nàng kéo ra xa, lấy trong túi ra một
đồng tiền vung tay ném tới, nghe keng một tiếng trúng ngay mép cái hộp, nắp
hộp liền mở tung ra, không có gì khác lạ. Chàng đến gần xem thấy trong hộp
là một chiếc hoa kết bằng trân châu, vẫn còn đang rung rinh, chính là đóa hoa
Triệu Mẫn cài trên đầu. Hai viên ngọc trai Triệu Mẫn ngắt đi nay đã đính lại trên
sợi chỉ bằng vàng. Chàng không khỏi ngẩn người, không hiểu có dụng ý ra
sao.
Tiểu Siêu cười nói: -Công tử, vị Triệu cô nương này đối với công tử tốt quá,
trịnh trọng sai người đến biếu công tử một đóa hoa kết bằng ngọc trai.
Trương Vô Kỵ nói: -Ta là đàn ông, có được món trang sức của đàn bà này làm
gì? Tiểu Siêu, cô cầm lấy mà đeo vậy.
Tiểu Siêu xua tay, cười nói: -Thế sao được? Người ta có tình ý với công tử, sao
em dám lấy?
Trương Vô Kỵ dùng ba ngón tay cầm lấy bông hoa, cười nói: -Trúng.
Vung tay ném ra, không nặng không nhẹ cắm luôn vào tóc Tiểu Siêu, chiếc kim
dưới bông hoa không hề chạm vào da thịt. Tiểu Siêu toan dứt xuống, Trương
Vô Kỵ xua tay nói: -Chẳng lẽ tôi tặng em một món quà nhỏ cũng không được
hay sao?
Tiểu Siêu hai má hồng lên, nói nhỏ: -Vậy thì đa tạ công tử. Chỉ sợ tiểu thư thấy
lại bực mình.
Trương Vô Kỵ nói: -Hôm nay cô đã làm được một việc lớn, cha con Dương tả
sứ lẽ nào còn nghi ngờ cô?
Tiểu Siêu lòng đầy vui sướng, nói: -Em thấy công tử đi lâu quá không về, trong
bụng thật nôn nóng. Thế rồi bọn Thát tử đến tấn công, không biết vì sao dám
lớn mật đứng lên hô hoán, bây giờ nghĩ lại thật là sợ hãi. Công tử, nhờ công tử
nói lại với quí vị trong Ngũ Hành Kỳ, Thiên Ưng Kỳ là Tiểu Siêu to gan làm càn,
xin các vị đó đừng trách.
Trương Vô Kỵ mỉm cười: -Bọn họ cám ơn cô còn chưa đủ, sao lại trách cứ?
Chẳng bao lâu đã đến cảnh giới tỉnh Hà Nam. Lúc ấy thiên hạ đại loạn, quần
hùng bốn phương nổi lên, quan quân Mông Cổ tra xét càng thêm nghiêm
nhặt. Đại đội Minh giáo đi thành đoàn không tiện, chia ra nhiều nhóm hẹn đến
chân núi Tung Sơn sẽ gặp lại nhau, rồi sẽ cùng lên ngọn Thiếu Thất, lúc ấy
Chưởng kỳ sứ Cự Mộc Kỳ là Văn Thương Tùng sẽ đem danh thiếp mọi người
đưa lên chùa Thiếu Lâm.
Trương Vô Kỵ biết rằng kỳ này mình lên Thiếu Lâm vấn tội, tuy không muốn tái
động can qua nhưng kết quả ra sao thực khó mà biết. Nếu tăng chúng chùa
Thiếu Lâm ngang ngược không nói phải quấy ra tay động võ, Minh giáo không
thể không tiếp chiến, thành thử truyền lệnh xuống, các thủ lãnh tiến vào chùa
trước, còn các giáo chúng trong Ngũ Hành Kỳ và Thiên Ưng Kỳ sẽ chia ra vây
bốn mặt chờ ở bên ngoài, nếu nghe ba tiếng hú, thì lập tức tấn công vào tiếp
ứng. Các giáo chúng nhận lệnh chia nhau mà đi.
