Ỷ THIÊN ĐỒ LONG KÝ
25. Cử hỏa liệu thiên hà hoàng hoàng
Bừng bừng lửa thánh cháy lên,
Làm trai quyết chí báo đền núi sông.
Muôn người trên dưới một lòng,
Xua quân Hồ Lỗ đại công cáo thành.
¤
Mọi người lo lắng Trương Vô Kỵ bị thương nên không đuổi theo, vội vàng xúm
lại. Trương Vô Kỵ mỉm cười, xua tay, ý nói không sao cả, trong thân thể phát
động Cửu Dương thần công, đẩy khí âm hàn của Huyền Minh thần chưởng ra
ngoài. Trên đầu chàng như cái lồng hấp, những làn hơi trắng từng tia bay lên.
Chàng cởi áo ngoài, hai bên mạng sườn có dấu hai bàn tay màu đen sậm. Cửu
Dương thần công vận chuyển một hồi, hai bàn tay từ màu đen biến thành màu
tía, từ màu tía biến thành màu tro, sau cùng biến mất không còn dấu vết gì
nữa. Trước sau chỉ mất nửa giờ đồng hồ, khác hẳn trước kia mấy năm không
khu trừ được âm độc của Huyền Minh thần chưởng, bây giờ khoảnh khắc là
mất hẳn. Chàng đứng lên, nói: -Lần này tuy hung hiểm thật, nhưng sau cùng
chúng ta cũng biết được mặt mũi của kẻ đối đầu.
Khi Huyền Minh nhị lão đối chưởng với Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu thì trước đó
đã bị Cửu Dương thần công của Trương Vô Kỵ xung kích rồi, âm độc trong
chưởng lực chưa được hai thành lúc bình thường, thế mà Dương Vi hai người
phải ngồi đả tọa vận khí, một hồi thật lâu mới đẩy được hết âm độc ra. Trương
Vô Kỵ quan tâm đến thương thế của thái sư phụ nhưng Trương Tam Phong
nói: -Hỏa công đầu đà nội công chẳng đáng gì, ngoại công tuy cương mãnh
thật nhưng so với Huyền Minh thần chưởng thì còn kém xa, thương thế của ta
không có gì đáng ngại.
Vừa lúc đó chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim Kỳ là Ngô Kình Thảo bước vào bẩm báo,
tất cả địch nhân đến xâm phạm đã xuống núi rồi. Du Đại Nham liền sai tri
khách đạo nhận dọn cỗ chay để mời quần hào Minh giáo. Trong bữa tiệc,
Trương Vô Kỵ liền kể lại cho Trương Tam Phong và Du Đại Nham tất cả sự tình
từ khi từ biệt tới bây giờ, ai nấy đều kinh hãi thở dài. Trương Tam Phong nói: –
Năm xưa cũng tại nơi điện Tam Thanh này, ta đã từng cùng một ông già trao
đổi một chưởng, có điều là hồi đó y mặc giả làm quân Mông Cổ nên không biết
là người nào trong hai người đó. Nói ra thật đáng hổ thẹn, cho đến hôm nay,
chúng ta vẫn chưa biết rõ kẻ đối đầu gốc gác thế nào.
Dương Tiêu nói: -Không biết cô gái họ Triệu kia lai lịch thế nào mà sao cao thủ
như loại Huyền Minh nhị lão cũng phải cam tâm để cho cô ta sai khiến.
Mọi người suy đoán đủ loại nhưng không biết rõ thế nào. Trương Vô Kỵ nói: –
Trước mắt có hai chuyện lớn phải làm. Việc thứ nhất là đi cướp Hắc Ngọc Đoạn
Tục Cao để trị cho khỏi thương thế của Du tam sư bá và Ân lục sư thúc. Việc
thứ hai là nghe ngóng tin tức nhóm Tống đại sư bá hiện nay ở đâu. Cả hai việc
đó đều ở trong tay cô gái họ Triệu kia.
Du Đại Nham cười gượng nói: -Ta tàn phế đã hai mươi năm, dù quả có tiên
đan thần dược cũng trị không khỏi được đâu, lo việc cứu đại ca, lục đệ các
anh em mới là cần.
Trương Vô Kỵ nói: -Việc không thể trì hoãn, xin Dương tả sứ, Vi Bức Vương và
Thuyết Bất Đắc đại sư ba vị đi cùng tôi xuống núi truy tìm tung tích địch nhân.
Các chưởng kỳ phó sứ của Ngũ Hành Kỳ chia nhau ra đến các phái Nga Mi,
Côn Lôn, Không Động và Nam Thiếu Lâm ở Phúc Kiến liên lạc với các phái,
nghe ngóng tin tức. Xin ông ngoại và cậu đi xuống Giang Nam chỉnh đốn lại
giáo chúng Thiên Ưng Kỳ. Thiết Quan đạo trưởng, Chu tiên sinh, Bành đại sư
cùng các chưởng kỳ sứ Ngũ Hành Kỳ tạm thời ở lại núi Võ Đương, nghe lệnh
thái sư phụ của tôi Trương chân nhân, ở giữa điều động hoạch định.
Chàng thuận miệng sắp đặt ngay trong bàn tiệc. Ân Thiên Chính, Dương Tiêu,
Vi Nhất Tiếu mọi người đều đứng dậy, khom lưng nhận lệnh. Trương Tam
Phong lúc đầu còn ngờ rằng chàng trẻ quá, làm sao thống suất được quần
hào, bây giờ thấy chàng phát hiệu ra lệnh, các đại hào kiệt trong võ lâm như
Ân Thiên Chính, Dương Tiêu … đều nhất nhất tuân theo, trong lòng cực kỳ vui
sướng nghĩ thầm: “Y học được Thái Cực Quyền, Thái Cực Kiếm của ta chẳng
qua chỉ do nội công có căn bản, ngộ tính cao, tuy cũng khó thật nhưng chưa
phải thật là quí. Còn như y có thể quản thúc các đại ma đầu của Minh giáo,
Thiên Ưng giáo đưa bọn họ đi lại con đường ngay thẳng, cái đó mới thực là
một đại sự. Ôi, Thúy Sơn có người nối dõi rồi, Thúy Sơn có người nối dõi rồi”.
Nghĩ đến đây, ông không nhịn nổi vuốt râu mỉm cười.
Trương Vô Kỵ, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu cả bọn ăn no rồi, lập tức từ biệt
Trương Tam Phong xuống núi thám thính hành tung của Triệu Mẫn. Bọn Ân
Thiên Chính tiễn đến ngoài núi mới quay lại. Dương Bất Hối lưu luyến không
muốn rời xa phụ thân, đưa chân đến hơn một dặm. Dương Tiêu nói: -Bất Hối,
con về đi, cố gắng chăm sóc cho Ân lục thúc.
Dương Bất Hối đáp: -Vâng.
Nàng đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ, đột nhiên má đỏ bừng, nói nhỏ: -Vô Kỵ ca
ca, em muốn nói với anh đôi câu.
Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu cả bọn ba người trong bụng cười thầm: “Hai người
có tình thanh mai trúc mã[1], thể nào chẳng có vài lời muốn nói”. Lập tức gia
tăng cước bộ, chạy xa một đoạn.
Dương Bất Hối nói: -Vô Kỵ ca ca, anh đến đây.
Nàng nắm tay Vô Kỵ, đến ngồi xuống một tảng đá lớn bên sườn núi. Trương
Vô Kỵ trong lòng nghi hoặc tự hỏi: “Ta và cô nàng biết nhau từ nhỏ, giao tình
không phải tầm thường. Vậy mà lần này xa nhau lâu ngày không gặp, sao cô
ta lại đối với mình thật là lạnh nhạt chẳng thân mật tí nào, bây giờ lại muốn
nói chuyện?”.
Chỉ thấy Dương Bất Hối chưa mở miệng mặt đã đỏ bừng, cúi đầu lặng thinh.
Một lúc lâu sau mới nói: -Vô Kỵ ca ca, khi mẹ em mất có ủy thác cho anh lo
lắng cho em, phải không?
Trương Vô Kỵ đáp: -Đúng thế!
Dương Bất Hối nói: -Anh vạn dặm đường xa vời vợi, từ bờ sông Hoài đưa em
đến Tây Vực giao tận tay cha em, đường đi bao nhiêu lần vào sinh ra tử, trăm
cay nghìn đắng. Đại ân không thể đền đáp bằng lời, cái ơn nghĩa đó em chỉ để
trong đáy lòng thôi, trước nay chưa nói với anh một lời nào.
Trương Vô Kỵ đáp: -Cái đó có gì đáng nói đâu? Nếu như anh không đưa em
đến Tây Vực, bản thân anh cũng không có những cơ duyên gặp gỡ, e rằng
chất độc phát ra nay đã chết rồi.
Dương Bất Hối nói: -Không, không đâu. Đại ca nhân hiệp rộng rãi, gặp việc gì
rồi cũng phùng hung hóa cát. Vô Kỵ ca ca, em từ nhỏ không có mẹ, cha em
tuy thân nhưng có nhiều điều em không thể nói với cha được. Đại ca là giáo
chủ của bản giáo thật nhưng trong lòng em, em chỉ nghĩ anh như một người
anh ruột thôi. Hôm đó trên Quang Minh Đính thấy anh lành lặn trở về, lòng em
mừng không sao nói ra được, chỉ có điều em không tiện nói với anh, anh có
giận em không?
Trương Vô Kỵ đáp: -Không đâu, đương nhiên là không giận.
Dương Bất Hối nói tiếp: -Em đối với Tiểu Siêu thực hung ác, thực tàn nhẫn,
chắc anh không vừa ý. Chỉ vì mẹ em chết thật thê thảm, đối với ác nhân, từ đó
em lòng dạ thật cứng rắn. Về sau thấy Tiểu Siêu đối với anh thật tốt, em
không còn ghét nó nữa.
Trương Vô Kỵ mỉm cười: -Con tiểu a đầu Tiểu Siêu quả thực có nhiều điều kỳ
lạ, có điều anh thấy nó không phải là người xấu đâu.
Lúc này mặt trời đã ngả về phương Tây, gió thu mơn man thật mát mẻ. Dương
Bất Hối vẻ mặt nhu tình vô hạn, sóng mắt long lanh, nói nhỏ: -Vô Kỵ ca ca,
anh nghĩ cha em và mẹ em có không nên không phải với Ân … lục thúc không?
Trương Vô Kỵ đáp: -Chuyện cũ rồi, mình không nên nhắc tới nữa.
Dương Bất Hối nói: -Không đâu, đối với người ngoài thì chuyện đó đã quá lâu
rồi, đến em nay cũng đã mười bảy tuổi rồi (?)[2]. Thế nhưng dù thế nào Ân
lục thúc vẫn không quên được mẹ em. Bây giờ ông ta lại bị thương nặng, ngày
đêm hôn mê, vẫn thường cầm tay em, không ngớt gọi: “Hiểu Phù, Hiểu Phù”.
Ông ấy còn nói: “Hiểu Phù, em đừng bỏ anh. Chân tay anh gãy cả rồi, đã
thành phế nhân, anh van em, đừng bỏ anh nhé, đừng làm ngơ không ngó
ngàng gì đến anh”.
Nàng nói đến đây, nước mắt rưng rưng thật là khích động. Trương Vô Kỵ nói: –
Đó chẳng qua là lục thúc nói ra khi thần trí nửa mê nửa tỉnh, không có gì làm
chắc chắn đâu.
Dương Bất Hối nói: -Chẳng phải đâu. Anh không rõ nhưng em biết rõ. Khi ông
ấy tỉnh táo rồi, mỗi lần nhìn em, ánh mắt và thần khí cũng vẫn như thế, có ý
cầu khẩn em đừng bỏ ông ta, nhưng không dám nói ra lời đấy thôi.
Trương Vô Kỵ thở dài một tiếng, chàng biết rằng vị sư thúc này võ công tuy
cao, tính tình lại thật yếu đuối. Hồi nhỏ chàng vẫn thường thấy chỉ một chuyện
hết sức nhỏ nhặt cũng làm ông ta khóc một hồi, cái chết của Kỷ Hiểu Phù đối
với ông thật là một biến cố lớn, bây giờ tứ chi lại gãy nát, dĩ nhiên ông ta tâm
thần kinh hoảng bất an. Chàng bèn nói: -Ngu huynh sẽ kiệt tận toàn lực tìm
cách đoạt cho bằng được Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao để trị cho Tam sư bá và Lục
sư thúc.
Dương Bất Hối nói: -Mỗi lần Ân lục thúc nhìn em như thế, nghĩ lại em càng
thấy cha em và mẹ em không phải, càng thấy ông ta đáng thương hơn. Vô Kỵ
ca ca, em đã chính miệng bằng lòng với Ân … Ân lục thúc, chân tay ông ấy
khỏi cũng thế, cả đời tàn phế cũng thế, em nguyện sẽ ở bên cạnh ông ấy mãi
mãi, vĩnh viễn không rời xa ông ta.
