Ỷ THIÊN ĐỒ LONG KÝ
35. Đồ sư hữu hội thục vi ương
Chẳng qua một chút danh hờ,
Ngoài thì báo oán trong chờ lên ngôi.
Máu đào thấm đất bao người,
Thiếu Lâm trường hận một đời bỏ đi.
Chưởng của Lộc Trượng Khách đánh lén Trương Vô Kỵ đúng ngay lúc chàng
phải dùng toàn lực chống đỡ nội kình của mười tám tên phiên tăng liên thủ ở
đằng trước, thành thử phía sau không có hộ thể thần công che chở. Huyền
Minh hàn độc xâm nhập vào thân bị thương rất nặng, chàng bèn ngồi xếp
bằng vận chuyển Cửu Dương chân khí quanh người ba lần rồi thổ ra hai ngụm
máu bầm mới thấy đỡ tức ngực, mở mắt ra thấy Triệu Mẫn nhìn mình vẻ mặt
hết sức lo lắng.
Trương Vô Kỵ ôn tồn nói: -Triệu cô nương, phen này khiến cô thật khổ sở.
Triệu Mẫn đáp: -Đến giờ này chàng vẫn còn gọi em là “Triệu cô nương” ư? Em
chẳng còn là người của triều đình, cũng không còn là quận chúa, trong lòng
chàng … chàng vẫn coi em là một tiểu yêu nữ hay sao?
Trương Vô Kỵ từ từ đứng lên nói: -Tôi hỏi cô một câu, cô nói thực cho tôi biết,
vết kiếm trên mặt biểu muội Ân Ly của tôi, có phải do cô rạch hay không?
Triệu Mẫn đáp: -Không phải.
Trương Vô Kỵ hỏi: -Thế thì ai đã hạ thủ?
Triệu Mẫn đáp: -Em không thể nói cho chàng hay được. Đến khi nào chàng
gặp Tạ đại hiệp, ông ta sẽ nói cho chàng nghe môi việc.
Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi: -Nghĩa phụ của tôi biết rõ ư?
Triệu Mẫn nói: -Nội thương của chàng chưa khỏi, càng hỏi nhiều càng thêm
rắc rối. Em chỉ nói với chàng một điều, nếu như chàng tra rõ ngọn ngành, Ân
cô nương nếu thực là do em hại, chẳng cần chàng ra tay, em lập tức tự vẫn tạ
tội ngay trước mặt chàng.
Trương Vô Kỵ thấy nàng nói như chém đinh chặt sắt không thể không tin, trầm
ngâm một hồi rồi nói: -Chắc có lẽ trên chiếc thuyền của Minh Giáo Ba Tư có
cao thủ mai phục, nửa đêm thi triển tà pháp xông thuốc cho mình mê đi rồi hại
biểu muội của tôi, sau đó ăn trộm đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên. Cứu được
nghĩa phụ ra xong, chắc phải đi Ba Tư một chuyến, hỏi Tiểu Siêu cho rõ ràng.
Triệu Mẫn dẩu môi cười nói: -Chắc chàng nhớ Tiểu Siêu nên tìm cớ để đi gặp
chứ gì? Em khuyên chàng dưỡng thương là hơn, không nên nghĩ ngợi vẩn vơ,
việc đi lên chùa Thiếu Lâm mới là chuyện chính.
Trương Vô Kỵ lạ lùng: -Đi lên chùa Thiếu Lâm làm gì?
Triệu Mẫn đáp: -Thì để cứu Tạ đại hiệp.
Trương Vô Kỵ lại càng ngạc nhiên hỏi thêm: -Nghĩa phụ của tôi đang ở trên
chùa Thiếu Lâm ư? Sao lại ở chùa Thiếu Lâm nhỉ?
Triệu Mẫn đáp: -Đầu dây mối nhợ bên trong em cũng không biết rõ nhưng Tạ
đại hiệp đang ở trong chùa Thiếu Lâm thì nhất định là đúng. Để em nói cho
chàng hay, dưới tay em có một thủ hạ xuất gia nơi chùa Thiếu Lâm, chính y đã
hi sinh mạng sống để mang tin đó đến cho em.
Trương Vô Kỵ hỏi lại: -Tại sao phải hi sinh mạng sống?
Triệu Mẫn đáp: -Người bộ thuộc đó muốn chứng minh cho em nên tìm cách cắt
một nắm tóc của Tạ đại hiệp. Thế nhưng chùa Thiếu Lâm canh gác Tạ đại hiệp
cực kỳ nghiêm mật, người thủ hạ đó lấy được nắm tóc rồi chạy ra khỏi chùa
nhưng vẫn bị phát giác, thân trúng hai chưởng, gắng gượng đem được đến
cho em chẳng bao lâu thì chết.
Trương Vô Kỵ nói: -Ôi, ghê gớm thật.
Ba chữ “ghê gớm thật” không biết là chàng khen thủ đoạn của Triệu Mẫn hay
là nói về thế cục nguy hiểm. Chàng trong lòng buồn bực làm xáo trộn nội tức
nhịn không nổi lại hộc máu ra. Triệu Mẫn vội nói: -Nếu biết thương thế của
chàng nặng nề, lại dễ khích động như thế, em chẳng nên nói cho chàng nghe
làm chi.
Trương Vô Kỵ ngồi xuống đất, tựa lưng vào một tảng đá cố gắng giữ lòng cho
bình tĩnh để điều tức nhưng trước sau vẫn rối như mớ bòng bong không sao
trấn định được bèn nói: -Không Kiến thần tăng của phái Thiếu Lâm bị nghĩa
phụ anh dùng Thất Thương Quyền đánh chết. Tăng cũng như tục của chùa
Thiếu Lâm hai mươi năm qua thề sẽ báo mối thù này, huống chi Thành Côn lại
xuất gia nơi chùa Thiếu Lâm. Nghĩa phụ anh rơi vào tay họ làm sao còn sống
cho nổi?
Triệu Mẫn nói: -Chàng không phải nóng ruột quá, có một vật có thể cứu được
tính mạng Tạ đại hiệp.
Trương Vô Kỵ vội hỏi: -Vật gì vậy?
Triệu Mẫn đáp: -Bảo đao Đồ Long.
Trương Vô Kỵ suy nghĩ lại liền rõ ngay. Thanh đao Đồ Long được thiên hạ gọi là
“Võ Lâm Chí Tôn”, phái Thiếu Lâm mấy trăm năm qua đứng đầu võ lâm, nên
phải chiếm được thanh đao đó mới cam lòng. Chính vì họ muốn có thanh đao
này nên không giết Tạ Tốn ngay nhưng việc hành hạ chiết nhục chắc không
tránh khỏi.
Triệu Mẫn nói tiếp: -Em nghĩ rằng việc cứu Tạ đại hiệp chỉ nên hai đứa mình bí
mật ra tay thì hơn. Anh hùng hào kiệt trong Minh Giáo tuy đông thật nhưng
nếu tất cả xông lên chùa Thiếu Lâm, hai bên tổn thất chắc sẽ nhiều. Phái
Thiếu Lâm nếu thấy không đương cự nổi với Minh Giáo, không giữ nổi Tạ đại
hiệp không chừng sẽ giết ông ta cũng nên.
Trương Vô Kỵ thấy nàng tính toán chu đáo, trong lòng cảm kích nói: -Mẫn
muội, em nói đúng lắm.
Triệu Mẫn lần đầu tiên được chàng gọi bằng “Mẫn muội”, lòng thấy hết sức ếm
đềm hoan hỉ nhưng nghĩ lại ơn sinh thành dưỡng dục, tình nghĩa anh em từ
nay trôi theo dòng nước không khỏi ngậm ngùi.