Chẳng bao lâu, một tri khách tăng đã già đi theo Văn Thương Tùng xuống núi
nói: -Phương trượng và các trưởng lão bản tự đều bế quan tịnh tu, xin lỗi
không tiếp khách được.
Quần hào nghe thấy nói thế ai nấy đều biến sắc. Chu Điên giận dữ nói: -Vị này
là giáo chủ Minh giáo đích thân đến chùa Thiếu Lâm bái sơn, lão hòa thượng
cũng không cho gặp chẳng lẽ coi thường lắm ư?
Vị tri khách tăng kia cúi đầu ủ rũ, mặt đầy vẻ sầu khổ chỉ nói: -Không tiếp.
Chu Điên nổi cọc, giơ tay nắm ngay ngực áo nhà sư, Thuyết Bất Đắc vội giơ
tay ngăn lại nói: -Chu huynh không được lỗ mãng.
Bành Oánh Ngọc nói: -Phương trượng nếu đã tọa quan, chúng tôi xin gặp hai
vị Không Trí, Không Tính thần tăng cũng được.
Nhà sư kia chắp hai tay, nói cụt ngủn: -Không tiếp.
Bành Oánh Ngọc hỏi tiếp: -Thế còn thủ tọa Đạt Ma Đường thì sao? Thủ tọa La
Hán Đường thì sao?
Vị tri khách tăng kia cũng chỉ đáp: -Không tiếp.
Ân Thiên Chính quát lên một tiếng như sấm rền: -Nhất định không tiếp hay
sao?
Song chưởng đẩy ra như bài sơn đảo hải, nghe bùng một tiếng đánh gãy đôi
một cây đại tùng ở bên đường, nửa thân trên cả cành cả lá, thêm ba tổ quạ
đều lách cách ngã xuống. Nhà sư lúc này mặt mới có vẻ sợ, nói: -Các vị đường
xa đến đây, đúng ra phải lấy lễ tiếp đãi, có điều tất cả các trưởng lão đều tọa
quan cả rồi, xin để dịp sau vậy.
Nói xong chắp tay khom mình, quay lưng đi thẳng. Vi Nhất Tiếu thân hình hơi
rung động đã chặn ngay trước mặt ông ta nói: -Đại sư thượng hạ xưng hô thế
nào?
Vị tri khách tăng đáp: -Pháp danh của tiểu tăng, không nói tới là hơn.
Vi Nhất Tiếu vỗ nhẹ hai cái vào đầu vai ông ta, cười nói: -Tốt lắm, tốt lắm.
Oâng chỉ nói hai chữ “bất kiến”, chắc hẳn là Bất Kiến đại sư, là sư huynh của
Không Kiến thần tăng. Thế nhưng không biết nếu Diêm Vương mời đi, không
biết Bất Kiến thần tăng có chịu gặp hay không?
Nhà sư kia bị y vỗ hai cái, một luồng khí lạnh chạy thẳng từ vai vào tim, toàn
thân lập tức run lẩy bẩy, răng đánh vào nhau lập cập. Y cố nhịn, xoay người
lách qua bên hông Vi Nhất Tiếu chạy đi, vừa đi vừa run, thất thểu lên núi. Vi
Nhất Tiếu nói: -Gã này đái nghệ đầu sư [9], võ công của y không phải thuộc
phái Thiếu Lâm.
Trương Vô Kỵ nghĩ ngay đến Viên Chân, biết rằng chuyện đi học nơi khác rồi
sau học võ Thiếu Lâm là chuyện bình thường, nói: -Vi Bức Vương đánh y hai
đòn Hàn Băng Miên Chưởng, sư tổ, sư phụ y lẽ nào bỏ qua? Thôi cả bọn mình
lên, xem các đại hòa thượng có thật tiếp hay không tiếp?
Mọi người biết rằng khó có thể tránh khỏi một trường ác đấu, phái Thiếu Lâm
trước nay vẫn là Thái Sơn, Bắc Đẩu của võ lâm, hơn một nghìn năm qua giang
hồ vẫn gọi là “môn phái chỉ thắng mà không thua”, hôm nay đại chiến một
trận, xem thử Minh giáo và Thiếu Lâm bên nào mạnh, bên nào yếu.