Nàng nói đến đây, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng, thế nhưng thần thái
vừa phấn khởi hớn hở, lại vừa thẹn thùng. Trương Vô Kỵ kinh hãi, không ngờ
rằng nàng lại cả gan cùng Ân Lê Đình phó thác cuộc đời, nhất thời không biết
phải phản ứng ra sao, chỉ ấp úng: -Em … em …
Dương Bất Hối nói: -Em đã nói chắc chắn như chém đinh chặt sắt là đã nhất
định theo ông ta. Dù cho cả đời ông không cử động được thì em cũng sẽ hầu
hạ bên giường, lo liệu việc ăn uống, nói chuyện vui cho ông ấy giải sầu.
Trương Vô Kỵ nói: -Thế nhưng cô …
Dương Bất Hối cướp lời: -Chẳng phải vì em nhất thời khích động mà hứa thế
với ông ấy đâu. Trên đường đi em đã suy nghĩ thật nhiều thật kỹ. Không
những ông ấy không bỏ em được mà em cũng không bỏ ông ấy được. Nếu
như ông ấy bị thương nặng không chữa nổi thì em cũng không sống được
đâu. Mỗi khi em ở gần ông ấy, ông ấy say đắm nhìn em, em thấy sung sướng
vô cùng. Vô Kỵ ca ca, khi còn bé chuyện gì em cũng kể cho anh nghe, em
muốn ăn bánh nướng, cũng nói cho anh hay, trên đường đi muốn ăn kẹo cũng
nói với anh. Khi đó mình làm gì có tiền để mua, nửa đêm anh vào lấy cắp của
họ ra cho em, anh có còn nhớ không?
Trương Vô Kỵ nghĩ đến năm xưa khi chàng cầm tay cô ta dẫn đi tìm cha, hai
anh em sống chết có nhau không khỏi chạnh lòng, hạ giọng nói: -Anh nhớ
chứ.
Dương Bất Hối cầm bàn tay chàng nói: -Anh đưa cho em cái kẹo, em không nỡ
ăn, cầm trong tay đi đường, ánh nắng chiếu vào kẹo chảy ra, em tiếc quá khóc
mãi không thôi. Anh bảo để anh tìm cho em cái khác nhưng tiếc thay về sau
đâu có tìm thấy loại kẹo đó nữa. Về sau anh mua cho em những cái kẹo vừa to
vừa ngon, em không thích lại khóc nữa khiến anh bực mình quá mắng em là
không biết nghe lời, có đúng không?
Trương Vô Kỵ mỉm cười nói: -Anh mắng em anh đâu có nhớ.
Dương Bất Hối nói: -Tính tình em cố chấp lắm, Ân lục thúc là chiếc kẹo đầu
tiên em thích, em sẽ không thích cái kẹo nào thứ hai. Vô Kỵ ca ca, có khi em
nghĩ thật là trẻ con, anh tốt với em như thế, mấy lần cứu em thoát chết, đúng
ra em … em phải suốt đời hầu hạ anh mới phải. Thế nhưng em coi anh chẳng
khác gì anh ruột, trong lòng em thương anh kính anh, thế nhưng đối với ông
ta em thấy thương hại không để đâu cho xiết, mến ông ta không nói ra được.
Ông ấy tuổi còn hơn gấp đôi em, lại là trưởng bối của em, người ta thể nào
cũng cười em, cha em lại là kẻ thù không đội trời chung, em … em biết là
không ổn … nhưng dù thế nào chăng nữa, em cũng sẽ nói với anh.
Nàng nói đến đây, không dám nhìn vào mặt Trương Vô Kỵ nữa, lập tức đứng
dậy, chạy mất.
Trương Vô Kỵ nhìn lưng nàng khuất sau một sườn núi, trong lòng hoang mang,
không biết tính sao, đứng ngơ ngẩn hồi lâu, rồi chạy đuổi theo ba người Vi
Nhất Tiếu. Thuyết Bất Đắc và Vi Nhất Tiếu thấy khóe mắt chàng dường như có
ngấn lệ, liếc Dương Tiêu mủm mỉm cười, ý như muốn nói: “Chúc mừng ngươi
nhé, chẳng bao lâu nữa Dương tả sứ sẽ thành bố vợ của giáo chủ”.
Bốn người xuống khỏi núi Võ Đương. Dương Tiêu nói: -Cô nương họ Triệu đó
tiền hô hậu ủng, không phải chỉ đi một mình, muốn tìm tung tích nàng ta
không có gì là khó. Chúng ta chia nhau ra bốn hướng đông tây nam bắc tra
tìm, hẹn ngày mai đúng ngọ gặp nhau tại Cốc Thành. Tôn ý của giáo chủ ra
sao?
Trương Vô Kỵ đáp: -Hay lắm, cứ như thế, để tôi đi về phương tây.
Cốc Thành nằm ở phía đông núi Võ Đương, chàng đi về hướng tây tra xét, có
nghĩa là phải đi xa hơn những người kia một khúc đường. Chàng dặn tiếp: -Võ
công của Huyền Minh nhị lão rất là ghê gớm, ba vị nếu có gặp họ, nếu tránh
được thì tránh, đừng một mình động thủ với họ làm gì.
Ba người vâng lệnh, lập tức hành lễ từ biệt, chia ra ba hướng đông nam bắc
mà đi.
Về phía tây toàn là đường núi, Trương Vô Kỵ thi triển khinh công chạy thật
nhanh, chỉ hơn một giờ đã đến Thập Yển Trấn. Chàng ghé vào thị trấn kiếm
một quán ăn gọi một tô mì, hỏi tiểu nhị hỏi xem có thấy một chiếc kiệu bọc
gấm đoạn vàng đi qua không. Gã tiểu nhị đáp: -Có chứ. Còn thêm ba người
bệnh nặng, nằm trong võng khiêng theo nữa, đi về hướng Hoàng Long Trấn,
mới chưa đến một giờ.
Trương Vô Kỵ mừng lắm, nghĩ thầm bọn người này không thể đi nhanh, để
khỏi tiết lộ hành tung của mình đến trời tối đuổi theo cũng không muộn.
Chàng bèn tìm một nơi vắng lặng, nằm ngủ một giấc, đợi đến canh một mới
thẳng hướng Hoàng Long Trấn mà đi.
Lúc đến trấn trời chưa tới canh hai, chàng náu mình dưới góc tường, thấy
đường xa hoàn toàn yên tĩnh không một bóng người, nhưng ở một khách điếm
lớn vẫn còn đèn đuốc sáng chưng. Chàng tung mình nhảy lên mái nhà, nhẩy
vài cái, đã đến mái nhà bên cạnh khách điếm, nhìn quanh thấy ở bên ngoài
đồng trống nơi bờ sông có một cái lều vải lớn, đằng trước đằng sau có người
qua lại, canh gác thật nghiêm mật, nghĩ thầm: “Không lẽ Triệu cô nương lại ở
nơi cái lều kia? Hình dáng nói năng cô ta chẳng khác gì người Hán, nhưng
hành sự ngang tàng sảng khoái, có vài phần phong thái người Mông Cổ”. Khi
đó người Nguyên cai trị Trung Hoa đã lâu, không hiếm những người Hán khá
giả cố học cách của người Mông Cổ cho là vinh dự nên cũng không có gì là lạ.
Vô Kỵ đang tính toán làm sao đến gần cái lều đó được, bỗng nghe từ một cửa
sổ nơi khách điếm vọng ra mấy tiếng rên. Chàng chợt động tâm vội nhảy
xuống rón rén men đến cửa sổ, nhìn vào trong. Trong nhà có ba người nằm
trên ba chiếc giường, trong đó hai người nhìn không rõ mặt. Người nằm gần
cửa sổ hai tay hai chân đều quấn vải trắng chính là “A Tam”, y xuýt xoa nho
nhỏ xem chừng vết thương cực kỳ đau đớn. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Chân
tay y bị ta đánh gãy, thể nào cũng dùng linh dược bản môn là Hắc Ngọc Đoạn
Tục Cao để chữa trị. Lúc này nếu không cướp lấy thì còn lúc nào?”. Chàng lên
đẩy tung cửa sổ, tung mình nhảy vào, một người đứng trong phòng kinh hãi
kêu lên, vung chưởng đánh ra. Trương Vô Kỵ giơ tay chộp đầu quyền của y,
tay phải điểm luôn vào huyện tê, quay lại nhìn thấy hai người nằm kia chính là
gã đầu hói “A Nhị” và Bát Tí Thần Kiếm Phương Đông Bạch. Còn người bị
chàng điểm huyệt mặc trường bào vải xanh, tay còn cầm hai cái kim chắc là
đang châm cứu cho ba người đỡ đau. Trên bàn để một cái bình màu đen, cạnh
bình có mấy khối ngải cứu.
Trương Vô Kỵ cầm cái bình lên, mở nút ra ngửi, thấy một mùi cay nồng, cực kỳ
hăng xông vào mũi. “A Tam” kêu lên: -Có người đến cướp thuốc …
Trương Vô Kỵ ngón tay nhanh như gió điểm luôn á huyệt của cả ba người, mở
băng của “A Tam” ra coi, quả nhiên tay chân y đều một màu đen, phủ một lớp
cao mỏng. Chàng e ngại Triệu Mẫn ngụy kế đa đoan, cố ý để thuốc giả trong
bình, để dụ cho mình tới nên vét tất cả thuốc cao trên người “A Tam” lẫn gã
đầu hói “A Nhị” vào băng vải, thì dù thuốc trong bình có thể giả nhưng thuốc
từ ngay vết thương của họ hẳn không thể nào giả được. Người canh gác bên
ngoài nghe tiếng, đạp cửa xông vào. Trương Vô Kỵ không thèm nhìn đến họ,
giơ chân đá mỗi người một cái văng cả ra ngoài. Chỉ trong giây lát, người trong
khách điếm kêu la om xòm, náo loạn cả lên.
Trương Vô Kỵ liên tiếp đá sáu người mới vét được một nửa số thuốc cao trét
trên người “A Tam” và lão hói đầu “A Nhị”, nghĩ thầm nếu mình dây dưa thêm,
để cho Huyền Minh nhị lão xông ra thì thật là khó khăn, nên bỏ ngay cái bình
thuốc và cuốn băng vào túi, nhắc gã thầy thuốc lên ném luôn ra ngoài cửa sổ.
Không ngoài dự liệu của chàng, chỉ nghe bình một tiếng thật lớn, gã thầy
thuốc kia đã bị đánh trúng một chưởng lăn quay ra đất, ngoài cửa sổ quả có
cao thủ mai phục tập kích. Trương Vô Kỵ lợi dụng ngay giây phút đó, phi thân
ra ngoài, trong bóng đêm ánh sáng lấp loáng, hai món binh khí đã đâm tới.
Chàng tay trái kéo, tay phải đẩy, thi triển Càn Khôn Đại Na Di, kiếm bên trái
liền đâm trúng người bên phải còn ngọn giáo bên phải đâm ngay vào người
bên trái, đang lộn xộn thì chàng đã chạy xa rồi.
Chàng trên đường về cảm thấy vui vẻ, tuy chuyến đi chưa tìm ra được chân
tướng Triệu Mẫn nhưng lấy được Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao thì dù gì vẫn hơn.
Chàng lập tức chạy về núi Võ Đương, nhờ Hồng Thủy Kỳ cho người đến Cốc
Thành, báo cho bọn Dương Tiêu quay trở lại. Trương Tam Phong và những
người khác nghe tin đã lấy được Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao đều hết sức vui
mừng.
Trương Vô Kỵ xem xét kỹ thuốc cao bôi trên người “A Tam” rồi so sánh với
thuốc cao trong bình, quả đúng là cùng một thứ. Cái bình đó là một khối ngọc
lớn tạc thành, đen nhánh như sơn, cầm trên tay thấy âm ấm trông có vẻ cổ
kính. Riêng cái bình đó không thôi cũng là một bảo vật quí giá rồi. Chàng
không còn hoài nghi gì nữa, sai người khiêng Ân Lê Đình và Du Đại Nham vào
phòng riêng, để hai chiếc giường song song.
Dương Bất Hối đi theo vào, nàng không dám nhìn thẳng vào mặt Vô Kỵ nhưng
trên mặt đầy vẻ rạng rỡ, trong lòng cực kỳ cảm kích, đủ thấy Trương Vô Kỵ
đưa nàng sang Tây Vực, uống thay nàng ly rượu độc ở nhà Hà Thái Xung, bao
nhiêu ân tình đó cũng không bằng được việc chàng trị bệnh cho Ân Lê Đình.