Trương Vô Kỵ cũng đoán được tâm sự nàng nhưng không biết khuyên nhủ
cách nào chỉ nghĩ “Nàng từ nay đem thân phó thác cho mình, biết làm thế nào
để báo đáp cái thâm tình hậu ý ấy? Chỉ Nhược có ước định hôn nhân với ta,
làm sao ta phụ nàng được? Ôi, chuyện trước mắt là làm sao tìm cách cứu
nghĩa phụ là quan trọng, còn tình cảm gái trai kia hãy để qua một bên”
Chàng cố gượng đứng lên nói: -Thôi mình đi.
Triệu Mẫn thấy chàng mặt mày nhợt nhạt, biết rằng bị thương rất nặng đôi
lông mày nhíu lại trầm ngâm nói: -Cha em thương em chiều em, không có gì
phải ngại chỉ sợ ca ca không bỏ qua đâu. Chỉ trong vòng hai giờ nữa, thể nào
anh em cũng tìm cách rời phụ thân, phái người đi bắt chúng mình về.
Trương Vô Kỵ gật đầu, thấy Vương Bảo Bảo hành sự quả quyết, là một nhân
vật cực kỳ lợi hại, xem ra không thể dễ dàng xuôi tay, hiện giờ hai người đều bị
thương nặng nếu như đi về hướng tây đến chùa Thiếu Lâm, ắt là đường sá
gian nan thành ra chưa biết tính toán thế nào. Triệu Mẫn nói: -Chúng mình
mau mau rời khỏi chốn nguy hiểm này, đến chân núi rồi hãy tính đường đi.
Trương Vô Kỵ gật đầu, chệnh choạng dắt con ngựa lại, đang định trèo lên chỉ
thấy ngực đau nhói, không sao lên yên được. Triệu Mẫn tay phải dùng sức,
nghiến răng đẩy một cái tống được chàng lên lưng ngựa, nhưng vì dùng sức
quá nhiều vết thương trên ngực do dao găm đâm vào hồi nãy máu lại chảy ra.
Nàng gắng gượng trèo được lên ngựa ngồi phía sau, trước đây vốn là chàng
đỡ nàng bây giờ lại hóa ra nàng phải giơ tay đỡ Trương Vô Kỵ. Hai người thở
hổn hển một hồi lâu mới dám giục ngựa chạy, còn con kia dẫn theo đằng sau
lưng.
Hai người cưỡi chung xuống tới chân núi rồi tính việc đi ra đường lớn, sau đó
sẽ ngoặt qua hướng đông để khỏi phải đụng đầu Vương Bảo Bảo. Đi được một
lát thì đến một con đường nhỏ, lúc đó hai người mới thấy an tâm nghĩ thầm
nếu như Vương Bảo Bảo sai người truy nã, ắt chẳng đời nào lại theo đường
nhỏ mà kiếm, chỉ cần đi đến khi trời tối vào trong núi sâu thì có thể coi như
thoát nạn.
Hai người đang đi bỗng nghe đằng sau có tiếng vó ngựa vang lên, hai con
ngựa ở đâu chạy đến. Triệu Mẫn thất sắc, ôm chặt lấy lưng Trương Vô Kỵ nói: –
Ca ca em đến nhanh thật, thôi mình coi như xong đời, không thể nào thoát
độc thủ của anh ta. Vô Kỵ ca ca, thôi cứ để em theo ca ca về phủ, tìm cách
cầu xin gia gia mai này mình còn có dịp gặp lại. Trời dài đất rộng, nguyện đôi
ta mãi mãi sẽ không bao giờ phụ nhau.
Trương Vô Kỵ cười gượng nói: -Lệnh huynh chắc gì đã chịu thả cho anh đi.
Mới nói tới đó, hai con ngựa ở phía sau chỉ còn cách vài chục trượng. Triệu
Mẫn giục ngựa tránh qua một bên, rút dao găm ra, trong bụng đã quyết, nếu
như còn cách nào khác thì sẽ tìm đường thoát thân, còn như anh mình nhất
định giết Trương Vô Kỵ cho bằng được thì hai người sẽ chết chung một chỗ.
Hai kẻ cưỡi ngựa kia đến gần không ngừng bước, trên lưng ngựa là hai tên
lính Mông Cổ, đi ngang hai người, chỉ liếc qua một cái rồi giục ngựa chạy luôn.
Triệu Mẫn thở phào nghĩ thầm “Tạ trời tạ đất, hóa ra chỉ là tên lính tầm
thường, không phải người đi truy nã mình”. Thế nhưng hai tên lính gò cương
chậm lại, nói với nhau mấy câu rồi bất thần quay đầu ngựa chạy đến bên cạnh
hai người. Một tên quân Nguyên mặt mũi râu ria quát lớn: -Hai đứa man tử
khốn kiếp kia, chúng bay ăn cắp đâu hai con ngựa tốt thế này?
Triệu Mẫn nghe giọng điệu y, biết rằng chúng trông thấy hai con tuấn mã phụ
thân tặng cho có ý tham lam. Hai con ngựa của Nhữ Dương Vương là loại
ngựa tốt, lại thêm yên vàng cương bạc, quả thật quí giá vô cùng. Người Mông
Cổ thích ngựa như tính mạng, trông thấy thế ai chẳng động tâm? Triệu Mẫn
nghĩ thầm “Hai con ngựa tuy là của gia gia cho thật nhưng nếu như hai tên
này cậy mạnh cướp lấy thì cũng đành phải cho chúng chứ làm sao được”.
Nàng liền nói bằng tiếng Mông Cổ: -Các ngươi là thuộc hạ của tướng quân nào
thế? Sao dám vô lễ với ta như vậy?
Tên quân Mông Cổ ngạc nhiên hỏi lại: -Tiểu thư là ai?
Y thấy hai người ăn mặc sang trọng, lại thêm hai con ngựa thật đẹp, nghe nói
tiếng Mông Cổ lưu loát nên không còn dám coi thường nữa. Triệu Mẫn đáp: -Ta
là con gái của tướng quân Hoa Nhi Bất Xích, đây là anh trai ta, hai người
chúng ta trên đường đi bị cướp nên bị thương.
Hai tên lính đưa mắt nhìn nhau, đột nhiên ngửa miệng cười sằng sặc. Tên râu
rậm lớn tiếng nói: -Đâm lao thì theo lao, giết nốt hai đứa nhãi này rồi tính sau.
Y liền rút yêu đao ra, giục ngựa chạy đến. Triệu Mẫn kinh hoảng kêu lên: -Các
ngươi làm gì thế? Ta cho tướng quân hay hai đứa bay sẽ bị bốn ngựa phanh
thây đó.
“Tứ mã phân thi” là trọng hình trong quân đội Mông Cổ, kẻ phạm pháp bốn
tay chân bị buộc vào bốn con ngựa, sau một tiếng lệnh người ta sẽ đánh ngựa
cho cùng chạy, phạm nhân sẽ bị xé ra thành bốn mảnh là hình phạt khốc liệt
nhất trong các hình phạt.
Gã lính Nguyên râu xồm kia vẫn cười đáp: -Hoa Nhi Bất Xích đánh không lại
quân phản tặc Minh Giáo, chém giết bộ thuộc bừa bãi để cho hả tức. Hôm qua
đại quân nổi dậy, băm vằm cha ngươi nát nhừ ra rồi. Ở đây lại gặp hai con chó
con này thì thật tốt quá.