Mọi người ai nấy hăng tiết, rảo bước lên núi, nghĩ đến phái Thiếu Lâm cao thủ
nhiều vô kể, trận đại chiến trước mắt nhất định ác liệt không để đâu cho hết.
Chưa tới thời gian uống một chén trà đã đến thạch đình trước cửa chùa.
Trương Vô Kỵ nghĩ đến năm xưa theo thái sư phụ lên núi, gặp tam đại thần
tăng chính ở tại nơi đây, hôm nay trở lại, tuy trước sau chỉ mới vài năm, nhưng
năm xưa là một đứa bé bệnh hoạn gầy gò, cô khổ lênh đênh, hôm nay là giáo
chủ Minh giáo tôn quí, nghĩ lại chuyện xưa tưởng như chuyện từ tiền kiếp.
Căn thạch đình đó hai chiếc cột đá bị gãy, chiếc bàn đá cũng đổ lăn lóc.
Thuyết Bất Đắc cười nói: -Các nhà sư chùa Thiếu Lâm thích đánh nhau thật,
mấy cái cột này mới gãy đây thôi, xem ra mấy hôm trước có một trận chiến
khủng khiếp nên mới không kịp tu sửa.
Chu Điên nói: -Để khi mình đắc thắng rồi, mình sẽ phá hết cái đình này.
Quần hào ở nơi thạch đình chờ đợi, liệu rằng trong chùa sẽ có một đám cao
thủ ào ra nên đã định tiên lễ hậu binh, trách hỏi tại sao hạ độc thủ đối với Ân
Lê Đình, nếu chúng tăng vẫn ngang ngược không nghe, lúc ấy mới động võ.
Nào ngờ chờ cả nửa ngày, trong chùa hoàn toan không thấy chút gì động tĩnh.
Thêm một lúc nữa, thấy một đoàn người từ sau chùa chạy xuống hậu sơn,
nhìn từ xa phải đến bốn năm chục người. Bành Oánh Ngọc nói: -Hừ, chắc họ
điều binh khiển tướng, mai phục bốn bên chăng?
Trương Vô Kỵ nói: -Thôi vào chùa.
Lập tức Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu ở phía bên trái, Ân Thiên Chính, Ân Dã
Vương bên phải, Thuyết Bất Đắc, Bành Oánh Ngọc, Thiết Quan đạo nhân và
Chu Điên tứ tản nhân tại đằng sau, cùng hộ vệ Trương Vô Kỵ tiến vào chùa.
Đến Đại Hùng Bảo Điện, thấy chiếc bàn thờ trước tượng Phật ngã chỏng chơ
một bên, lư hương còn lăn lóc dưới đất, mặt đất đầy tàn nhang nhưng không
thấy một ai. Thuyết Bất Đắc cười nhạt nói: -Phái Thiếu Lâm thấy bọn mình đến
đây, tâm hoảng thần loạn, chân tay quờ quạng, đến bình hương mà cũng
đánh rơi, nực cười ơi là nực cười.
Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói: -Minh giáo Trương Vô Kỵ, cùng với các người trong
tệ giáo Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu tiền lai bái sơn, cầu kiến
phương trượng đại sư.
Tiếng của chàng tuy không lớn lắm nhưng nội lực hồn hậu, các chuông trống
treo bên ngoài đại điện bị âm thanh khích đãng, cùng u u vang lên. Dương
Tiêu, Vi Nhất Tiếu cùng đưa mắt nhìn nhau, nghĩ thầm: “Giáo chủ nội lực thật
thâm hậu thực ai nghe thấy cũng phải sợ, đương niên Dương giáo chủ còn tại
thế, xem ra cũng còn kém xa. Trận chiến hôm nay, bản giáo thể nào cũng
thắng”.