Trương Vô Kỵ nói: -Tam sư bá, các vết thương cũ của sư bá nay đã lành rồi,
muốn chữa bệnh thì điệt nhi phải đánh gãy các khớp xương rồi nối lại, chỉ
mong sư bá cố chịu cái đau nhất thời này.
Du Đại Nham chẳng tin là mình đã tàn phế hai mươi năm nay lại có thể chữa
lành, nhưng cùng lắm có không khỏi thì cũng đến như bây giờ thôi, trong hai
mươi năm qua ông chẳng còn coi chuyện gì vào đâu nữa nên nghĩ thầm: “Vô
Kỵ tận tâm kiệt lực, muốn đền đáp cái lỗi lầm của cha mẹ, không làm thì suốt
đời không yên tâm. Cái đau nhất thời của ta, nào có đáng gì?”.
Ông không nói thêm, chỉ mỉm cười đáp: -Cháu cứ tùy ý mà làm, không sao.
Trương Vô Kỵ bảo Dương Bất Hối ra ngoài, cởi hết y phục Du Đại Nham ra, lấy
tay mò các chỗ xương gãy cho thật kỹ càng, sau đó điểm huyệt cho ông mê đi,
vận kình lên mười ngón tay, nghe cắc cắc cắc liên thanh bất tuyệt, đánh gãy
lại các chỗ xương cũ nay đã liền. Du Đại Nham tuy huyệt đạo bị điểm nhưng
đau đến nỗi tỉnh lại. Trương Vô Kỵ thủ pháp nhanh như gió, xương lớn xương
nhỏ gì cũng đánh gãy hết, sau đó nối lại tất cả các bộ vị, bôi Hắc Ngọc Đoạn
Tục Cao lên rồi bó lại, ghép thêm giá gỗ bên ngoài, sau đó mới châm kim cho
bớt đau.
Chữa cho Ân Lê Đình thì dễ dàng hơn nhiều, các xương gãy khi còn ở Tây Vực
chàng đã nắn lại cho thẳng cả, lúc này chỉ cần bôi Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao là
đủ. Xong xuôi, chàng sai chính phó kỳ sứ Ngũ Hành Kỳ luân phiên canh gác,
đề phòng địch nhân kéo đến quấy nhiễu.
Quá trưa hôm đó, ăn cơm xong, Trương Vô Kỵ nằm trong vân phòng ngủ một
lát lấy lại sức cho đêm qua chạy đôn chạy đáo, đang mơ màng nghe tiếng
người đi tới trước cửa, liền tỉnh ngay dậy. Tiểu Siêu ở bên ngoài canh hỏi nhỏ:
-Chuyện gì thế? Giáo chủ đang ngủ.
Chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ Nhan Viên nói nhỏ: -Ân lục hiệp đau đến bất tỉnh ba
lần, không biết giáo chủ …
Trương Vô Kỵ không đợi y nói hết câu, nhỏm dậy chạy ra, rảo bước đến phòng
Du Đại Nham, thấy Ân Lê Đình hai mắt trợn ngược, đã bất tỉnh rồi. Dương Bất
Hối hoảng đến hai mắt đẫm lệ, không biết phải làm sao. Nằm bên cạnh Du Đại
Nham nghiến răng kêu ken két, hiển nhiên đang cố nhịn đau, chỉ vì tính ông
kiên cường, không để lọt ra tiếng rên rỉ nào.
Trương Vô Kỵ thấy tình hình đó, cực kỳ lạ lùng, tại các huyệt Thừa Khấp, Thái
Dương, Đàn Trung … của Ân Lê Đình nắn bóp mấy cái, cứu ông ta tỉnh lại,
quay sang hỏi Du Đại Nham: -Tam sư bá, các chỗ xương gãy đau lắm sao?
Du Đại Nham đáp: -Chỗ xương gãy đau thì đã đành, có điều lục phủ ngũ tạng
ngứa ngáy chịu không nổi … tưởng như, tưởng như có muôn ngàn con côn
trùng đang đục khoét.
Trương Vô Kỵ kinh hãi không đâu cho hết, nghe Du Đại Nham nói, rõ ràng là
trúng chất kịch độc, vội hỏi Ân Lê Đình: -Lục thúc, chú thấy sao?
Ân Lê Đình nửa mê nửa tỉnh đáp: -Đỏ có, tím có, xanh có, lục có, vàng có,
trắng có, lam có … đẹp ơi là đẹp, biết bao nhiêu là bong bóng bay vòng vòng,
chạy qua chạy lại … thật là dễ ưa … ngươi xem … ngươi xem …
Trương Vô Kỵ “Ối chà” một tiếng, tưởng như muốn ngất ngay tại chỗ. Chàng
nghĩ ngay đến trong Độc Kinh của Vương Nạn Cô có chép:
Thất trùng thất hoa cao, dùng bảy loại độc trùng, bảy loại độc hoa, đem trộn
lẫn nấu với nhau mà làm thành, người trùng độc trước thấy nội tạng ngứa
ngáy như bảy loại trùng đang cắn xé, sau đó trước mắt thấy hiện lên bảy màu,
đẹp đẽ huyễn ảo, như bảy loại hoa bay chập chờn. Thất trùng thất hoa cao
dùng bảy loại trùng, bảy loại hoa tùy theo mỗi người một khác, nam bắc cũng
chẳng giống nhau. Tối linh nghiệm thần hiệu có bốn mươi chín cách phối chế
khác nhau, biến hóa ra sáu mươi ba phương thuốc. Chỉ có người chế thuốc
giải được thôi.
Mồ hôi trán Trương Vô Kỵ vã ra như tắm, không ngờ lại trúng kế Triệu Mẫn.
Nàng ta cố ý để thất trùng thất hoa cao trong bình ngọc đen, lại bôi thứ thuốc
kịch độc đó lên người “A Tam” và “A Nhị”, không coi tính mệnh của hai cao thủ
đó vào đâu cốt sao dụ được mình vào tròng, tâm địa độc ác đến thế, không ai
có thể tưởng tượng nổi.
Chàng hối hận quá, vội vàng hành động thật nhanh, cởi hết các giá gỗ buộc
trên hai người, dùng rượu trắng rửa sạch chất cao độc. Dương Bất Hối thấy
chàng mặt mày nghiêm trọng, biết rằng việc chẳng lành, nên cũng không còn
hiềm kỵ gì nữa, giúp chàng dùng rượu rửa sạch tứ chi Ân Lê Đình. Thế nhưng
màu đen đã thấm vào da thịt, rửa không ra, chẳng khác nào thợ sơn dính sơn
vào tay, không dễ gì một ngày một buổi mà sạch được.
Trương Vô Kỵ không dám dùng thuốc một cách khinh suất, chỉ lấy các loại trấn
thống an thần cho hai người uống. Chàng đi ra phòng ngoài, vừa hốt hoảng,
vừa xấu hổ, không còn bụng dạ nào nữa hai đầu gối mềm nhũn ra, nằm phục
xuống đất khóc òa lên. Dương Bất Hối kinh hãi, chỉ biết kêu lên: -Vô Kỵ ca ca,
Vô Kỵ ca ca.
Trương Vô Kỵ nức nở: -Chính tay ta giết Tam sư bá và Lục sư thúc rồi.
Chàng trong bụng thầm tính toán: -Loại thất trùng thất hoa cao này có hàng
trăm cách phối chế khác nhau, ai biết cô ta dùng bảy loại hoa nào, bảy loại
trùng nào? Muốn hóa giải chất kịch độc toàn do phương pháp dĩ độc công độc,
chỉ cần sai một loại độc trùng độc hoa, dùng thuốc lỡ tay, lập tức tam sư bá và
lục sư thúc chết ngay.
Trong giây phút đó, chàng hiểu ngay vì sao cha mình lại tự vẫn, cái sai lầm to
lớn không cứu vãn được, ngoài việc lấy cái chết để tạ tội ra, thật chẳng còn
cách nào khác. Chàng uể oải đứng lên, Dương Bất Hối liền hỏi: -Quả không có
thứ thuốc nào chữa được ư? Ngay cả miễn cưỡng làm thử cũng không được
à?
Trương Vô Kỵ chỉ biết lắc đầu. Dương Bất Hối thở dài: -Thôi được.
Thần sắc nàng thản nhiên, không còn vẻ gì kinh hoảng nữa. Trương Vô Kỵ
trong lòng nhói lên, nhớ đến hôm trước nàng có nói: “Nếu như ông ấy không
sống được, thì em cũng chẳng thiết sống nữa” nghĩ thầm: “Lần này ta đâu
phải chỉ làm chết hai người, hai mà thành ba”. Trong lòng chàng còn đang
nặng như chì, bỗng thấy Ngô Kình Thảo đến trước cửa bẩm: -Giáo chủ, cô
nương họ Triệu kia đang ở ngoài đạo quan xin được gặp.
Trương Vô Kỵ vừa nghe thế, bi phẫn không sao kìm được, kêu lên: -Ta đang
muốn đi kiếm cô nàng đây.
Chàng rút nganh thanh trường kiếm Dương Bất Hối đeo ở ngang hông rảo
bước đi ra. Tiểu Siêu lấy chiếc hoa ngọc trai trên đầu đưa cho Trương Vô Kỵ: –
Công tử, công tử đem trả lại cho Triệu cô nương.
Trương Vô Kỵ đưa mắt nhìn nàng, nghĩ thầm: “Cô này thật là có ý tứ. Ta và cô
nương họ Triệu kia thù sâu như bể, ta chẳng nên giữ của nàng ta cái gì”.
Chàng một tay cầm kiếm, một tay cầm hoa, đi ra ngoài cửa đạo quan.
Chỉ thấy Triệu Mẫn một mình đứng đó, vẻ mặt tươi cười. Khi đó mặt trời buổi
chiều đỏ rực như máu, chiếu xiên xiên lên mặt nàng, trông xinh đẹp không gì
sánh kịp. Huyền Minh nhị lão đứng ở sau lưng nàng cách chừng hơn mười
trượng. Hai người cầm ba con ngựa, mắt nhìn đi đâu đâu.
Trương Vô Kỵ chuyển mình một cái đã đến ngay trước mặt Triệu Mẫn, tay trái
thò ra nắm được ngay hai cổ tay nàng, tay phải để mũi kiếm vào ngực, quát
lên: -Mau đem giải dược ra cho ta.
Triệu Mẫn mỉm cười nói: -Anh đã hiếp đáp tôi một lần, lần này lại định bức
bách nữa hay sao? Tôi lên đây là để hỏi thăm anh, vậy mà mặt mày hầm hầm,
sao gọi là đạo đãi khách được?
Trương Vô Kỵ nói: -Tôi cần giải dược, nếu cô không đưa ra, tôi … tôi không
muốn sống nữa, cô cũng chết theo.
Triệu Mẫn mặt hơi đỏ lên, xì một tiếng nói nhỏ: -Hứ, nói chẳng đâu vào đâu.
Anh chết kệ anh, có liên quan gì đến tôi, tại sao lại phải bắt tôi chết theo là
sao?
Trương Vô Kỵ sẵng giọng: -Ai hơi đâu mà nói đùa với cô? Cô không cho giải
dược thì hôm nay là ngày cả tôi lẫn cô đều chết hết.
Hai tay Triệu Mẫn bị chàng nắm chặt, chỉ thấy người Trương Vô Kỵ run bần
bật, khích động không để đâu cho hết, lại thấy trong lòng bàn tay chàng có
vật gì cưng cứng, bèn hỏi: -Trong tay anh cầm cái gì thế?
Trương Vô Kỵ đáp: -Đó là châu hoa của cô, trả lại cô đó.
Chàng buông tay, cầm đóa hoa cắm lại trên đầu nàng, rồi lại vòng xuống chộp
ngay lấy hai cổ tay, vừa buông vừa nắm, thủ pháp nhanh như ánh chớp. Triệu
Mẫn nói: -Cái đó tôi tặng cho anh, sao anh lại không lấy?
Trương Vô Kỵ hậm hực đáp: -Cô làm tôi khổ đến thế, tôi không lấy gì của cô
nữa đâu.
Triệu Mẫn nói: -Có thật anh không lấy gì của tôi không? Nói thật hay đùa đấy?
Thế sao vừa mở miệng anh đã đòi tôi đưa anh thuốc giải là sao?
Trương Vô Kỵ mỗi lần tranh cãi với nàng đều bị lép vế, lúc này cũng ngắc ngứ,
nghĩ đến Du Đại Nham, Ân Lê Đình không còn sống được bao lâu, lòng đau
như cắt, hai hàng nước mắt rưng rưng tưởng như muốn trào ra. Chàng đã
toan mở miệng khẩn cầu, nhưng nghĩ lại Triệu Mẫn ác độc như thế nên chẳng
muốn tỏ ra yếu đuối trước mặt nàng.