Nói xong y giơ đao lên chém xuống đầu hai người. Triệu Mẫn vội giật dây
cương cho ngựa nhảy qua tránh được. Gã Nguyên binh toan đuổi theo thì tên
kia kêu lên: -Đừng giết con bé xinh đẹp kia, bọn mình hãy phong lưu khoái
hoạt một trận trước đã.
Tên râu rậm liền đáp: -Đúng lắm, đúng lắm.
Triệu Mẫn chợt nghĩ ra một cách liền nhảy xuống ngựa chạy qua một bên
đường. Hai tên lính Mông Cổ cùng xuống ngựa đuổi theo. Triệu Mẫn kêu lên
“Ối chao” rồi ngã lăn ra. Gã rậm râu liền nhảy tới ôm lưng nàng, cùi chỏ Triệu
Mẫn liền thúc ra sau trúng ngay huyệt đạo trên ngực y, tên râu xồm không kịp
hự lên một tiếng đã ngã lăn sang một bên. Tên còn lại đâu biết bạn mình đã bị
ám toán, cũng nhảy tới, Triệu Mẫn cũng cùng một cách lại đánh trúng yếu
huyệt. Hai lần đả huyệt như thế, lúc bình thời thật chẳng mất chút hơi sức nào
nhưng lúc này phải thở hổn hển, mồ hôi lạnh ướt đầm đầu tóc, toàn thân
dường như không còn lực khí.
Nàng gắng gượng đứng lên, đỡ Trương Vô Kỵ xuống ngựa, rút chủy thủ ra
cầm trên tay quát lớn: -Hai tên cẩu tặc phạm thượng làm loạn kia, có muốn
sống không thì bảo?
Hai tên lính Mông Cổ huyệt đạo bị đánh trúng, nửa thân trên hoàn toàn tê dại,
hai tay không cử động được tuy nửa thân dưới vẫn còn tri giác nhưng cũng
đau đớn khó chịu. Chúng tưởng Triệu Mẫn thể nào cũng giết cả đôi, nào ngờ
nghe nàng nói xem ra còn có chút hi vọng sống sót, vội nói: -Cô nương tha
mạng cho, Hoa Nhi Bất Xích tướng quân không phải chúng tôi giết hại.
Triệu Mẫn nói: -Được, nếu các ngươi làm theo lời ta thì ta tha cho hai cái mạng
chó của chúng bay khỏi chết.
Hai tên lính Mông Cổ chẳng biết nàng bắt chúng làm chuyện khó khăn gì
nhưng cũng đáp liều: -Làm ngay, làm ngay.
Triệu Mẫn chỉ vào hai con ngựa của mình nói: -Hai chúng bay cưỡi hai con
ngựa này chạy về hướng đông, trong vòng một ngày một đêm, phải chạy sao
cho đủ ba trăm dặm, càng nhanh càng tốt, không được sai sẩy.
Hai gã mặt ngơ ngác, có nằm mơ cũng không ngờ được nàng lại chỉ bắt chúng
làm một việc dễ đến thế, nghĩ chắc nàng muốn nói ngược để đùa chúng
chăng. Gã râu xồm nói: -Cô nương, tiểu nhân dẫu có lớn mật mấy cũng chẳng
dám tơ tưởng đến con ngựa của cô nương …
Triệu Mẫn ngắt lời y nói: -Việc đang khẩn bách, mau mau lên ngựa. Trên
đường đi nếu có ai hỏi đến, ngươi phải nói là hai con ngựa này mua ngoài chợ,
tuyệt đối không được đề cập đến hình dáng bọn ta, biết chưa?
Hai tên lính Mông Cổ bán tín bán nghi nhưng Triệu Mẫn luôn mồm giục giã,
nghĩ bụng nếu dẫu có gì lừa dối thì cũng còn hơn là bị nàng đâm chết ngay tại
chỗ nên vội xin lỗi, từng bước từng bước lết đến trèo lên yên. Người Mông Cổ
từ nhỏ lớn lên trên lưng ngựa, cưỡi ngựa còn dễ hơn đi trên đường, tuy tay
chân cứng đơ nhưng cũng điều khiển được con ngựa chạy. Hai đứa sợ rằng
Triệu Mẫn chỉ vì hồ đồ nhất thời rồi sẽ hối hận nên chạy được vài trượng liền
kẹp hai chân, thúc ngựa chạy cho nhanh.
Trương Vô Kỵ nói: -Chủ ý của em cao minh thật. Nếu như thủ hạ của ca ca em
có thấy hai con tuấn mã này, cũng tưởng hai đứa mình đi về hướng đông. Thế
bây giờ chúng mình đi về hướng nào đây?
Triệu Mẫn nói: -Mình sẽ đi về hướng tây nam.
Hai người trèo lên hai con ngựa của hai tên Mông Cổ để lại, không theo đường
mà đi băng qua những vùng hoang dã đi về hướng tây nam.
Đoạn đường này toàn những loạn thạch hiểm trở, gai góc rất nhiều đâm vào
chân ngựa khiến máu chảy ròng ròng, đi khập khiễng mỗi giờ chỉ được chừng
hai chục dặm. Trời sắp tối bỗng thấy dưới thung lũng một luồng khói đen cuồn
cuộn bốc lên. Trương Vô Kỵ mừng nói: -Trước mặt có người ở, thôi mình tới đó
xin tá túc.
Đi đến gần thấy lấp ló sau những tàn cây một góc tường màu vàng, thì ra là
một cái miếu. Triệu Mẫn đỡ Trương Vô Kỵ xuống ngựa, để hai con ngựa quay
đầu về hướng tây, nhặt dưới đất một cành gai, quất luôn mấy cái vào mông
hai con ngựa. Hai con ngựa hí lên một tiếng dài, chạy vọt đi. Nàng tới đâu
cũng bày nghi trận, chỉ mong truy binh của Vương Bảo Bảo bị lạc đường, cả
đến không còn ngựa cưỡi đi lại rất gian nan nàng cũng đành chịu, chỉ cốt sao
được lúc nào hay lúc ấy.
Hai người dìu lẫn nhau, từng bước từng bước đến trước miếu, thấy trên biển
ngay cửa chính đề “Trung Nhạc Thần Miếu”. Triệu Mẫn cầm chiếc vòng cửa gõ
ba cái, đợi một hồi không thấy ai trả lời lại gõ thêm ba cái nữa.
Bỗng nghe bên trong cửa có tiếng người lạnh lùng hỏi: -Người hay quỉ đó?
Muốn chết hay sao?
Nghe lạch cạch mấy tiếng, cánh cửa từ từ mở ra, đằng sau có một bóng
người. Khi đó trời đã sâm sẩm tối, người kia lại quay lưng ra ánh sáng nên
không nhìn rõ mặt, nhưng thấy y đầu trọc mặc áo nhà tu hóa là một hòa
thượng. Trương Vô Kỵ nói: -Hai anh em chúng tôi đi đường gặp cướp, thân bị
trọng thương, xin nhà chùa cho tá túc một đêm. Mong đại sư mở lòng từ bi.
Người kia hừ một tiếng, cười khẩy nói: -Người xuất gia xưa nay có giúp đỡ ai
bao giờ, các ngươi đi chỗ khác.
Y vừa toan đóng cửa, Triệu Mẫn vội nói: -Giúp người người giúp lại, biết đâu
chẳng có chỗ lợi cho mình.
Gã hòa thượng kia liền hỏi: -Lợi chỗ nào?
Triệu Mẫn giơ tay tháo chiếc vòng đeo tai có đính hạt châu đeo đưa cho y. Gã
hòa thượng thấy hạt ngọc trai trên chiếc vòng to bằng ngón tay út bèn nhìn kỹ
lại hai người đánh giá thêm một lần nữa rồi nói: -Được rồi, giúp người người
giúp mình.