Mấy câu đó của Trương Vô Kỵ, tiền viện hậu viện chùa Thiếu Lâm chỗ nào
cũng nghe thấy cả. Thế nhưng đợi thêm một hồi, trong chùa vẫn không thấy
ai bước ra. Chu Điên quát lớn: -Này, tất cả bọn sư sãi lớn bé chùa Thiếu Lâm
đâu, rụt đầu rụt cổ trốn cả thì còn ra giống gì nữa? Bộ còn hú hí với vợ hay
sao?
Tiếng của y so với Trương Vô Kỵ lớn hơn nhiều, nhưng chuông trống trong
điện không thấy vang lại. Quần hào lại đợi thêm một lát, vẫn không thấy ai ra.
Bành Oánh Ngọc nói: -Tôi trong lòng bỗng thấy khác lạ, thấy chùa này âm khí
u uất, thật là điều không hay.
Chu Điên cười nói: -Hòa thượng quay về chùa là đúng chỗ rồi, còn gì mà khác
lạ nữa?
Thiết Quan đạo nhân bỗng nói: -Ồ, nơi đây có một thiền trượng gãy đầu.
Thuyết Bất Đắc nói: -Ồ, nơi đây lại có một vũng máu lớn.
Chu Điên cười nói: -Chắc là sau trận chiến Quang Minh Đính, uy danh giáo chủ
truyền ra xa nên phái Thiếu Lâm mới treo cao “miễn chiến bài”. Xem chừng họ
chạy bán sống bán chết, đến binh khí cũng quẳng bỏ luôn.
Thiết Quan đạo nhân lắc đầu: -Không phải thế đâu.
Chu Điên hỏi: -Có gì mà không phải?
Thiết Quan đạo nhân nói: -Thế còn vũng máu này thì sao?
Chu Điên nói: -Chắc là họ sợ quá nên cắt phải tay …
Nói tới đây y khựng lại, tự biết như thế không đúng nên không hết câu. Ngay
lúc đó, một trận gió thổi qua, khiến quần áo mọi người tung bay. Chu Điên vui
vẻ nói: -Gió mát quá.
Bỗng nghe có tiếng lách cách, một cây tùng lớn ngả xuống cách vài mươi
trượng ở phía tây. Quần hào ai nấy kinh ngạc, cùng nhảy lên chạy ngay đến
chỗ cây đổ, thấy cây tùng đó ở bên góc đông nam của một tòa đại viện, trong
viện cũng không có ai, không hiểu vì sao cây tùng lớn thế mà lại bị gió thổi gãy
được, làm sập cả một mảng tường. Mọi người tới gần quan sát, thấy các sớ gỗ
nát vụn, hiển nhiên bị người nào dùng trọng thủ đánh nát, chỗ gãy cũng đã
khô, không phải mới gãy.
Quần hào coi kỹ một hồi, bàn tán xôn xao: -Ồ, không phải.
-A, nơi đây có động thủ.
-Ghê gớm thật, chết nhiều người quá.
Trong tòa đại viện chỗ nào cũng có dấu vết một cuộc kịch chiến, trên nền đá
xanh, những cành cây khô, tường đá vây quanh để lại biết bao nhiêu vết binh
khí chém xuống, quyền cước đấm đá. Nơi nào cũng đầy vết máu, đủ biết nơi
đây giao chiến kịch liệt dị thường. Trên nền đất cũng còn nhiều vết chân nông
sâu, là của cao thủ tỉ đấu nội lực còn lưu lại.
Trương Vô Kỵ kêu lên: -Mau bắt gã tri khách tăng kia hỏi cho ra lẽ.
Vi Nhất Tiếu, Thuyết Bất Đắc mọi người liền chia ra tìm kiếm, nhưng không
biết nhà sư kia trốn nơi đâu. Ngũ Hành Kỳ cũng chia ra các nơi tra xét, qua
đến nửa giờ, các chưởng kỳ sứ quay về bẩm báo, nói là trong chùa không có ai
nhưng chỗ nào cũng có dấu vết kịch đấu. Nhiều điện đường còn cả vết máu,
binh khí gãy nhưng không thấy xác người. Trương Vô Kỵ hỏi: -Dương tả sứ,
ông nghĩ sao?