Lúc này bọn Dương Tiêu đã nghe tin, kéo nhau ra cửa, thấy Triệu Mẫn đã bị
Trương Vô Kỵ bắt giữ, Huyền Minh nhị lão lại đứng tận đằng xa, tưởng như
không quan tâm đến, hoặc giả ỷ y chẳng sợ hãi gì. Mọi người liền đứng sang
một bên, bình tĩnh đứng xem.
Triệu Mẫn mỉm cười nói: -Anh là giáo chủ Minh giáo, võ công chấn động thiên
hạ, vậy mà mới gặp khó khăn một chút, đã khóc hu hu như trẻ con. Anh vừa
mới khóc, có phải không nào? Rõ thật không biết xấu hổ. Để tôi nói đây, anh bị
trúng hai chưởng của Huyền Minh nhị lão, tôi đến thăm anh thương thế ra
sao. Ngờ đâu vừa mới gặp mặt anh đã xí xa xí xô gì sống sống, chết chết là
sao? Anh có bỏ tay ra không thì bảo?
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm, dù nàng có muốn chạy trốn cũng không thể nào kịp,
chỉ cần chân cô ta vừa động mình sẽ bắt lại ngay nên buông tay Triệu Mẫn ra.
Triệu Mẫn giơ tay nắn lại bông hoa trên mái tóc, mỉm cười: -Sao xem như anh
không bị thương chút nào cả?
Trương Vô Kỵ lạnh lùng đáp: -Chỉ bằng Huyền Minh thần chưởng dễ gì đả
thương được người ta.
Triệu Mẫn nói: -Thế còn Đại Lực Kim Cương Chỉ? Thất trùng thất hoa cao?
Hai câu đó chẳng khác nào hai cái búa giáng vào ngực Trương Vô Kỵ, chàng
hậm hực đáp: -Quả nhiên đúng là thất trùng thất hoa cao.
Triệu Mẫn nghiêm mặt nói: -Trương giáo chủ, công tử muốn lấy Hắc Ngọc
Đoạn Tục Cao tôi cũng đưa. Giáo chủ muốn lấy giải dược của thất trùng thất
hoa cao tôi cũng tặng. Chỉ cần công tử bằng lòng làm cho tôi ba chuyện, tôi sẽ
lập tức bưng hai tay dâng lên. Còn nếu anh lấy sức uy hiếp tôi, giết tôi thì dễ,
còn muốn thuốc giải đã khó càng khó thêm. Anh lại giở ác hình tra khảo tôi, tôi
sẽ chỉ cho anh thuốc giả, thuốc độc.
Trương Vô Kỵ mừng quá, nước mắt đang chực trào ra, mặt lập tức tươi rói, vội
vàng nói: -Ba chuyện gì? Nói ngay, nói ngay.
Triệu Mẫn mỉm cười: -Mới khóc lại cười, thật không biết xấu. Tôi đã nói với anh
rồi, tôi chưa nghĩ ra, bao giờ tôi nghĩ ra được lúc đó sẽ nói với anh, chỉ cần anh
kim khẩu một lời, quyết không vi ước là xong. Tôi không bắt anh đi hái mặt
trăng trên trời, cũng chẳng đòi anh làm chuyện ác vi phạm đạo hiệp nghĩa,
cũng chẳng bảo anh tự tử, dĩ nhiên cũng chẳng bảo anh làm heo làm chó.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Chỉ cần không vi phạm đạo hiệp nghĩa, thì dù có
khó khăn đến mực nào, ta cũng kiệt lực mà làm cho được”. Chàng bèn khẳng
khái đáp: -Triệu cô nương, nếu được cô nương huệ tứ linh dược để tại hạ trị
khỏi cho tam sư bá và lục sư thúc, dù cho cô nương sai bảo điều gì, dẫu phải
dầu sôi lửa bỏng Trương Vô Kỵ này cũng nguyện mặc tình sai khiến quyết
không từ nan.
Triệu Mẫn giơ bàn tay ra nói: -Hay lắm, vậy mình đập tay ăn thề. Tôi sẽ đưa
giải dược cho công tử để trị cho tam sư bá và lục sư thúc, sau này tôi đòi công
tử làm cho ta ba chuyện, chỉ cần không vi phạm đạo hiệp nghĩa, công tử phải
hết sức làm, không được từ chối đấy nhé.
Trương Vô Kỵ đáp: -Xin quyết tuân theo lời vàng ngọc của cô nương.
Hai người nhè nhẹ đập tay ba lần. Triệu Mẫn lấy chiếc hoa trên mái tóc nói: –
Thế bây giờ anh đã chịu lấy đồ của tôi tặng cho chưa?
Trương Vô Kỵ sợ nàng không đưa giải dược, không dám trái ý, vội cầm lấy
bông châu hoa. Triệu Mẫn nói: -Nhưng tôi không muốn anh đem cho con a
hoàn đâu nhé.
Trương Vô Kỵ đáp: -Vâng.
Triệu Mẫn mỉm cười lui lại ba bước, nói: -Giải dược sẽ đem đến ngay, xin từ
biệt Trương giáo chủ.
Nàng phất tay áo, quay mình đi. Huyền Minh nhị lão liền dắt ngựa lại, đỡ nàng
lên yên đi trước. Tiếng chân ba con ngựa lộp cộp lộp cộp, thủng thẳng xuống
núi.
Bọn Triệu Mẫn ba người vừa khuất sau một triền núi, bên tàn cây lớn phía trái
liền nhô ra một người, chính là Tiền Nhị Bại trong thần tiễn bát hùng. Y tay
cầm thiết cung, giương tên lớn tiếng nói: -Chủ nhân chúng tôi trình lên Trương
giáo chủ một phong thư, kính xin nhận lấy.
Nói xong nghe soẹt một tiếng đã bắn mũi tên ra. Trương Vô Kỵ khua tay một
cái, chộp ngay được mũi tên, thấy mũi không có đầu sắt, đuôi buộc một phong
thư. Trương Vô Kỵ cởi ra xem thấy trên phong bì đề: “Trương giáo chủ thân
khải”. Chàng mở thư thấy có một bức hoa tiên, trên viết mấy dòng theo lối tiểu
khải như sau:
Hộp vàng ấy hai tầng vốn sẵn,
Linh cao kia nằm ẩn bên trong.
Châu hoa ở giữa trống không,
Dược phương dấu đó để phòng cần đưa.
Hai món sớm tặng người quân tử,
Sao lại còn đôn đáo làm chi?
Vật hèn tuy chẳng đáng gì,
Đem lòng rẻ rúng coi như đất bùn.
Dẫu sao cũng từ tay tiện thiếp,
Nỡ lòng nào chàng lại coi khinh?
Tặng cho người ở kẻ ăn,
Hóa ra phụ tấm chân tình này sao? [3]
Trương Vô Kỵ đọc kỹ ba lần tờ thư, vừa mừng vừa sợ, lại thêm sượng sùng, vội
lấy đóa châu hoa ra coi, vặn thử quả nhiên một viên ngọc trai có thể chuyển
động, chàng liền tháo ra thấy cán hoa rỗng không trong có chứa một vật gì
trăng trắng. Trương Vô Kỵ lấy trong bọc ra một chiếc kim vẫn dùng để châm
huyệt đạo, khều vật đó ra, quả nhiên là một tờ giấy mỏng dính, trên đó ghi rõ
bảy loại độc trùng nào và bảy loại hoa nào, người trúng độc giải cứu ra sao,
từng loại từng loại thật minh bạch.
Thực ra chàng chỉ cần biết được các tên của bảy loại hoa, bảy loại trùng kia là
biết cách chữa, không cần phải ai chỉ điểm. Chàng xem giải pháp hoàn toàn
không có gì sai sẩy, biết Triệu Mẫn không có ý phá mình nữa, thực là mừng rỡ,
chạy ngay vào nội viện, theo đúng đó mà phối chế thuốc men cứu chữa. Quả
nhiên chỉ hơn một giờ sau, độc thế của Du Ân hai người nhẹ hẳn, trong người
không còn ngứa ngáy nữa, mắt cũng không còn bị hoa.
Chàng lại lấy cái hộp vàng dùng để đựng bông hoa hạt châu của Triệu Mẫn
tặng ra xem kỹ, sau cùng mở được hai tầng giáp nhau ra, bên trong quả đựng
đầy thuốc cao đen nhánh, mùi thật thơm tho, mát dịu.
Lần này chàng không dám bộp chộp, bắt một con chó, bẻ gãy một bên chân
sau, bôi thử cao lên vết thương, đợi đến sáng hôm sau, con chó vẫn tỉnh táo
nhanh nhẹn, không có vẻ gì là trúng độc, chỗ vết thương đã thấy khá hơn
nhiều.
Qua ngày thứ ba, chất độc trong người hai vị Du Ân đã hoàn toàn trừ hết,
Trương Vô Kỵ liền đem Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao thật bôi lên tứ chi hai người.
Lần này không chuyện gì xảy ra, Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao quả nhiên công hiệu
như thần, chỉ hai tháng sau, hai tay của Ân Lê Đình đã hoạt động lại, xem ra
sau này không những tay chân cử động bình thường mà võ công cũng không
mất mát lắm. Chỉ có Du Đại Nham tàn phế lâu năm, muốn được như xưa thì
thật khó, nhưng xem tình hình hồi phục của ông ta, chỉ sáu tháng thôi, có thể
dùng nạng cặp vào nách thay chân bước đi chầm chậm được rồi, tuy vẫn còn
tàn phế nhưng không còn là một người nằm ỳ một chỗ không động đậy được
gì như trước.
Trương Vô Kỵ ở lại trên núi Võ Đương lâu như thế, những người của Ngũ Hành
Kỳ cử đi các phái trước sau đã quay trở về, đem toàn những tin tức khiến ai
nấy đều kinh ngạc. Toàn bộ nhân chúng các phái Nga Mi, Hoa Sơn, Không
Động, Côn Lôn viễn chinh Quang Minh Đính, không một người nào trở về cả.
Trên giang hồ thì thầm đồn đãi, ai cũng bảo rằng Minh giáo người nhiều thế
mạnh, đã tiêu diệt toàn bộ các cao thủ đi Tây Vực rồi, nay đang chia ra đi
đánh các phái. Các tăng nhân phái Thiếu Lâm đột nhiên thất tung đã đem tới
một trận phong ba không tiền khoáng hậu trong võ lâm. Cũng may các phó sứ
Ngũ Hành Kỳ lần này đi ai cũng mang theo tín phù của Trương Tam Phong, lại
không tiết lộ thân phận mình, nếu không chắc cũng đã bị đánh cho một trận
tơi bời. Cũng theo các chưởng kỳ phó sứ, hiện nay các môn phái, bang hội,
đến cả các tiêu hãng, sơn trại, thuyền bang, bến đò bãi nước đều đâu đâu
cũng nghiêm mật canh phòng sợ Minh giáo bất ngờ đến đánh.
Thêm vài ngày nữa, cha con Ân Thiên Chính và Ân Dã Vương cũng quay về núi
Võ Đương, cho hay Thiên Ưng Kỳ đã hoàn toàn chỉnh đốn, tất cả đều qui
thuộc Minh giáo. Hai người cũng cho hay phía đông nam quần hùng đang nổi
lên, những người phản Nguyên chỗ này xuống thì chỗ khác lại lên, thiên hạ đã
thành đại loạn. Thời đó quân Nguyên còn rất mạnh, nơi nào cũng chỉ một
mình chiến đấu, không ai liên lạc hô ứng với ai thành thử chưa được dân
chúng hưởng ứng đã bị tiêu diệt.
Buổi chiều hôm đó, Trương Tam Phong cho dọn cỗ chay ở hậu điện ca ngợi tin
tức của cha con Ân Thiên Chính. Trên bàn, Ân Thiên Chính phân tích nguyên
nhân thất bại của các nơi, nơi nào cũng có người của Minh giáo và Thiên Ưng
giáo tham gia, bị quân Nguyên hoặc bắt bớ, hoặc tàn sát số người tuẫn nạn
thật là đông. Quần hào nghe thế không ai là không ngậm ngùi.
Dương Tiêu nói: -Trăm họ khổ sở đã nhiều, ai ai cũng trong đợi có sự thay đổi,
chính là lúc thuận tiện để đuổi quân Thát tử, lấy lại giang sơn. Năm xưa
Dương giáo chủ còn tại thế, ngày đêm nghĩ chuyện hưng phục, có điều bản
giáo xưa nay hành sự lệch lạc, hơn trăm năm qua gây oán chuốc thù vớ võ lâm
Trung Nguyên, thành ra khó mà cùng nhau nắm tay giết giặc. Thế nhưng trời
thương đưa Trương giáo chủ lên coi sóc giáo vụ, oán thù với các phái tạm cởi
phần nào, chính là thời cơ đồng tâm hiệp lực, cùng nhau chống lại Hồ Lỗ.
Chu Điên nói: -Dương tả sứ, lời của ông nghe ra thì không sai. Có điều chỉ là
nói chơi cho vui, cũng thật tào lao cán cuốc.