Y né qua một bên nhường Triệu Mẫn đỡ Trương Vô Kỵ đi vào. Nhà sư đó đưa
hai người đi qua một đại điện và một gian phòng, đến bên cái chái phía đông
nói: -Hai người ở đây nhé.
Trong phòng chẳng đèn chẳng nến gì, tối om om, Triệu Mẫn đưa tay sờ thử
trên giường chỉ độc một cái chiếu ngoài ra không có gì khác. Bỗng nghe bên
ngoài có tiếng người nói oang oang: -Hác tứ đệ, ngươi đưa ai vào đó?
Nhà sư kia đáp: -Hai người khách đến ngủ nhờ.
?Nói xong y liền hấp tấp đi ra cửa. Triệu Mẫn nói: -Sư phó, xin ông bố thí cho
hai bát cơm với một ít rau dưa.
Hòa thượng kia đáp: -Người xuất gia ăn của bá tánh chứ không bố thí.
Y nói rồi lầm lũi đi thẳng. Triệu Mẫn hậm hực nói: -Gã hòa thượng này thật khả
ố. Vô Kỵ ca ca, chàng đói lắm phải không? Mình phải tìm xem có cách nào
kiếm gì ăn mới được.
Đột nhiên trong sân có tiếng chân người, có đến bảy tám người đi vào, ánh
lửa lấp loáng, cửa phòng mở ra, hai nhà sư giơ cao ngọn đuốc chiếu vào hai
người. Trương Vô Kỵ còn đang kinh hoảng, nhìn ra thấy có cả thảy tám tăng
nhân, kẻ cao người thấp kẻ thì mày rậm mắt trố, kẻ thì mặt bành bạnh đầy
hoành nhục[1], không một người nào ra vẻ lương thiện. Một nhà sư già mặt
mũi nhăn nheo nói: -Các ngươi trên người còn bao nhiêu vàng bạc châu báu,
mau đưa hết ra đây.
Triệu Mẫn hỏi lại: -Để làm gì?
Nhà sư già cười nói: -Hai vị thí chủ có duyên đến chốn này, đúng ngay lúc tiểu
miếu sắp làm một đàn tràng lớn, lại cần tô tượng đúc chuông, trùng tu sơn
môn. Hai vị trong người có vàng bạc châu báu thì đem ra bố thí. Nếu như
không khứng đưa cho chúng tôi, đắc tội với bồ tát thì phiền lắm đấy nhé.
Triệu Mẫn giận dữ nói: -Làm thế có khác gì ăn cướp hay sao?
Nhà sư già đáp: -Không dám, không dám! Tám anh em chúng tốt giết người
đốt nhà, vốn dĩ là cường đạo, gần đây bỏ dao đồ tể xuống là thành Phật ngay,
chẳng biết làm gì bèn làm sư sãi. Hai vị thí chủ có duyên làm thân dê béo đến
tận miệng chúng tôi, ôi, thật khiến cho người xuất gia chúng tôi lục căn[2]
không sao còn thanh tĩnh cho nổi.
Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn kinh hãi không để đâu cho hết, đâu ngờ tám nhà
sư này lại là giặc cướp giả trang, gã hòa thượng già này nói không cần giữ ý ắt
là định giết hai người, sau khi thổ lộ thân thế sẽ ra tay không tha.
Một nhà sư khác cười nham hiểm: -Nữ thí chủ không phải sợ, tám hòa thượng
cường đạo chúng tôi đang cần một áp miếu phu nhân, cô xinh đẹp như thế,
thật chẳng khác gì Quan Thế Âm bồ tát hạ phàm, Phật Như Lai nhìn thấy cũng
còn động tâm. Hay quá, hay quá!
Triệu Mẫn lấy trong bọc ra bảy tám đỉnh vàng, một vòng hạt châu để lên trên
bàn nói: -Tài vật châu báu có tất cả bây nhiêu thôi. Anh em chúng tôi cũng là
người trong võ lâm, mong các vị giữ nghĩa khí giang hồ.
Nhà sư già cười hỏi: -Hai vị là người trong võ lâm, vậy thì quả là tốt lắm, không
biết là môn hạ phái nào đó?
Triệu Mẫn đáp: -Chúng tôi là đệ tử phái Thiếu Lâm.
Phái Thiếu Lâm là môn phái lớn nhất trong võ lâm, nàng đoán chừng nếu tám
người này nếu không xuất thân từ một bàng chi của Thiếu Lâm thì thân hữu
cũng có người liên hệ với phái này. Nhà sư kia ngạc nhiên nhưng lập tức mắt
lộ hung quang nói: -Là đệ tử của Thiếu Lâm à? Thế thì thật là khéo, hai đứa
trẻ ranh chúng bay chỉ nên trách mình đầu nhập lầm môn phái thôi.
Y giơ tay toan chộp vào cổ tay nàng. Triệu Mẫn vội rụt tay lại, gã sư già liền
bắt hụt. Trương Vô Kỵ thấy tình thế trước mắt thật là nguy ngập, cả mình lẫn
Triệu Mẫn hai người đều bị trọng thương, không cách nào chống cự, mấy năm
qua chàng đã giao đấu với không biết bao nhiêu cao thủ thành danh trong võ
lâm, chẳng lẽ hôm nay lại chết về tay tám tên cường đạo hạng ba hạng tư
trên giang hồ? Dầu sao chăng nữa, không thể nào giương mắt nhìn Triệu Mẫn
bị nhục liền nói: -Mẫn muội, em trốn vào sau lưng anh, để anh thanh toán tám
tên giặc cỏ này.
Triệu Mẫn là người bụng đầy mưu mẹo, lúc này cũng đành bó tay liền hỏi: -Các
ngươi là hạng người nào?
Lão già kia liền đáp: -Bọn ta là bạn đồ của phái Thiếu Lâm bị đuổi ra khỏi chùa,
gặp người của môn phái khác còn ra tay nể nang một chút, còn như gặp phải
đệ tử Thiếu Lâm thì không thể tha được. Tiểu cô nương, vị huynh đệ này vốn
dĩ muốn giữ cô làm áp miếu phu nhân, bây giờ biết cô là đệ tử Thiếu Lâm, bọn
ta đành phải tiên gian hậu sát, không để ai sống sót cả.
Trương Vô Kỵ trầm giọng nói: -Giỏi thật! Các ngươi là môn hạ của Viên Chân,
phải không nào?
Nhà sư già kia?Ồ? lên một tiếng nói: -Thế thì lạ thật, làm sao ngươi biết?
Triệu Mẫn liền tiếp lời: -Bọn ta đang lên chùa Thiếu Lâm đây để gặp Trần Hữu
Lượng đại ca suy cử Viên Chân đại sư lên làm phương trượng.
Lão tăng kia liền nói: -Thiện tai, thiện tai! Ngã Phật Như Lai, phổ độ chúng
sinh.
Triệu Mẫn đáp: -Đúng thế! Chúng mình phải đồng tâm hiệp lực để cùng làm
cho xong việc thiện này.
Nàng vừa nói câu đó, cả tám nhà sư cùng cười ha hả. Thì ra tám tên hòa
thượng đó vốn cùng một đảng với Viên Chân và Trần Hữu Lượng, do Trần Hữu
Lượng dẫn nhập, xin làm môn hạ của Viên Chân. Mấy năm nay lòng mong
muốn làm phương trượng của Viên Chân càng gấp gáp nên thu nhận nhân tài
khắp nơi. Tuy nhiên chùa Thiếu Lâm giới luật nghiêm nhặt, mỗi khi thu nhận
một người nào đều phải do người chấp chưởng giới luật giám tự tra xét kỹ
càng xuất thân lai lịch chứ không phải Viên Chân muốn thu ai cũng được.