Dương Tiêu đáp: -Trận chiến ghê gớm này chỉ mới hai ba ngày trước, không lẽ
toàn thể phái Thiếu Lâm bị tiêu diệt, hoặc bị giết, hoặc bị bắt không còn một ai
hay sao?
Thuyết Bất Đắc nói: -Hồi nãy chẳng có mấy chục người chạy về phía hậu sơn
đấy ư?
Dương Tiêu đáp: -Rất có thể đó là bọn đối đầu của phái Thiếu Lâm lựu lại thủ
ngự nơi đây, thấy đại đội nhân mã của mình nên bỏ chạy trước.
Bành Oánh Ngọc nói: -Cứ theo sự thế mà suy đoán thì hẳn là như thế. Gã tri
khách tăng kia cũng chỉ là mạo xưng thôi, tiếc là không giữ hắn lại. Thế nhưng
đối đầu với phái Thiếu Lâm có môn phái bang hội nào ghê gớm đến thế?
Không lẽ là Cái Bang?
Chu Điên nói: -Cái Bang thế lực tuy có lớn thật, cao thủ tuy nhiều thật nhưng
đâu có thể chỉ đánh một trận mà giết sạch bọn đầu trọc chùa Thiếu Lâm đâu.
Chỉ có Minh giáo chúng ta mới làm nổi, nhưng rõ ràng bọn mình đâu có làm?
Thiết Quan đạo nhân nói: -Chu Điên, ngươi nói bớt một câu tầm ruồng đi có
được không? Bản giáo có làm chuyện đó hay không, không lẽ chính bọn ta
không biết?
Chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ Nhan Viên quay về báo: -Khải bẩm giáo chủ, mười
tám pho tượng Phật La Hán trong La Hán Đường không biết ai đã di động,
không hiểu có chuyện gì không?
Quần hào biết Nhan Viên giỏi ngành nề mộc xây cất, nếu y đã khởi nghi, ắt có
chuyện gì liền nói: -Bọn mình đến xem thử.
Đến La Hán Đường thấy trên tường đầy vết máu, giới đao thiền trượng còn
đầy mặt đất. Chu Điên nói: -Nhan huynh, mười tám vị La Hán này có gì khác
lạ?
Nhan Viên đáp: -Tòa La Hán nào cũng bị người ta xô đẩy, lúc đầu huynh đệ
nghi đằng sau có thể có lối đi, nhưng xem xét tường vách không thấy có cửa
bí mật hay đường bí mật.
Dương Tiêu trầm ngâm một hồi, nói: -Mình thử đẩy tượng La Hán ra lần nữa
xem sao?
Nhan Viên nhảy lên bệ thờ, đẩy tượng trường mi La Hán sang một bên, lộ
tường ra quả nhiên không có gì khác lạ. Dương Tiêu cũng nhảy lên bệ, xem kỹ
pho tượng La Hán, đột nhiên “Ồ” một tiếng nói: -Sau lưng La Hán có viết chữ.
Liền xoay ngược pho tượng lại. Quần hào ngạc nhiên thấy có khắc một chữ
“Diệt” lớn bằng cái đấu. Pho tượng này vốn dĩ sơn son thếp vàng, lúc này lớp
sơn bên ngoài bị người nào dùng lợi khí khắc một chữ Diệt lớn, sâu vào cả tấc,
lộ cả đất ra. Vết xem ra còn mới hiển nhiên khắc chưa bao lâu. Chu Điên nói: –
Chữ Diệt này là cái quái gì? A, đúng rồi, chắc là phái Nga Mi đến quấy phá
chùa Thiếu Lâm, Diệt Tuyệt sư thái để chữ lại thị uy đấy mà.
Ai nấy thấy chuyện đó ngoài sức tưởng tượng, đều lắc đầu. Trong khi đang nói
chuyện, những người khác đã xoay cả mười tám pho tượng lại, trừ pho Hàng
Long La Hán ở tận cùng bên phải, và Phục Hổ La Hán ở tận cùng bên trái,
mười sáu pho tượng La Hán còn lại sau lưng đều có khắc mỗi pho một chữ, từ
phải sang trái thành như sau:
Tiên tru Thiếu Lâm,
Tái diệt Võ Đương.