Dương Tiêu nghe rồi không nổi giận, chỉ nói: -Vậy xin được Chu huynh chỉ
giáo.
Chu Điên nói: -Trên giang hồ ai cũng đồn là Minh giáo chúng ta giết sạch cao
thủ các môn phái, chỉ nghe hai chữ “Minh giáo” là người ta đã giận thấu
xương, lấy gì mà “đồng tâm hiệp lực, khu trừ Hồ Lỗ” cho được? Nói ra thì nghe
hay lắm, nhưng làm sao mà thực hành?
Dương Tiêu nói: -Chúng mình tuy bị mang tiếng xấu, nhưng thực ra mình sáng
như ban ngày, huống chi lại có Trương chân nhân minh chứng điều đó.
Chu Điên cười nói: -Nếu quả như mình có giết bọn Tống Viễn Kiều, Diệt Tuyệt
lão ni, Hà Thái Xung thì Trương chân nhân cũng bị đánh lừa luôn, lấy gì mà
làm chứng cho được?
Thiết Quan đạo nhân quát lên: -Chu Điên, trước mặt Trương chân nhân và
giáo chủ, không được nói lếu nói láo.
Chu Điên le lưỡi nhưng không nói gì thêm. Bành Oánh Ngọc nói: -Lời của Chu
huynh cũng không phải là hoàn toàn vô lý. Cứ như ý của bần tăng, chúng ta
nên triệu tập một đại hội Minh giáo các thủ lãnh khắp nơi, nói rõ ý của Trương
giáo chủ muốn thân thiện với các môn phái. Ngoài ra nhiều người sự việc cũng
rõ ràng hơn, để xem Tống đại hiệp, Diệt Tuyệt sư thái các người ở đâu, trong
đại hội cũng có thể tra cứu được.
Chu Điên nói: -Muốn biết tung tích Tống đại hiệp thật là quá dễ, có thể nói là
như thổi tro trong bếp.
Mọi người nhao nhao hỏi: -Sao thế? Sao không nói sớm?
Chu Điên dương dương đắc ý, uống một chén rượu nói: -Chỉ cần giáo chủ lại
hỏi Triệu cô nương một câu, ít ra mười phần cũng biết được đến chín. Tôi dám
nói là những người đó không bị cô ta giết thì cũng bị cô ta bắt rồi.
Hơn hai tháng qua, Vi Nhất Tiếu, Dương Tiêu, Bành Oánh Ngọc, Thuyết Bất
Đắc cả bọn chia nhau ra xuống núi dò tìm tông tích, lai lịch Triệu Mẫn, nhưng
từ sau hôm nàng đến cửa quan cùng Trương Vô Kỵ đập tay thề thốt đến nay,
không biết cả bọn họ đi đâu mất tăm, ngay những thủ hạ đông đảo thế mà
cũng không tìm đâu ra một chút dấu vết nào. Quần hào ai nấy suy tính, tin
chắc bọn họ thể nào cũng có liên quan đến triều đình, nhưng ngoài điều đó ra
vẫn không thấy thêm đầu dây mối nhợ khác. Bây giờ lại nghe Chu Điên nói, ai
nấy liền cự ngay: -Ngươi nói mới thật là tào lao. Nếu như tìm ra được cô gái họ
Triệu kia, chẳng lẽ bọn ta không biết dò hỏi chắc?
Chu Điên cười: -Các ngươi tìm không ra là phải, ai mà chẳng biết. Thế nhưng
giáo chủ còn nợ cô ta ba chuyện chưa làm, không lẽ một người ghê gớm như
cô ta lại bỏ qua không hỏi đến? Ha ha, cô gái đó thật là nguyệt thẹn hoa
nhường, thế mà mỗi lần nghĩ đến cô ta là Chu mỗ lại dựng tóc gáy, sợ muốn
chết.
Mọi người nghe y pha trò đều cười ồ lên, nhưng nghĩ lại thì quả là đúng thế.
Trương Vô Kỵ thở dài: -Ta cũng chỉ mong cô ta ra ba nạn đề để hết sức làm
cho xong món nợ, khỏi phải ngày đêm khắc khoải, không biết cô ta còn giở trò
gì quái đản nữa không. Bành đại sư vừa đưa ý kiến bản giáo triệu tập thủ lãnh
các nơi, việc này xem ra nên lắm, các vị có ý gì không?
Quần hào đều đáp: -Nên lắm. Mình ở trên núi Võ Đương ngồi không cũng
chẳng làm được việc gì.
Dương Tiêu nói: -Giáo chủ nghĩ xem mình nên tập họp ở đâu cho phải?
Trương Vô Kỵ suy nghĩ một hồi, nói: -Bản nhân hôm nay đảm nhiệm chức vị
giáo chủ, vẫn thường nghĩ đến ân tình của hai vị trong bản giáo. Người thứ
nhất là Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu tiên sinh, lão nhân gia nay đã chết vì
tay Kim Hoa bà bà. Người kia là Thường Ngộ Xuân đại ca, không biết lúc này
đang ở nơi đâu. Tôi nghĩ đại hội kỳ này nên cử hành tại Hồ Điệp Cốc ở Hoài
Bắc.
Chu Điên vỗ tay nói: -Hay lắm, hay lắm. Cái lão Kiến Tử Bất Cứu năm xưa tôi
vẫn hay cãi nhau với hắn, cũng không đến nỗi tệ hại, chỉ phải cái tính khí thất
thường, so với Dương tả sứ thì cũng cá mè một lứa. Y thấy chết không cứu,
thành ra lúc y chết cũng chẳng ai cứu cho, đúng là báo ứng. Chu Điên này
cũng muốn đến trước mộ y rập đầu vài cái.
Quần hào không ai còn ý gì khác, qui định hơn ba tháng nữa nhằm tháng tám
Trung Thu, tất cả các thủ lãnh của Minh giáo cùng đến nơi nhà cũ của Hồ
Thanh Ngưu ở Hồ Điệp Cốc tại Hoài Bắc tụ hội.
Sáng sớm hôm sau, các cấp của Ngũ Hành Kỳ và Thiên Ưng Kỳ chia nhau ra đi
từ núi Võ Đương truyền hiệu lệnh của giáo chủ:
Các lộ giáo chúng, từ hương chủ trở lên hãy giao lại giáo vụ cho người phụ tá
đảm trách, đến Hồ Điệp Cốc tại Hoài Bắc trước ngày Trung Thu tháng tám để
tham kiến tân giáo chủ.
Từ nay đến ngày Trung Thu còn xa, Trương Vô Kỵ thấy Du Đại Nham và Ân Lê
Đình bệnh tình chưa khỏi hẳn, sợ thương thế nếu như trở lại thì thật phí bao
công phu, nên tạm ở lại núi Võ Đương lo lắng cho hai vị Du Ân, khi rảnh rỗi thì
học hỏi Trương Tam Phong thêm về Thái Cực Quyền, Thái Cực Kiếm. Vi Nhất
Tiếu, Bành Oánh Ngọc, Thuyết Bất Đắc thì đi du hành các nơi, thám thính
tung tích của Triệu Mẫn.
Dương Tiêu theo lệnh giáo chủ ở lại núi Võ Đương, thế nhưng vì chuyện Kỷ
Hiểu Phù, đối với Ân Lê Đình có phần bẽ mặt, bình thời chỉ đóng cửa đọc sách,
chẳng mấy khi rời khỏi phòng một bước. Cứ thế đến hơn hai tháng, một buổi
chiều, Trương Vô Kỵ đến gặp Dương Tiêu bàn về những việc cần phải truyền
xuống các giáo chúng trong đại hội sắp tới tại Hồ Điệp Cốc. Chàng tuổi trẻ,
kiến thức nông cạn, bỗng dưng phải đảm trách trọng nhiệm, thường vẫn lo
ngay ngáy, chỉ sợ thất thố làm hư đại sự. Dương Tiêu thông hiểu giáo vụ nên
Trương Vô Kỵ giữ lại bên cạnh, có việc gì thì hỏi.
Hai người nói chuyện một lát, Trương Vô Kỵ thuận tay cầm một cuốn sách trên
bàn của Dương Tiêu lên, thấy trên bìa có viết bảy chữ tựa đề “Minh Giáo Lưu
Truyền Trung Thổ Ký”, bên dưới có một hàng chữ nhỏ “Đệ Tử Quang Minh Tả
Sứ Dương Tiêu cung soạn”. Trương Vô Kỵ nói: -Dương tả sứ, ông văn võ toàn
tài, thật là rường cột của bản giáo.
Dương Tiêu chắp tay: -Đa tạ giáo chủ khen ngợi.
Trương Vô Kỵ mở sách ra, thấy viết bằng chữ nhỏ theo lối khải, mọi việc đều
dẫn chứng sách vở rõ ràng. Trong sách kể lại minh bạch, Minh giáo nguyên từ
nước Ba Tư, tên thật là Ma Ni giáo, truyền vào Trung thổ từ Diên Tải nguyên
niên, đời Đường Võ Hậu. Thời đó người Ba Tư tên là Phí Đa Diên mang bộ Tam
Tông Kinh của Minh giáo đến triều, là lần đầu tiên người Trung Quốc biết đến
bộ kinh này. Ngày hai mươi chín tháng sáu năm thứ ba đời Đại Lịch nhà
Đường, chùa Minh giáo Đại Vân Quang Minh được xây cất tại Lạc Dương,
Trường An. Sau đó tại các thị trấn lớn như Thái Nguyên, Kinh Châu, Dương
Châu, Hồng Châu, Việt Châu cũng đều có Đại Vân Quang Minh tự. Tới năm
Hội Xương thứ ba, triều đình ra lệnh giết giáo đồ, thế lực Minh giáo đại suy. Từ
đó về sau, Minh giáo trở thành một tôn giáo bí mật, phạm cấm, đời nào cũng
bị quan phủ truy lùng giết chóc. Để có thể sinh tồn, người trong Minh giáo
không thể không hành sự ngụy bí, để rồi chữ Ma trong Ma Ni bị đổi thành Ma,
đồng nghĩa với tà ma, người ngoài gọi là ma giáo.[4]
Trương Vô Kỵ đọc đến đoạn này, không khỏi thở dài, nói: -Dương tả sứ, giáo
chỉ của bản giáo nguyên là làm điều thiện, trừ điều ác, cùng với đạo Phật
chẳng khác bao nhiêu, vậy mà từ đời Đường đến giờ, đời nào sao cũng bị giết
hại thảm họa?
Dương Tiêu nói: -Người trong Thích đạo tuy nói phổ độ chúng sinh, nhưng
tăng chúng xuất gia đều cố giữ thanh tu, không để ý đến chuyện đời. Đạo gia
cũng thế. Còn bản giáo tụ tập lương dân, bất luận ai gặp nguy nan khốn khổ
thì mọi giáo chúng đều ra tay giúp đỡ. Quan phủ áp bức dân lành, có đời nào
ít đâu? Có vùng nào ít đâu? Nếu có người nào bị quan phủ ức hiếp, oan khuất,
bản giáo liền đứng ra chống lại.
Trương Vô Kỵ gật đầu: -Chỉ khi nào triều đình, quan lại không còn áp bức dân
lành, thổ hào ác bá không còn hoành hành vô phép tắc, đến lúc ấy bản giáo
mới có thể hưng vượng được.
Dương Tiêu vỗ bàn đứng dậy, lớn tiếng nói: -Lời của giáo chủ quả thật nói lên
được tôn chỉ gốc rễ của bản giáo.
Trương Vô Kỵ nói: -Dương tả sứ, ông xem có một ngày nào được như thế
chăng?
Dương Tiêu trầm ngâm một hồi lâu rồi nói: -Cũng chỉ mong được một ngày
như thế. Phương Lạp, Phương giáo chủ của bản giáo đời Tống khởi sự cũng
chỉ vì muốn quan lại không áp bức dân lành mà thôi.
Y lật quyển sách chỉ vào đoạn chép về giáo chủ Minh giáo Phương Lạp tại
Chiết Đông nổi lên, chấn động thiên hạ. Trương Vô Kỵ đọc xong trầm ngâm,
gập sách lại nói: -Đại trượng phu cố nhiên phải như thế. Tuy Phương giáo chủ
tuẫn nạn, thân vong nhưng cũng làm nên một sự nghiệp thật là oanh liệt.
Hai người cùng một lòng, không nói mà nhiệt huyết nổi lên bừng bừng.
Dương Tiêu lại nói: -Bản giáo đời nào cũng bị nghiêm cấm, thế nhưng thủy
chung vẫn đứng được mà không sụp đổ. Năm Thiệu Hưng thứ tư đời Nam
Tống có một viên quan tên là Vương Cư Chính gửi lên hoàng đế một đạo tấu
chương, nói về việc của bản giáo, giáo chủ có thể xem qua.