Do đó Trần Hữu Lượng mới hiến kế rằng mời gọi các hào kiệt giang hồ, cướp
sông cướp biển bái sư ở bên ngoài chùa, tuy cũng là đệ tử của Viên Chân
nhưng không vào ở trong chùa Thiếu Lâm, đợi khi thời cơ đến cùng đứng lên
làm đại sự. Võ công của Viên Chân cao siêu biết chừng nào, chỉ cần ra tay đều
khiến cho quần hào giang hồ kính phục. Những người đó vốn dĩ ngưỡng mộ uy
vọng danh môn chính phái của phái Thiếu Lâm, lại trông thấy thần công tuyệt
kỹ của Viên Chân nên ai nấy đều bằng lòng bái sư.
Một số nhỏ không chịu phản bội môn hộ liền bị Viên Chân ra tay trừ ngay,
thành ra gian mưu của y tuy tính toán đã lâu nhưng không bị bại lộ. Nhà sư
già kia nói “Ngã Phật Như Lai, Phổ Độ Chúng Sinh” chính là ám hiệu khi gặp để
nhận nhau, nếu người cùng trong đảng sẽ đáp là “Hoa Khai Kiến Phật, Tâm
Tức Linh Sơn” là biết liền. Triệu Mẫn vừa nghe nhà sư già kia mở miệng nhận
là đệ tử của Viên Chân, liền suy ra Viên Chân chắc có âm mưu lên làm phương
trượng thế nhưng cái ám hiệu của họ định với nhau thì làm sao biết được?
Một nhà sư lùn mập liền hỏi: -Phú đại ca, con nhãi này nói đến chuyện suy cử
sư phụ chúng ta lên làm phương trượng chùa Thiếu Lâm, không biết cái tin
tức đó từ đâu ra? Sự việc trọng đại như thế không thể không tra hỏi cho rõ
ràng.
Tám gã này tuy đã cạo đầu làm sư nhưng vẫn gọi nhau bằng đại ca, nhị ca
chưa bỏ thói quen từ thuở còn là lục lâm. Trương Vô Kỵ vừa nghe thấy tiếng
cười của bọn chúng biết là không xong, có điều mới bị trong thương chân khí
không sao ngưng tụ, chỉ đành cố gắng thu nhiếp tâm thần, thấy hơi nóng bốc
lên bừng bừng bên đông một mảng, bên tây một khối nhưng không sao vận
chuyển vào kinh mạch được.
Nhà sư già kia giơ năm ngón tay như vuốt chim vồ tới Triệu Mẫn, nàng không
có cách nào chống đỡ, chỉ đành co người xuống gầm giường còn Trương Vô Kỵ
nóng ruột nhưng không cách nào khác hơn là ngồi xếp bằng vận công, chỉ
mong khôi phục được hai, ba thành công lực đủ đế đánh bại tám tên ác tặc
này.
Gã sư lùn mập thấy chàng còn ra bộ ra tịch ngồi hành công đả tọa, giận dữ
quát lớn: -Thằng khốn này không biết sống chết là gì, để ông cho mày về chầu
tây phương trước đã, đỡ vướng chân vướng tay.
Nói xong tay phải vung lên, xương cốt kêu lốp cốp, nghe vù một tiếng đánh
luôn một quyền ngay ngực Trương Vô Kỵ. Triệu Mẫn thấy tình hình nguy cấp,
hoảng hốt kêu lên. Chỉ thấy tăng nhân đó đấm ra xong, tay phải mềm nhũn
thõng xuống, hai mắt trừng trừng, đứng như trời trồng. Nhà sư già kinh hãi
giơ tay đẩy vào y, gã sư lùn mập lập tức ngã xuống, thì ra y đã chết rồi. Tất cả
các nhà sư khác vừa sợ, vừa tức, nhao nhao hò hét: -Thằng nhãi này có yêu
pháp, có tà thuật.
Thì ra gã sư mập vận kình vào cánh tay, đấm thẳng vào ngực Trương Vô Kỵ,
trúng ngay huyệt Đàn Trung. Cửu Dương thần công của Trương Vô Kỵ dùng
để đánh người thì chưa đủ nhưng hộ thể thì lại có thừa, không những trả
ngược lại quyền kình của đối phương mà còn nhân cú đánh của địch, dẫn
động Cửu Dương chân khí trong người, tăng thêm một luồng kình lực nữa nên
gã sư mập kia lập tức chết ngay.
Gã sư già đoán rằng trên ngực Trương Vô Kỵ có dấu mũi tên hay món gì nhọn
sắc tẩm độc khiến cho gã kia bị trúng phải nên lập tức xuất chưởng đánh vào
tay phải lộ ra ngoài áo của chàng, định rằng đánh gãy hai cánh tay trước rồi sẽ
từ từ thanh toán sau. Chưởng lực cương mãnh đó trúng tay Trương Vô Kỵ,
khích động Cửu Dương chân khí trong người phản kích ra, gã sư già bị bắn
văng trở lại, thế mạnh như tên bắn, nghe loảng xoảng một tiếng lớn đã vỡ
tung cửa sổ ra ngoài, đụng phải một cây hòe lớn ngoài sân đầu vỡ nát chết
tươi.
Bọn sư còn lại kêu réo om sòm, một tên nhắm ngay huyệt Thái Dương đấm
một quyền, còn một tên khác dùng thế Song Long Sang Châu giơ hai ngón tay
móc mắt, một tên nữa giơ chân đá luôn vào huyệt Đan Điền của Trương Vô Kỵ.
Trương Vô Kỵ cúi đầu tránh đôi mắt, để cho y đâm vào trán, chỉ nghe bình
bình, ối ối, hự hự mấy tiếng lớn, ba nhà sư trước sau bị chấn động chết cả. Gã
thứ ba giơ chân đá, lực đạo hết sức mãnh liệt, chân y cũng bị gãy rời. Nơi đan
điền Trương Vô Kỵ bị trúng cú đá, chân khí bùng lên, cả một nửa bên phải
mạch lạc đều quán thông, trong bụng mừng thầm “Tiếc thay tên ác tăng này
chết sớm quá, giá như y đá thêm vào bụng mình mấy cái nữa, giúp mình khôi
phục công lực mau hơn. Xem ra ta bị thương tuy có nặng thật nhưng việc khôi
phục không lấy gì làm khó, chỉ cần nghỉ ngơi mười ngày nửa tháng là sẽ trở lại
như xưa”.
Tám nhà sư đã chết năm, ba tên còn lại sợ đến hồn vía lên mây, vội vàng chen
nhau chạy ra cửa. Chạy ra đến ngoài không thấy Trương Vô Kỵ đuổi theo
chúng mới đứng lại bàn tán. Một gã nói: -Gã tiểu tử này chắc có tà pháp.
Một gã khác nói: -Ta xem không phải tà pháp đâu mà là nội công y ghê gớm
lắm, phản kích lại giết người.
Tên thứ ba nói: -Đúng thế, bọn mình phải tìm cách báo thủ cho các anh em
kia.
Ba tên bàn bạc một hồi, một tên bỗng nói: -Thằng nhãi đó chắc là bị thương
nặng lắm, chứ sao không đuổi theo tụi mình ra ngoài đây?