Duy ngã Minh giáo,
Võ lâm xưng vương.
(Diệt phái Thiếu Lâm trước,
Rồi diệt Võ Đương sau.
Chỉ còn mình Minh giáo,
Trong võ lâm đứng đầu.)
Ân Thiên Chính, Thiết Quan đạo nhân, Thuyết Bất Đắc mọi người không hẹn
mà cùng kêu lên: -Đây là kế Di Họa Giang Đông.
Quần hào thấy mười sáu chữ đó giương nanh khoe vuốt, hình dáng thật ghê
rợn, nghĩ đến quần tăng chùa Thiếu Lâm bị thảm họa, bao nhiêu tội lỗi đổ lên
đầu Minh giáo, không khỏi lo âu. Chu Điên kêu lên: -Mình mau mau cạo sạch
mấy chữ này đi, để khỏi bị tiếng oan.
Dương Tiêu nói: -Địch nhân dụng tâm ác độc, chỉ cạo mấy chữ đi đâu đã đủ.
Lần này Chu Điên thấy y ăn nói có lý, không cãi lại chỉ hỏi: -Thế thì làm thế
nào?
Thuyết Bất Đắc nói: -Cứ để sau làm chứng cớ. Mình đi kiếm kẻ lập tâm di họa,
bắt đối chất với mười sáu chữ này.
Dương Tiêu gật đầu khen phải. Bành Oánh Ngọc nói: -Tiểu tăng vẫn còn một
chuyện chưa rõ, muốn được Dương tả sứ chỉ giáo. Kẻ khắc mười sáu chữ này
là đã lập tâm giá họa cho bản giáo, để chúng ta phải chịu cái đại tội tiêu diệt
Thiếu Lâm, khiến cho anh hùng võ lâm cùng nổi lên tấn công, thế nhưng sao
lại xoay lưng các pho tượng này quay vào tường? Sao không để mười sáu chữ
đó hướng ra ngoài? Nếu Nhan kỳ sứ không xét nét, thì có ai biết được sau lưng
tượng La Hán lại có khắc chữ?
Dương Tiêu mặt mày ngưng trọng nói: -Cứ mỗ suy xét, các pho tượng La Hán
này có ai đó xoay ngược lại, hẳn là bí mật giúp cho bản giáo, mình chịu một ân
tình lớn của người đó.
Quần hào cùng hỏi: -Người đó là ai? Sao Dương tả sứ lại biết?
Dương Tiêu thở dài: -Nguyên ủy khúc chiết trong chuyện này, chính mỗ cũng
chưa nghĩ ra …
Câu nói của ông ta chưa xong, Trương Vô Kỵ bỗng nhiên “A” lên một tiếng,
kêu hoảng lên: -Tiên tru Thiếu Lâm, tái diệt Võ Đương, chỉ sợ … chỉ sợ phái Võ
Đương cũng đang gặp nạn rồi.
Vi Nhất Tiếu nói: -Chúng ta nghĩa chẳng dung từ, lập tức đến cứu viện ngay,
để xem bọn chó má nào tính làm gì.
Ân Thiên Chính cũng nói: -Việc không thể chậm trễ, mình phải lập tức đi ngay.
Bọn gian tặc này đã đi trước một hai ngày rồi.
[1] Thần công búng ngón tay
[2] Ném đá điểm huyệt
[3] tiếng khiêm tốn để nói tới cấp trên của mình
[4] Một trăm họ phổ biến nhất ở bên Tàu làm thành một bài thơ có vần điệu
cho dễ nhớ, tương truyền là từ đời Tống nên lấy họ Triệu (hoàng tộc) đứng
đầu trăm họ.
[5] Tám con ngựa
[6] Một danh họa gia đời Nguyên (xin xem thêm Thư Họa, bài viết của Nguyễn
Duy Chính)
[7] kinh đô đời Bắc Tống, còn gọi là Biện Kinh, nay thuộc Hà Nam.
[8] Công phu bò trên tường như con thạch sùng
[9] đã học võ trước rồi sau mới xin học chùa Thiếu Lâm
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.