Nói rồi lật cuốn sách đến đoạn sao lục tấu chương của Vương Cư Chính.
Trương Vô Kỵ đọc thấy trong đó viết như sau:
“Thần thấy hai huyện Chiết Châu có tập tục ăn rau phụng thờ ma vương.
Trước đời Phương Lạp, pháp cấm còn lỏng, mà việc tôn thờ ma quỉ chưa đến
nỗi mạnh. Phương Lạp chết rồi, pháp cấm càng nghiêm, nhưng việc thờ ma lại
càng mạnh không trừ nổi … Thần nghe nói rằng kẻ thờ ma, mỗi làng mỗi xóm
có một hai tên kiệt hiệt, gọi là ma đầu, xem hết các tên họ trong thôn, đều có
thề thốt gia nhập ma đảng. Kẻ thờ ma không ăn thịt. Một nhà có chuyện gì,
tất cả đồng đảng đều đến giúp đỡ. Vì chưng chúng không ăn thịt nên giảm chi
tiêu, mà giảm chi tiêu nên dễ đầy đủ. Cùng một đảng nên thân lẫn nhau, thân
lẫn nhau nên có chuyện gì dễ giúp nhau …”
Trương Vô Kỵ đọc đến đây nói: -Gã Vương Cư Chính này tuy là cừu địch nhưng
quả biết rằng giáo chúng trong bản giáo sống tiết kiệm, giản phác, tương thân
tương ái.
Chàng lại đọc tiếp đoạn sau của tấu chương:
” … vì thế thần cố theo đạo của tiên vương để làm cho dân tương thân, tương
hữu, tương trợ. Cốt sống đạm bạc, dạy dân tiết kiệm, khuyến khích lối sống
giản dị. Nay làm kẻ dẫn dắt nhân dân, nên không thể không lấy đó làm cách trị
dân. Thế nhưng những ma đầu đã trộm cái cách của triều đình để khuyến dụ
dân chúng rồi, nên người người đều ca tụng đạo ma, đi trợ giúp tà thuyết.
Dân ngu không biết gì cả, nghe lời ma, thờ đạo ma, dễ đủ ăn, dễ trợ giúp,
thành ra những gì ma đầu nói ra đều tin, tất cả đều theo về với chúng. Thành
ra pháp cấm càng nghiêm, thì lại càng không thắng được những điều cấm.”
Chàng đọc đến đây, quay sang nói với Dương Tiêu: -Dương tả sứ, cái câu
“pháp cấm dũ nghiêm, nhi dũ bất khả thắng cấm” chính là rõ ràng nói lên việc
bản giáo được lòng dân chúng. Tả sứ cho tôi mượn bộ sách này để tôi đọc,
hiểu thêm công đức, các việc còn dở dang, cùng di huấn của các vị vãng
thánh tiên hiền trong bản giáo, được chăng?
Dương Tiêu nói: -Chính đang mong được giáo chủ chỉ giáo.
Trương Vô Kỵ cầm quyển sách cất đi, nói: -Du tam bá và Ân lục thúc thương
thế đã đỡ nhiều, ngày mai mình lên đường đi Hồ Điệp Cốc. Tôi còn một việc
muốn bàn với Dương tả sứ, có liên quan đến em Bất Hối.
Dương Tiêu tưởng chàng mở miệng cầu hôn, trong lòng mừng lắm, nói: -Tính
mạng của Bất Hối toàn do giáo chủ ban cho, cha con thuộc hạ cảm ân đâu
phải chỉ mong báo đáp một ngày mà xong. Giáo chủ có điều gì sai bảo cũng
xin vui vẻ tuân theo.
Trương Vô Kỵ bèn đem chuyện Dương Bất Hối hôm trước thổ lộ với mình ra kể
lại từ đầu chí cuối. Dương Tiêu nghe xong, ngạc nhiên quá đỗi đến thừ người
ra, hồi lâu mới nói: -Tiểu nữ được Ân lục hiệp ghé mắt đến, quả thực là may
mắn cho nhà họ Dương biết chừng nào. Có điều hai người tuổi tác chênh lệch,
vai vế kẻ thấp người cao, cái đó … cái đó …
Y ấp úng hai câu “cái đó” rồi không nói thêm được nữa. Trương Vô Kỵ nói: -Ân
lục thúc cũng chưa đến bốn mươi, đang tuổi khỏe mạnh. Bất Hối muội tử có
gọi ông ta một câu “Ân thúc thúc”, nhưng thực ra nào có máu mủ liên quan gì
đâu, sư môn hai bên cũng khác. Hai người nếu tình đầu ý hợp, nếu như thành
được nhân duyên, cái hiềm khích cũ của đời trước nay hoàn toàn xóa sạch,
chính là một mỹ sự rất lớn.
Dương Tiêu vốn dĩ là người khoáng đạt, chỉ vì chuyện của Kỷ Hiểu Phù, mỗi khi
gặp Ân Lê Đình không khỏi sượng sùng, nghĩ thầm nếu như Bất Hối lại thương
ông ta, kết thành tình thân, thì cũng giải quyết được cái khó xử của mình, từ
nay Minh giáo và Võ Đương không còn khúc mắc gì nữa, bèn vái một cái thật
sâu nói: -Giáo chủ ngọc thành chuyện này đủ biết lo lắng cho cha con tôi biết
dường nào. Thuộc hạ xin cảm ơn trước.
Tối hôm đó, Trương Vô Kỵ truyền tin đó ra, quần hào lục tục chúc mừng Ân Lê
Đình. Dương Bất Hối cả thẹn, ẩn ở trong phòng không ló đầu ra. Trương Tam
Phong và Du Đại Nham nghe chuyện đó, lúc đầu cũng hơi kinh ngạc, nhưng
lập tức mừng cho Ân Lê Đình. Nói đến hôn kỳ, Ân Lê Đình nói: -Đợi đại sư ca
và anh em về núi rồi, tất cả đoàn tụ, lúc đó hãy tính đến chuyện vui cũng
không muộn.
Hôm sau Trương Vô Kỵ cùng Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương, Thiết
Quan đạo nhân, Chu Điên, Tiểu Siêu tất cả bọn từ biệt thầy trò Trương Tam
Phong, cùng lên đường đi Hoài Bắc.
Dương Bất Hối ở lại núi Võ Đương phục thị Ân Lê Đình. Thời đó chuyện giao
tiếp nam nữ tuy nghiêm nhặt nhưng họ đều là người trong võ lâm nên cũng
không mấy để ý đến chuyện nhỏ nhặt.
Đoàn người Minh giáo ngày đi đêm nghỉ, theo hướng đông bắc mà đi. Trên
đường đâu đâu cũng thấy đất đai hoang phế, dân chúng đói khổ. Miền duyên
hải vốn là nơi trù phú màu mỡ, nhưng nay người chết đói đầy đường, dân
chúng khốn khó đến cùng cực. Quần hào thương cho nhân dân bị tai kiếp như
thế, biết rằng người Mông Cổ tàn ác khốc liệt ắt không còn có thể ở tại trung
thổ bao lâu nữa, chính là cơ hội tốt để anh hùng hào kiệt đứng lên chống lại.
Hôm đó đi đến Giới Bài Tập, còn cách Hồ Điệp Cốc không bao xa, đang đi trên
đường bỗng nghe tiếng la hét chém giết từ phía trước vọng tới, hai phe nhân
mã đang lúc giao tranh. Quần hào giục ngựa chạy lên, qua khỏi một khu rừng
rậm, thấy khoảng hơn một nghìn lính Mông Cổ chia thành hai bên đang tấn
công một tòa sơn trại. Trên sơn trại phất phới một lá cờ lớn có vẽ hình một
ngọn lửa đỏ đang cháy, chính là cờ của Minh giáo. Trong trại nhân số không
đông, xem chừng đánh không lại nhưng vẫn cố thủ không chịu thua. Quân
Mông Cổ bắn tên như mưa, kêu lớn: -Bọn phản tặc ma giáo kia, mau mau đầu
hàng.
Chu Điên nói: -Giáo chủ, mình tiến lên chứ?
Trương Vô Kỵ đáp: -Phải, mình trước hết tiêu diệt bọn quân quan chỉ huy.
Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương, Chu Điên, Thiết Quan đạo nhân
nghe lệnh xông ra, xông thẳng vào quân địch, trường kiếm tung hoành, hai
tên bách phu trưởng bị chém ngã trước, kế đến tên thiên phu trưởng chỉ huy
đội quân bị Ân Dã Vương một đao giết luôn. Quân Nguyên như rắn mất đầu,
lập tức loạn cả lên.
Người trong sơn trại thấy có tiếp viện ở bên ngoài, lớn tiếng reo hò. Cổng trại
mở ra, một người đàn ông mặt áo đen cầm trường mâu, xông ra trước tiên,
quân Nguyên đều dạt cả ra không ai dám chống đỡ. Chỉ thấy đại hán đó
trường mâu lấp loáng một cái là một tên lính Mông Cổ bị đâm chết, rơi ngay
xuống ngựa. Quân Nguyên kinh hoảng hô hoán luôn mồm, chạy tứ tán.
Bọn Dương Tiêu thấy thanh niên đó uy phong lẫm lẫm, chẳng khác gì tướng
nhà trời, ai nấy đều tấm tắc khen ngợi: -Quả thực là một tướng quân anh
hùng.
Lúc này Trương Vô Kỵ đã nhìn rõ diện mạo viên tướng đó, chính là đại ca
Thường Ngộ Xuân, người mà chàng hằng mong nhớ. Chỉ hiềm đang lúc giao
tranh, không tiện tiến lên gặp nhau. Người của Minh giáo trước sau giáp công,
quân Nguyên chết đến năm sáu trăm người, còn lại không dám ham đánh tiếp,
chia nhau ra tìm đường chạy.
Thường Ngộ Xuân cầm ngang ngọn giáo cười lớn, hỏi: -Anh em ở lộ nào đến
tương trợ đó? Thường mỗ thật là cảm kích.
Trương Vô Kỵ kêu lên: -Thường đại ca, có nhớ tiểu đệ chăng?
Chàng tung mình chạy lên, nắm chặt lấy tay y. Thường Ngộ Xuân khom lưng
phục xuống lạy, nói: -Giáo chủ huynh đệ, ta tuy là đại ca thực nhưng lại là
thuộc hạ của người, quả thực sung sướng không để đâu cho hết.
Thì ra Thường Ngộ Xuân thuộc về Ngũ Hành Kỳ, do Cự Mộc Kỳ cai quản. Việc
Trương Vô Kỵ tiếp nhiệm giáo chủ ra sao đã được chưởng kỳ sứ Văn Thương
Tùng cho biết rồi. Từ đó đến nay, y cùng anh em dưới quyền ngày ngày trông
ngóng Trương Vô Kỵ, không ngờ quân Nguyên lại tiến đến vây đánh. Thường
Ngộ Xuân thấy mình thế ít không đánh lại số đông, cố ý làm như khiếp sợ, dụ
quân Nguyên vào trại sau đó sẽ xông ra tiêu diệt. Thế nhưng Trương Vô Kỵ và
đồng bọn đến tiếp ứng, y liền thừa thế mở cổng xông ra. Y ở trong Minh giáo
chức vị không cao, cho nên liền quay sang chào Dương Tiêu, Ân Thiên Chính
tất cả mọi người. Quần hào thấy y là anh em kết nghĩa của giáo chủ, không ai
dám tỏ vẻ bề trên, chắp tay hỏi thăm, đãi y cực kỳ lễ mạo.
Thường Ngộ Xuân mời tất cả vào trong, giết dê mổ bò, mở một tiệc rượu kể lại
hết mọi sự tình. Mấy năm qua Hoài Nam, Hoài Bắc bị hạn hán liên tiếp, dân
chúng khổ sở không sao kể xiết. Thường Ngộ Xuân không cách gì sinh nhai,
liền tụ tập một số anh em, làm trò lục lâm thảo khấu sống cũng thoải mái.
Trong sơn trại lương thực tiền bạc kha khá liền đem ra cứu tế chẩn bần. Quân
Nguyên mấy lần tiến đánh đều không làm được gì.
Cả bọn nghỉ lại sơn trại một đêm, hôm sau cùng Thường Ngộ Xuân tất cả đi
Hoài Bắc, liệu rằng quân Nguyên mới thua xong, trong vòng một vài tháng
chưa thể nào lại tấn công lần nữa.
Vài ngày sau họ đến bên ngoài Hồ Điệp Cốc. Những giáo chúng đến trước
nghe tin giáo chủ giá lâm, xếp thành hàng ra khỏi sơn cốc nghênh tiếp. Lúc đó
Cự Mộc Kỳ đã ra lệnh cho anh em dưới trướng xây dựng một số nhà lá nhà gỗ
trong Hồ Điệp Cốc để cho các lộ giáo chúng có chỗ nghỉ ngơi. Vi Nhất Tiếu,
Bành Oánh Ngọc, Thuyết Bất Đắc đã tới đây từ trước, bẩm rằng chưa tìm ra
được tin tức gì về Triệu cô nương cả.