Một tên bèn vui mừng nói: -Đúng lắm, chắc nó không đi lại được, năm anh em
kia dùng quyền đánh y, y mới dùng nội lực phản kích được, bọn mình dùng
binh khí chém y đâm y, chẳng lẽ nó có mình đồng da sắt hay sao?
Ba tăng nhân tính toán xong, một tên cầm ngọn giáo, một têm cầm đao, tên
kia cầm kiếm đi vào trong nhà. Chỉ thấy căn phòng phía đông lặng như tờ
không một tiếng động. Ba gã sư tới đập gãy một cánh cửa sổ nhìn vào thấy
thanh niên nọ vẫn ngồi xếp bằng tĩnh tọa, trông ra vẻ thật là mỏi mệt, thân
hình lắc lư dường như có thể ngã gục xuống bất cứ lúc nào. Thiếu nữ thì cầm
một chiếc khăn tay, chấm những giọt mồ hôi trên trán người con trai. Ba người
đưa mắt cho nhau nhưng không ai dám xông vào. Một nhà sư quát lên: –
Thằng nhãi thối tha kia, có giỏi thì ra đây đấu với lão gia ba trăm hiệp xem
nào.
Một người khác lại chửi: -Tiểu tử này có tài cán gì đâu, chỉ có tài dùng yêu
pháp hại người. Cái trò đó là trò hạ lưu vô sỉ hạng ba hạng tư, thật là đê tiện.
Ba tên sư không thấy Trương Vô Kỵ trả lời, cũng chẳng xuống giường, nên mỗi
lúc một thêm can đảm hơn, lời lẽ chửi bới càng lúc càng dơ bẩn, trong đám đệ
tử Phật môn chắc chẳng một ai hơn được ba vị đại hòa thượng này.
Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn nghe ba gã kia mồm năm miệng mười nhưng
không thấy gì tức giận, vì hai người không sợ họ quay lại báo thù, mà lại sợ họ
bỏ đi mất. Nơi này không xa chùa Thiếu Lâm là bao nhiêu, nếu như tam tăng
đi báo cho Thành Côn hay thì mọi việc kể như xong. Vết thương của Trương Vô
Kỵ phải hơn mười ngày nữa mới khỏi, không cần phải đích thân Thành Côn
đến nơi mà chỉ cần một hai cao thủ hạng nhì, chẳng hạn như Trần Hữu Lượng
thì cũng đã không cách gì đối phó nổi. Thành thử họ thấy ba gã ác tăng kia
quay lại, trong lòng lại mừng thầm. Trương Vô Kỵ bị liên tiếp năm nhà sư tập
kích, Cửu Dương chân khí trong cơ thể đã có chỗ bắt đầu ngưng tụ, tuy chưa
có thể phát kình đả thương địch thủ, nhưng trong bụng cũng không còn kinh
hoảng như trước nữa.
Đột nhiên nghe bình một tiếng, một nhà sư đã giơ chân đá tung cửa phòng,
xông vào, ánh sáng xanh lấp loáng, chiếc tua đỏ rung động, trong tay y cầm
một cái giáo dài. Triệu Mẫn kêu lên: -Chao ôi!
Nàng vội vàng đưa chiếc dao găm cho Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ lắc đầu
không cầm, trong bụng kêu khổ thầm “Tay ta không còn một chút kình lực
nào, dẫu có binh khí, làm sao chiến đấu được? Cái thân thể máu thịt của ta,
làm sao có thể chịu được với binh khí đây?”. Chưa kịp suy nghĩ, địch nhân đã
xoáy đầu thương, chiếc ngù tung bay, mũi giáo đâm thẳng vào ngực chàng.
Mũi thương đó đến thật nhanh nhưng ý nghĩ của Triệu Mẫn còn nhanh hơn,
nàng vội vàng thò tay vào bọc Trương Vô Kỵ lấy ra một chiếc thánh hỏa lệnh,
nhắm đúng ngay chỗ mâu đâm tới, chặn ngay trên ngực Trương Vô Kỵ, nghe
keng một tiếng, mũi giáo trúng ngay vào lệnh bài. Ỷ Thiên kiếm sắc bén là thế
mà cũng còn không chặt đứt được thánh hỏa lệnh nên chiếc giáo đâm thì có
ăn thua gì. Cái đâm đó khích động Cửu Dương chân khí trong người Trương Vô
Kỵ, bật ngược trở lại, chỉ nghe “A” một tiếng thảm thiết, cán thương đã đâm
vào ngực gã tăng nhân.
Nhà sư đó chưa ngã xuống thì gã thứ hai đã múa đơn đao chém xuống đầu
Trương Vô Kỵ. Triệu Mẫn sợ một miếng lệnh bài không đủ sức chặn sự sắc bén
của đơn đao, hai tay mỗi tay cầm một chiếc thánh hỏa lệnh, đỡ ngay trên đầu
Trương Vô Kỵ. Cái đỡ đó quả thật chỉ trong đường tơ kẽ tóc, lại nghe keng một
tiếng nữa, đơn đao bật trở về, sống đao đập vỡ trán nhà sư nhưng ngón tay út
bên trái của Triệu Mẫn cũng bị đao cắt mất một mẩu, trong cơn nguy cấp nên
chưa cảm thấy đau.
Tăng nhân thứ ba cầm kiếm xông vào đến cửa, thấy hai tên đồng bọn đã chết
tươi, y hoảng hốt kêu toáng lên xoay mình chạy ra ngoài. Triệu Mẫn kêu lên: –
Đừng để y chạy thoát.
Nàng cầm một chiếc thánh hỏa lệnh theo cửa sổ ném theo, tuy rất chính xác
nhưng không có lực nên chưa đến được gã kia thì đã rơi bịch xuống đất.
Trương Vô Kỵ ôm lấy nàng kêu lên: -Ném nữa đi.
Chàng đem hết chân khí ngưng tụ được trên ngực truyền vào sau lưng nàng,
chiếc thánh hỏa lệnh bên tay trái của Triệu Mẫn lại nhắm nhà sư ném theo, gã
kia chỉ chạy cần chạy thêm hai bước nữa là có thể ẩn sau bức tường nhưng
chiếc lệnh bài bay tới thật nhanh, trúng giữa lưng y, máu mồm phun ra gục
xuống chết ngay.
Thánh hỏa lệnh vừa rời khỏi tay, Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn cũng hôn mê bất
tỉnh, ôm nhau ngã gục xuống khỏi giường. Lúc này trong phòng có sáu người
chết, ngoài sân lại thêm hai tử thi, Trương Triệu hai người nằm gục trong vũng
máu. Hoang sơn tiểu miếu, lãnh nguyệt thanh phong, chỉ giây lát im lìm không
một tiếng động.
Qua một lúc lâu, Triệu Mẫn tỉnh dậy trước, mơ mơ màng màng giơ tay sờ mũi
Trương Vô Kỵ, thấy chàng hô hấp tuy yếu nhưng dài và bình ổn. Nàng gắng
gượng đứng lên nhưng không có sức đỡ chàng lên giường, đành cố nâng đầu
tình lang gác lên một cái xác chết. Nàng ngồi trong đám người chết thở hổn
hển. Lại thêm một hồi nữa, Trương Vô Kỵ mở mắt ra, gọi khẽ: -Mẫn muội, em
… em ở đâu?
Triệu Mẫn nở một nụ cười, ánh trăng lạnh chiếu qua khung cửa sổ, hai người
nhìn thấy nhau mặt ai cũng đầy vết máu, trông thật ghê rợn, thế nhưng vì
chết đi sống lại nên cảm thấy hết sức êm ái ngọt ngào, giang hai tay ôm chặt
lấy nhau.