Trương Vô Kỵ tiếp các lộ giáo chúng xong, chuẩn bị tế phẩm, đến mộ vợ chồng
Hồ Thanh Ngưu và Kỷ Hiểu Phù thắp hương, nghĩ đến năm xưa lúc ra đi khỏi
Hồ Điệp Cốc thê thảm bực nào, còn nay quay trở lại vinh hiển xiết bao, phong
quang vô hạn, chẳng khác nào ở một kiếp khác.
Ba ngày sau là đúng ngày rằm tháng tám, trong Hồ Điệp Cốc xây một đài cao,
bên trên đốt một ngọn lửa bừng bừng. Trương Vô Kỵ lên đài tuyên bố từ nay
xóa bỏ hết các tị hiềm từ trước với các môn phái trung nguyên, cùng ý muốn
phản Nguyên kháng Hồ, lại ban bố trở lại giáo qui tôn chỉ hành thiện khử ác,
trừ bạo an dân. Các giáo chúng cùng đứng lên, người nào cũng đốt hương
cầm trên tay, thề tuân hành lệnh chỉ của giáo chủ quyết không vi phạm.
Hôm đó trên đài lửa bốc ngất trời, khói hương mù mịt, từ xưa tới nay chưa có
thời nào Minh giáo thịnh vượng như hôm nay. Các giáo chúng có tuổi thấy khí
thế đó, nghĩ đến mấy chục năm nay chia năm xẻ bảy, mấy lần tưởng như sụp
đổ đến nơi, mừng quá nhịn không nổi khóc òa lên.
Quá trưa giáo chúng thuộc hạ đến bẩm báo: -Hạ thuộc Hồng Thủy Kỳ là bọn
Chu Nguyên Chương, Từ Đạt xin cầu kiến.
Trương Vô Kỵ mừng lắm, đích thân đi ra cửa đón chào. Chu Nguyên Chương,
Từ Đạt cùng bọn Thang Hòa, Đặng Dũ, Hoa Vân, Ngô Lương, Ngô Trinh cung
kính đứng ở ngoài cổng, trông thấy Trương Vô Kỵ đi ra, tất cả đều khom lưng
hành lễ, nói: -Tham kiến giáo chủ.
Trương Vô Kỵ vẫn thường nhớ đến ơn cứu mạng năm xưa của Từ Đạt, thấy cả
bọn mừng không để đâu cho xiết. Lập tức hoàn lễ, tay trái dắt Chu Nguyên
Chương, tay phải nắm Từ Đạt cùng tiến vào trong nhà cùng tất cả ngồi xuống.
Mọi người ai nấy xin lỗi rồi mới dám ngồi.
Khi đó Chu Nguyên Chương đã hoàn tục, không còn ăn mặc theo lối nhà sư,
nói: -Bọn thuộc hạ phụng lệnh chỉ của giáo chủ, đi đến Hồ Điệp Cốc, vốn định
tới sớm để nghe sai bảo, ngờ đâu giữa đường gặp một chuyện cực kỳ quái lạ,
bọn thuộc hạ vội vàng đi theo tra cứu khiến cho lỡ mất hội kỳ, xin được giáo
chủ tha tội cho.
Trương Vô Kỵ hỏi: -Không biết anh em gặp chuyện gì thế?
Chu Nguyên Chương đáp: -Thượng tuần tháng sáu, chúng tôi nhận được lệnh
chỉ của giáo chủ, cả bọn cực kỳ hoan hỉ, anh em đều bàn tính phải đi kiếm
món lễ vật gì để mừng giáo chủ. Đất Hoài Bắc đang khổ cực, chẳng có món gì
đáng giá, cũng may kỳ hội còn xa, anh em liền lên đường đi Sơn Đông một
chuyến. Anh em chúng tôi ngoại rằng quan quân nhận ra được nên giả làm
bọn đánh xe lừa, thuộc hạ đóng vai đầu sỏ. Đến phủ Qui Đức, tỉnh Hà Nam
chúng tôi gặp một bọn khách thuê xe đi Hà Trạch, Sơn Đông, đi giữa đường,
đột nhiên có một bọn người chặn lại, vung đao giơ thương cực kỳ dữ dằn, đuổi
hết những người khách trong xe xuống, bảo bọn tôi đi chở khách khác. Lúc đó
Hoa huynh đệ đã toan cự lại, Từ huynh đệ liền đưa mắt cho y, bảo y xem rõ
tình hình rồi có động thủ cũng chưa muộn. Bọn đó dẫn cả chín cái xe chúng
tôi tới một hẻm núi, nơi đó cũng đã có sẵn hơn chục cái xe lớn chờ rồi, thế
nhưng ngồi dưới đất lại toàn là sư sãi.
Trương Vô Kỵ hỏi lại: -Toàn là sư sãi?
Chu Nguyên Chương đáp: -Đúng thế. Những hòa thượng đó ai nấy ủ rũ, dáng
điệu uể oải, nhưng trong đó có vài người hình dáng không phải tầm thường,
người thì thái dương huyệt nổi cao, người thì cao lớn vạm vỡ. Từ huynh đệ liền
nói nhỏ cho tôi biết những nhà sư này ai nấy đều võ nghệ cao cường. Bọn
người hung ác kia bảo các hòa thượng ngồi lên xe, rồi bắt chúng tôi đi về
hướng bắc. Thuộc hạ nghĩ rằng bên trong ắt có gì khác lạ, nên lén dặn các
anh em phải đề phòng, tuyệt đối không được làm lộ hình tích. Trên đường đi
anh em chúng tôi cố lắng nghe bọn người hung ác kia nói những gì, nhưng
bọn đó giữ thật là kín đáo, trước mặt chúng tôi không nói nửa câu. Về sau Ngô
Lương huynh đệ thu hết can đảm, nửa đêm mò đến gần cửa sổ nghe trộm,
liên tiếp bốn năm đêm, mới dò ra được chút đầu mối, thì ra các nhà sư đó đều
ở chùa Thiếu Lâm tại Tung Sơn tỉnh Hà Nam.
Trương Vô Kỵ vốn đã đoán được đôi phần, nhưng cũng “A” lên một tiếng.
Chu Nguyên Chương kể tiếp: -Ngô Lương huynh đệ lại nghe một trong những
gã hung ác kia nói: “Chủ nhân quả thực thần cơ diệu toán, khiến cho ai cũng
bái phục. Các cao thủ Thiếu Lâm, Võ Đương sáu môn phái đều lọt vào tay ta
hết, từ xưa tới nay đã ai làm được thế bao giờ đâu?”. Lại một người khác nói:
“Cái đó cũng chưa lấy làm lạ. Nhất tiễn song điêu, cái hay là làm cho các ma
đầu của ma giáo cũng bị quàng vào trong”. Anh em bảy người chúng tôi giả vờ
xuất cung[5], ở bên ngoài nhà xí nho nhỏ bàn tính, nếu như việc này có dính
cả bản giáo vào trong may sao anh em mình lại biết, thì phải tra xét cho ra
ngành ra ngọn, để trình lên cho giáo chủ biết.
Trương Vô Kỵ nói: -Các vị tính vậy phải lắm.
Chu Nguyên Chương nói: -Bọn chúng tôi tiếp tục đi lên miền bắc, càng làm ra
vẻ ngu ngốc khờ khạo. Thanh Hòa huynh đệ và Đặng Dũ huynh đệ giả vờ
tranh nhau năm tiền, tay chân quờ quạng đánh lẫn nhau, rõ ràng chẳng biết tí
võ công nào. Bọn hung ác kia vỗ tay cười ha hả, không còn để ý gì đến chúng
tôi. Chúng tôi lại luôn mồm lão gia, cung kính hầu hạ chúng, nịnh bợ đủ điều.
Ngô Trinh huynh đệ đã tính đi kiếm một loại thuốc mê nào đó giữa đường cho
chúng uống ngã lăn ra, cứu các hòa thượng Thiếu Lâm. Thế nhưng tôi suy
nghĩ rồi, việc này đầu dây mối nhợ mình hoàn toàn chưa biết, xem ra bọn
hung nhân này đều tinh minh, kỹ lưỡng, võ công cao cường, lỡ như đánh rắn
không xong, động ổ động hang, lại làm hỏng hết đại sự cho nên không dám hạ
thủ. Đến phủ Hà Gian, lại gặp sáu cái xe lớn, cũng có người áp giải, nhưng
trong xe toàn là tục gia nhân. Trong khi ăn cơm, tôi nghe một nhà sư chùa
Thiếu Lâm chào một người mới đến là: “Tống đại hiệp cũng ở đây ư?”.
Trương Vô Kỵ đứng bật dậy, hỏi dồn: -Y nói là Tống đại hiệp ư? Người đó hình
dáng thế nào?
Chu Nguyên Chương đáp: -Người đó thân hình cao gầy, độ năm sáu chục tuổi,
ba chòm râu dài, tướng mạo thật là thanh nhã.
Trương Vô Kỵ nghe thấy đúng là hình dáng Tống Viễn Kiều, vừa mừng vừa lo,
hỏi thêm hình mạo những người khác, quả nhiên Du Liên Châu, Trương Tùng
Khê, Mạc Thanh Cốc cũng trong số đó nên hỏi tiếp: -Những người đó đều bị
thương hay sao? Hay là chân tay bị xiềng bằng xích sắt?
Chu Nguyên Chương đáp: -Không bị xiềng xích gì cả, cũng không thấy có
thương tích, ăn uống nói năng không khác gì người bình thường, chỉ có tinh
thần uể oải, đi đứng thì lảo đảo. Vị Tống đại hiệp kia nghe nhà sư Thiếu Lâm
hỏi thế, chỉ đành cười gượng, không trả lời. Nhà sư toan hỏi thêm gì nữa, kẻ
hung ác áp giải liền đến tách hai người ra. Sau đó hai bên cách xa nhau đến
hơn chục dặm, không cùng ăn cùng ngủ, thành ra bọn thuộc hạ cũng không
còn gặp lại nhóm Tống đại hiệp kia nữa. Ngày mồng ba tháng bảy, chúng tôi
đưa quần tăng phái Thiếu Lâm đến Đại Đô[6].
Trương Vô Kỵ kêu lên: -Ồ, đến Đại Đô, quả nhiên là triều đình hạ độc thủ, về
sau thế nào?
Chu Nguyên Chương đáp: -Bọn người hung ác dẫn chúng tôi đưa những nhà
sư Thiếu Lâm đến một ngôi chùa lớn ở phía tây, bảo chúng tôi ngủ lại trong
đó.
Trương Vô Kỵ nói: -Cái miếu đó tên là gì?
Chu Nguyên Chương đáp: -Khi thuộc hạ vào chùa có ngửng đầu lên nhìn biển
ngạch, thấy tên là Vạn An Tự, nhưng cũng vì nhìn mà bị ngay một tên hung ác
quất cho một roi. Đêm đó anh em chúng tôi lén bàn nhau, bọn người hung ác
kia thể nào cũng phải sát nhân diệt khẩu, không tha mình đâu nên trời tối lập
tức chúng tôi trốn đi ngay.
Trương Vô Kỵ nói: -Sự tình quả là hung hiểm, cũng may bọn hung ác kia
không đuổi theo.
Thang Hòa mỉm cười: -Chu đại ca cũng đã tính đến nước đó, nên đã sắp đặt
sẵn mọi việc. Chúng tôi đi đến các hãng xe lừa ở gần đó bắt bảy tên phu xe,
đổi y phục cho bọn họ, sau đó giết luôn cả bảy người trong miếu, mặt mũi
đâm chém bầy nhầy, không để cho bọn người hung ác kia nhìn ra được. Sau
đó lại giết hết tất cả các phu xe đi cùng, tiền bạc rắc khắp nơi làm như hai bọn
tranh nhau tiền bạc giết nhau vậy. Có thế bọn hung nhân quay lại mới khỏi
nghi.
Trương Vô Kỵ trong lòng kinh hãi, chỉ thấy Từ Đạt mặt tỏ vẻ bất nhẫn, Đặng
Dũ hơi có vẻ xấu hổ, Thanh Hòa nói vẻ mặt đắc ý dương dương, chỉ một Chu
Nguyên Chương bình thản làm như không có gì xảy ra cả. Trương Vô Kỵ nghĩ
thầm: “Bọn này ra tay độc ác thật, thật là những tay ghê gớm”. Chàng bèn
nói: -Kế đó của Chu đại ca tuy hay thật, nhưng từ nay về sau, chúng ta không
nên lạm sát người vô tội.