Trong cơn kịch chiến đó, giết được bảy nhà sư đầu tiên Trương Vô Kỵ không
tốn chút hơi sức nào, chỉ mượn sức đánh sức, đã không hao hụt mà ngược lại
còn có ích, thế nhưng lần cuối cùng dùng sức ném thánh hỏa lệnh giết tên ác
tăng, nguyên khí hai người bị mất hết. Lúc này họ không còn sức để cử động,
chỉ đành nằm giữa đống người chết chờ cho khí lực phục hồi. Triệu Mẫn băng
ngón tay trái bị thương, mơ mơ màng màng cũng ngủ thiếp đi.
Mãi đến giữa trưa hôm sau hai người mới trước sau tỉnh dậy. Trương Vô Kỵ đả
tọa vận khí, điều tức đến hơn nửa giờ, tinh thần phần chấn, cố gắng đứng lên
thấy bụng đói đến sôi lên lục cục, mò xuống dưới bếp, thấy một nồi cơm đến
quá nửa đã thành than, còn một nửa thì khê nồng cháy khét, liền xới lấy một
bát lớn đem lên phòng. Triệu Mẫn cười nói: -Hai đứa mình hôm nay ăn uống
càn bậy thế này, chỉ nên trời biết, đất biết, chàng biết thiếp biết, chớ nên để
người khác biết nhé.
Hai người nhìn nhau cười, thò tay bốc cơm cháy ăn, thấy mùi vị sao thật ngon
lành, xem chừng còn hơn các món sơn hào hải vị. Bát cơm chưa ăn xong,
bỗng nghe từ xa có tiếng chân ngựa đạp trên đá núi vọng tới.
Choang một tiếng, chiếc bát cơm cháy rơi xuống đất vỡ tan. Triệu Mẫn và
Trương Vô Kỵ hai người bàng hoàng nhìn nhau, tim đập thình thình, nghe
tiếng thấy cả thảy hai con ngựa, đến trước miếu liền ngừng lại. Kế đó có bốn
tiếng vòng kêu, người nào đó đã gõ cửa, ngừng lại một lát, rồi lại gõ thêm bốn
tiếng. Trương Vô Kỵ nói nhỏ: -Làm sao bây giờ?
Chỉ thấy bên ngoài có tiếng người kêu réo: -Thượng Quan tam ca, ta là Tần lão
ngũ đây!
Triệu Mẫn đáp: -Bọn họ thể nào cũng phá cửa vào, mình giả vờ chết rồi tùy cơ
ứng biến.
Hai người nằm phục trên đám người chết, úp mặt xuống. Vừa mới nằm xong,
bỗng nghe bình một tiếng lớn, cửa miếu đã bị phá tung ra, cứ theo thế huých
vào cửa thì sức cánh tay của người vừa đến không phải là yếu. Triệu Mẫn bỗng
nghĩ ra một kế nói: -Chàng phục tại bên cửa, chặn đường đi của hai gã này.
Trương Vô Kỵ gật đầu, đến nằm bên ngạch cửa. Bỗng nghe thấy mấy tiếng
kêu kinh hoảng, xoẹt xoẹt hai tiếng, hai kẻ tiến vào miếu đã rút binh khí cầm
tay, hẳn là họ đã thấy mấy cái xác nơi sân. Một người nói khẽ: -Cẩn thận,
phòng bị địch nhân ám toán.
Lại nghe tiếng một người khác kêu lên: -Này các bạn, thập thò ẩn náu đâu có
phải là kẻ anh hùng. Nếu có giỏi thì ra đây cùng lão tử một trận tử chiến.
Người đó âm thanh oang oang, trung khí sung túc, chắc là đại lực sĩ vừa phá
cửa hồi nãy. Y liên tiếp kêu mấy lần, chung quanh không thấy có tiếng trả lời
bèn nói: -Bọn giặc chắc đi xa rồi.
Lại nghe tiếng một người lập cập nói: -Mình xem xét bốn bề cho kỹ, đừng để
trúng ngụy kế của địch nhân.
Gã Tần lão ngũ kia nói: -Thọ lão đệ, ngươi tra xét bên phía đông, ta tra xét
bên phía tây.
Gã họ Thọ kia dường như trong bụng sợ hãi nói: -Chỉ sợ bên địch đông người,
mình nên ở chung một chỗ cho khỏi lẻ loi.
Tần lão ngũ chưa kịp quyết định, gã họ Thọ đột nhiêu?Ồ? lên một tiếng, chỉ
vào căn phòng phía đông nói: -Trong kia … trong kia có người chết kìa.
Hai người chạy đến bên cửa, chỉ thấy trong căn phòng nhỏ, bảy tám người
nằm chết ngang dọc. Tần lão ngũ nói: -Tất cả … tất cả tám anh em trong miếu
này sao chết cả. Không biết ai là người hạ độc thủ?
Tên họ Thọ nói: -Tần ngũ ca, mình nên cấp tốc trở về chùa, bẩm … bẩm … lại
cho sư phụ hay.
Tần lão ngũ trầm ngâm rồi nói: -Sư phụ dặn dò chúng ta, phải mau mau đưa
thiếp đi mời để kịp mở Đồ Sư Anh Hùng Hội vào dịp Tết Đoan Ngọ, nếu như
làm lỡ việc thì tội không phải là nhỏ.
Trương Vô Kỵ nghe thấy mấy tiếng Đồ Sư Anh Hùng Hội, hơi suy nghĩ, không
khỏi vừa kinh hoàng, vừa mừng rỡ, lại băn khoăn, giận dữ, trăm mối trong
lòng nghĩ thầm “Sư phụ y sai gửi thiếp mời, mở cái gì Đồ Sư Anh Hùng Hội là
để chiêu tập anh hùng thiên hạ, trước mặt mọi người giết nghĩa phụ ta. Xem
ra như thế, trước kỳ Tết Đoan Ngọ này, tính mạng nghĩa phụ không sao cả. Ta
không bảo vệ cho nghĩa phụ được chu toàn, để lão nhân gia rơi vào tay kẻ
gian để chịu chiết nhục, thật còn gì bất hiếu bất nghĩa cho bằng?”
Chàng càng nghĩ càng tức, hận không thể lập tức giết chết hai kẻ gian này,
nhưng lại sợ bọn chúng bỏ chạy, mà mình thì không có sức đuổi theo, đành
phải đợi cho chúng tiến vào phòng, chặn lối đi, cứ y như cũ dùng Cửu Dương
chân khí phản kích giết kẻ địch. Ngờ đâu hai người nọ thấy trong phòng đầy
xác chết, không muốn bước vào, chỉ đứng ngoài xa bàn bạc.
Gã họ Thọ nói: -Chuyện lớn như thế này phải sớm bẩm lại với sư phụ là hơn.
Tần lão ngũ đáp: -Thế cũng được, hai đứa mình chia ra làm, ta đi gửi thiếp,
ngươi về chùa bẩm lại cho sư phụ.
Gã họ Thọ lại sợ đi đường gặp cường địch, trù trừ chưa trả lời. Tần lão ngũ
bực mình nói: -Thế thì để cho ngươi chọn, nếu ngươi thích đi đưa thiếp thì cứ
việc đi.
Gã họ Thọ lại trầm ngâm, sau nghĩ lại thấy về chùa xem chừng an toàn hơn
nên nói: -Thôi cứ như Tần ngũ ca sắp đặt, để đệ về chùa bẩm báo cũng được.
Hai người lập tức quay ra. Triệu Mẫn liền cử động, rên lên mấy tiếng. Tần Thọ
hai người kinh hãi, quay đầu lại, thấy Triệu Mẫn đang nhúc nhích, nhìn kỹ lại
hóa ra là một cô gái. Tần lão ngũ lạ lùng hỏi: -Cô gái này là ai thế nhỉ?