Đây là huấn dụ của giáo chủ, bọn Chu Nguyên Chương nhất tề đứng lên,
khom lưng nói: -Cẩn tôn giáo chủ lệnh chỉ.
Về sau Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Đặng Dũ, Thang Hòa hành quân giao
chiến, quả nhiên tuân theo lệnh của Trương Vô Kỵ, không dám giết người bừa
bãi, khiến cho dân tâm qui thuận, làm nên đại nghiệp một đời.
Trương Vô Kỵ nói: -Bảy vị của Chu đại ca thám thính được tin tức cao thủ các
phái Thiếu Lâm, Võ Đương, công này thật không nhỏ. Đợi sắp đặt xong việc
kháng Nguyên khởi nghĩa rồi, chúng ta sẽ đi Đại Đô một chuyến để cứu các
người đó ra.
Chàng bàn công việc chung xong, lại cùng bọn Từ Đạt nói chuyện riêng, đến
việc năm xưa ăn trộm bò của Trương viên ngoại, cả bọn cùng cười ha hả.
Đêm hôm đó, Trương Vô Kỵ tập họp tất cả giáo chúng, đốt lửa thắp hương,
tuyên cáo các nơi đều cùng nổi dậy, chung sức kháng lại Nguyên triều, các lộ
giáo chúng phải đỡ đần nhau, khiến cho quân Nguyên phải đôn đáo bôn ba
việc lớn ắt sẽ thành.
Sau đó định ra phương sách, giáo chủ Trương Vô Kỵ cùng Quang Minh tả sứ
Dương Tiêu, Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu chấp chưởng tổng đàn làm
tổng soái cho toàn giáo.
Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính chỉ huy giáo chúng trong Thiên Ưng Kỳ
khởi sự tại Giang Nam.
Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thang Hòa, Đặng Dũ, Hoa Vân, Ngô Lương, Ngô
Trinh cùng với nhân mã của Thường Ngộ Xuân cùng Tôn Đức Nhai tại Hào
Châu, Hoài Bắc khởi binh.
Bố đại hòa thượng Thuyết Bất Đắc tất lãnh Hàn Sơn Đồng, Lưu Phúc Thông,
Đỗ Tôn Đạo, La Văn Tố, Thịnh Văn Úc, Vương Hiển Trung, Hàn Hiệu Nhi khởi
binh tại Dĩnh Châu, Hà Nam.
Bành Oánh Ngọc tất lãnh Từ Thọ Huy, Trâu Phổ Vượng, Minh Ngũ khởi sự tại
các châu Cám, Nhiêu, Viên, Tín vùng Giang Tây.
Thiết Quan đạo nhân tất lãnh Bố Tam Vương, Mạnh Hải Mã tại các vùng
Tương, Sở, Kinh Tương khởi binh.
Chu Điên tất lãnh Chi Ma Lý, Triệu Quân Dụng tại Từ, Tú, Phong, Bái khởi sự.
Lãnh Thiêm cùng các giáo chúng miền Tây Vực, ngăn chặn và chia cắt các đội
quân tiếp viện của Mông Cổ từ Tây Vực đến Trung Nguyên.
Ngũ Hành Kỳ thuộc về quyền điều khiển của tổng đàn, nơi nào gặp nguy thì
tới đó cứu viện.
Phương sách xếp đặt đó, mười phần đến chín là do Dương Tiêu và Bành Oánh
Ngọc đưa ra. Trương Vô Kỵ công bố ra rồi, giáo chúng reo hò vang động.
Trương Vô Kỵ nói: -Chỉ dựa vào sức của một mình bản giáo mà thôi, khó mà có
thể lay chuyển được cơ nghiệp đã có hàng trăm năm của Nguyên triều. Do đó
cần phải liên lạc với anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, chung sức lo toan mới
mong thành công được. Hiện nay các nhân vật đầu não của võ lâm Trung
Nguyên đều bị triều đình bắt giữ cả, tổng đàn phải tìm cách cứu ra trước.
Ngày mai các anh em rẽ đi ra khắp nơi, gặp cơ hội thì cứ việc giết quân Thát
tử, tổng đàn lập tức đi Đại Đô cứu người trước. Hôm nay tất cả anh em vui say
một chuyến, sau này không biết đến bao giờ mới gặp lại nhau. Các anh em
cần lấy nghĩa khí làm trọng, đại sự trước hết, quyết không nên tranh quyền
đoạt lợi, tàn sát lẫn nhau, nếu như có ai giở trò bất nghĩa, tổng đàn quyết
không tha thứ.
Mọi người đều lên tiếng đáp ứng: -Lệnh chỉ của giáo chủ quyết không dám vi
phạm.
Tiếng la ó vang cả sơn cốc. Mọi người lập tức trích huyết ăn thề, đốt hương
làm chứng, thà chết không phụ đại nghĩa. Đêm hôm đó trăng sáng vằng vặc,
các lộ giáo chúng ngồi cả dưới đất, các giáo chúng chấp sự tổng đàn đem
bánh nhân chay ra chia cho mọi người. Ai nấy thấy bánh tròn như mặt trăng
nên gọi là bánh Trung Thu. Về sau người ta truyền tụng người Trung Hoa ăn
bánh Trung Thu để thề giết quân Mông Cổ chính là từ đại hội của Minh giáo
mà ra.
Trương Vô Kỵ lại tuyên bố tiếp: -Bản giáo từ đời trước truyền đến nay, không
ăn thịt, không uống rượu. Thế nhưng hiện nay đâu đâu cũng tai ương thành
thử gặp gì ăn nấy. Huống chi công việc lớn hàng đầu của anh em ta là khu trừ
Thát tử, nếu không ăn thịt cá tinh thần không đủ mạnh, khó có đủ sức chiến
đấu. Từ nay trở đi, bãi bỏ qui luật không ăn thịt, không uống rượu trong bản
giáo. Chúng ta lập thân xử thế lấy đại tiết làm trọng, ẩm thực cấm kỵ chỉ là
thứ yếu.
Cũng từ đó bánh Trung Thu giáo chúng Minh giáo có làm nhân thịt.
Sáng sớm hôm sau, các lộ giáo chúng cáo biệt Trương Vô Kỵ. Ai nấy tuy đều là
hào kiệt khẳng khái, nhưng nghĩ đến mai này chiến đấu nơi nơi, biết ai còn ai
mất, đại sự nếu như thành, người có mặt hôm nay tại đại hội Hồ Điệp Cốc e
rằng còn sống chưa đầy một nửa, nên không khỏi quyến luyến khi chia tay.
Lúc đó trước Hồ Điệp Cốc thánh hỏa bốc lên cao, đột nhiên ai đó lớn tiếng hát:
Thiêu đốt thân tàn ta,
Hỏa thánh bốc bừng bừng.
Khi sống có gì vui,
Thì chết có gì khổ?
Lập tức tất cả đều hát theo phụ họa:
Thiêu đốt thân tàn ta,
Hỏa thánh bốc bừng bừng.
Khi sống có gì vui,
Thì chết có gì khổ?
Nguyện hành thiện trừ ác,
Cốt sao cho quang minh.
Bao hỉ lạc bi sầu,
Cũng đều thành cát bụi.
Thương thay cho con người,
Lo buồn sao lắm vậy.
Thương thay cho con người,
Lo buồn sao lắm vậy.
Những câu: “Thương thay cho con người, Lo buồn sao lắm vậy. Thương thay
cho con người, Lo buồn sao lắm vậy.” vang động cả Hồ Điệp Cốc. Quần hào ai
nấy áo mặc trắng tinh, đi tới trước mặt Trương Vô Kỵ khom lưng hành lễ,
ngửng đầu hùng dũng mà đi, không quay đầu nhìn lại. Trương Vô Kỵ nghĩ đến
bao nhiêu dũng sĩ thế này, trong vòng một hai chục năm máu sẽ thấm đầy một
giải Trung Nguyên, nhịn không nổi nước mắt rưng rưng.
Tiếng hát xa dần, tráng sĩ ly tán, Hồ Điệp Cốc mấy hôm qua ồn ào náo nhiệt
nay trở lại vắng lặng như xưa, chỉ còn lại Vi Nhất Tiếu, Dương Tiêu, Chu
Nguyên Chương và vài người khác. Trương Vô Kỵ hỏi kỹ chùa Vạn An tọa lạc
chỗ nào, hình dáng bọn người hung dữ kia ra sao rồi nói: -Chu đại ca, ở một
giải Hào Tứ này đang đại loạn, không nên để lỡ cơ hội khởi sự. Các vị không
cần phải đi theo tôi lên Đại Đô làm gì, thôi mình từ biệt nơi đây.
Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân cả bọn cùng nói: -Xin chúc
giáo chủ mã đáo thành công, bọn thuộc hạ chờ đón tin mừng.
Lập tức bái biệt Trương Vô Kỵ, ra khỏi thung lũng lo việc khởi nghĩa.
Trương Vô Kỵ nói: -Bọn mình cũng đi thôi. Tiểu Siêu, cô có mang xích, đi lại
không tiện, ở lại đây đợi tôi nhé.
Tiểu Siêu rầu rĩ vâng lời, nhưng khi đưa tiễn, đưa đến ba dặm rồi lại thêm ba
dặm nữa, vẫn không chịu chia tay. Trương Vô Kỵ nói: -Tiểu Siêu, cô càng đưa
càng xa, coi chừng lúc về lạc đường đó.
Tiểu Siêu hỏi lại: -Trương công tử lên Đại Đô liệu có gặp Triệu cô nương
chăng?
Trương Vô Kỵ đáp: -Không chừng sẽ gặp đó.
Tiểu Siêu nói: -Nếu công tử gặp cô ấy, có thể nhờ cô ấy giúp em một việc được
không?
Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi: -Cô có chuyện gì muốn nhờ?
Tiểu Siêu nhún vai một cái, đáp: -Công tử mượn Ỷ Thiên kiếm chặt cái dây xích
này, chứ không cả đời em sẽ không được tự do nữa.
Trương Vô Kỵ thấy cô gái thần sắc ủ rũ thật đáng thương, trong lòng không
nỡ, liền nói: -Chỉ sợ cô ta không cho mượn đâu, nhất là lại mượn kiếm đem về
tận đây.
Tiểu Siêu nói: -Thế thì … thế thì, công tử đưa em đến trước mặt cô ấy, nhờ cô
ta dùng kiếm chặt một nhát, có phải hơn không?
Trương Vô Kỵ cười nói: -Nói qua nói lại, chẳng qua cô muốn theo tôi lên Đại Đô
chứ gì? Dương tả sứ, ông xem có đem cô ta theo được không?
Dương Tiêu biết Trương Vô Kỵ đã nói thế là đã có ý cho cô ta theo nên nói: –
Cái đó cũng không sao, việc cơm nước áo quần đã có cô này lo, chỉ có điều
dây xích leng keng sợ người ta chú ý. Đã thế cô ta giả vờ bị bệnh, chỉ ngồi
trên xe, bình thời đừng ra ngoài làm gì.
Tiểu Siêu mừng lắm vội nói: -Đa tạ công tử, đa tạ Dương tả sứ.
Cô quay qua nhìn Vi Nhất Tiếu nói thêm: -Đa tạ Vi pháp vương.
Vi Nhất Tiếu cười: -Sao cô lại cảm ơn tôi là sao? Cô coi chừng tôi mà bệnh trở
lại là hút máu cô đó.
Nói xong nhe hai hàm răng trắng nhởn, giả vờ làm dữ. Tiểu Siêu biết y chỉ
đùa, nhưng cũng không khỏi sợ hãi nói: -Ông … ông đừng dọa tôi.
[1] Tình quen biết từ khi còn bé chơi đùa với nhau
[2] Kim Dung bị lúng túng cố tình sửa lại để câu chuyện hợp lý. Trong bản
mới, Kim Dung cố tình sửa lại hai đoạn, trên núi Võ Đương, Kỷ Hiểu Phù đã có
ý cho Ân Lê Đình biết là mình không còn con gái nữa, rồi khi dẫn Dương Bất
Hối vào Hồ Điệp Cốc, lại nói cô bé chừng tám chín tuổi. Thế nhưng cử chỉ
ngôn ngữ Bất Hối lúc đó vẫn chỉ chừng bốn năm tuổi thôi. (lời người dịch)
[3] Nguyên văn: Kim hạp giáp tầng, Linh cao cữu tàng. Châu hoa trung không,
Nội hữu dược phương. Nhị vật tảo trình quân tử tả hữu, hà lao ưu chi thâm
dã? Duy dĩ vi vật bất túc nhất cố, tứ chi tì bộc, ủy chư trần thổ, khởi tiện thiếp
chi sở vọng da?
[4] Ma trong Ma Ni viết với chữ thủ, Ma trong ma giáo viết với chữ quỉ là con
ma.
[5] Đi cầu, tiếng văn hoa
[6] tức Bắc Kinh, tên gọi đời Nguyên
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.