Y đi vào phòng. Gã họ Thọ tuy nhát gan nhưng thấy đó chỉ là một cô gái, lại
đang bị thương nặng sắp chết nên không sợ hãi, cũng theo sau. Tần lão ngũ
giơ tay nắm lấy vai Triệu Mẫn, Trương Vô Kỵ liền ho lên một tiếng, ngồi dậy xếp
bằng vận khí, mắt nửa thức nửa ngủ. Tần, Thọ thấy chàng đột nhiên ngồi dậy,
trên mặt đầy vết máu, trông thật ghê rợn nên hai đứa cùng kinh hoảng. Gã họ
Thọ kêu lên: -Hỏng rồi, đây là quỉ nhập tràng. Con quỉ … quỉ … này âm hồn
không tan, Tần ngũ ca nên … nên cẩn thận.
Nói rồi y vội vàng nhảy lên giường. Tần lão ngũ quát lên: -Quỉ nhập tràng tác
quái à! Họ Tần này đâu có sợ ngươi.
Y vung đao chém thẳng xuống đầu Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ trong tay đã
cầm sẵn hai miếng thánh hỏa lệnh, lập tức giơ lên đỡ trên đầu, nghe keng một
tiếng, lưỡi đao đã chém trúng thánh hỏa lệnh, bật ngược trở lại, trúng đầu
Tần lão ngũ vỡ nát, chết ngay lập tức.
Tên họ Thọ tay cầm một thanh quỉ đầu đao, run bần bật, cũng muốn chém
vào mình Trương Vô Kỵ nhưng nào có dám? Trương Vô Kỵ chỉ chờ y chém
xuống là sẽ dùng Cửu Dương chân khí phản kích lại. Triệu Mẫn thấy người này
hồi lâu không động đậy, nóng ruột “Tên quỉ nhát gan này hồn vía lên mây,
không dám động thủ, nếu như y quẳng đao bỏ chạy thì mình đâu có làm gì
được y?”. Chỉ thấy hai hàm răng y đánh vào nhau lốp cốp, đột nhiên nghe
xoảng một tiếng, thanh quỉ đầu đao đã rơi xuống đất. Trương Vô Kỵ nói: –
Ngươi có giỏi thì chém ta một đao, đấm ta một đấm xem nào.
Người kia đáp: -Tiểu … tiểu nhân không phải … không dám cùng lão gia động
thủ.
Trương Vô Kỵ nói: -Thế thì ngươi đá ta một cái xem nào.
Người kia nói: -Cái đó … cái đó tiểu … tiểu nhân lại càng không dám.
Trương Vô Kỵ giận nói: -Nếu như ngươi bị thịt như thế thì chết càng thảm thiết
hơn, mau chém ta mấy đao đi nào. Nếu ta thấy thủ kình ngươi không đến nỗi
tệ, không chừng tha mạng cho ngươi đó.
Người kia vội đáp: -Dạ, dạ.
Y cúi xuống nhặt thanh đao lên nhưng liếc mắt thấy Tần lão ngũ đầu nát
ngướu, nghĩ thầm con quỉ nhập tràng này pháp lực cao cường, chi bằng cố
sức van xin may ra y tha mạng cho, vội vàng quì xuống, khấu đầu nói: -Lão gia
tha mạng cho! Người chết oan, không … không liên quan gì đến tiểu nhân,
người đừng bắt … tiểu nhân … đòi mạng.
Triệu Mẫn thấy y tưởng Trương Vô Kỵ đã chết rồi, trong bụng tức lắm, hừ một
tiếng nói: -Trong võ lâm sao lại có hạng người chó chết vô tích sự đến như
ngươi là sao?
Người kia đáp: -Vâng, vâng! Tiểu nhân vô tích sự, vô tích sự, quả đúng là đồ
chó chết, đồ chó chết.
Y không dám ra tay, Trương Vô Kỵ cũng đành chịu không thể làm gì được, đột
nhiên nghĩ ra một cách quát lên: -Lại đây.
Gã kia vội đáp: -Vâng.
Y tiến lên mấy bước, rồi lại quì xuống. Trương Vô Kỵ giơ hai tay ra, giơ hai
ngón tay cái ấn vào hai mắt y, thét lớn: -Ta móc hai mắt ngươi trước đã.
Người kia sợ hãi quá, không nghĩ ngợi gì thêm, vội vàng giơ lên gạt tay Trương
Vô Kỵ ra. Trương Vô Kỵ chỉ đợi y đẩy tay mình, lập tức mượn ngay sức của y,
vòng xuống điểm luôn vào hai huyệt Thần Phong và Bộ Lang dưới vú y.
Người kia toàn thân tê tái, ngã lăn quay ra, lớn tiếng van xin: -Lão gia tha
mạng cho, lão gia tha mạng cho. Thì ra lão gia không phải quỉ nhập tràng, thế
thì hay quá, càng … càng nên tha mạng cho tiểu nhân.
Lúc này y nằm gục ngay trước Trương Vô Kỵ nên nhìn rõ đối phương là người
còn sống. Triệu Mẫn biết rằng Trương Vô Kỵ vừa mới mượn sức điểm huyệt,
nhưng lực mượn được rất là yếu, chỉ khiến cho y tạm thời bị tê chân tay
nhưng vẫn còn hành động được, chưa đến nửa giờ sau, các huyệt đạo bị
phong sẽ được giải khai, khi đó sẽ lại càng phiền nhiễu. Nàng còn nhiều điều
muốn tra vấn y cho minh bạch nên không muốn giết y ngay nên nói: -Ngươi đã
bị vị gia đài này điểm trúng tử huyệt, ngươi thử hít một hơi xem xương sườn
bên trái có ngâm ngẩm đau không?
Người y làm theo hít một cái, quả nhiên thấy mấy rẻ xương sườn bên trái hơi
đau, thực ra đó chỉ là hiện tượng khí huyết bị bế tắc mà sinh ra nhưng y đâu
có biết nên vội hốt hoảng van xin. Triệu Mẫn nói: -Muốn tha mạng cho ngươi
ư? Thế thì phải dùng kim châm giải các tử huyệt mới được. Quả thật là mất
công quá đỗi.
Gã kia lập tức rập đầu nói: -Dù sao chăng nữa thì cô nương cũng xin ra tay
giúp cho một phen. Cô nương cứu mạng cho tiểu nhân, dù có phải làm trâu
làm ngựa, cô nương sai bảo gì cũng được.
Triệu Mẫn cười thầm trong bụng nói: -Nhân vật giang hồ như ngươi, thật ta
mới thấy lần đầu. Thôi được rồi, ngươi đi kiếm một cục gạch đem về đây cho
ta.
Người kia vội vàng đáp: -Vâng, vâng.
Y tập tễnh đi ra ngoài kiếm một cục gạch. Trương Vô Kỵ hỏi nhỏ: -Em lấy cục
gạch làm gì thế?
Triệu Mẫn mỉm cười: -Cứ chờ xem sẽ thấy nàng tiên này làm phép lạ.
Gã kia kiếm được một cục gạch cung kính đem vào phòng. Triệu Mẫn rút trên
đầu ra một cành kim thoa, để mũi châm đúng ngay huyệt Khuyết Bồn trên đầu
vai y rồi bảo: -Ta dùng kim châm giải khai kinh mạch nửa người trên cho ngươi
trước cho khí của tử huyệt khỏi bốc lên óc thì hết cách chữa. Nhưng không
biết vị gia đài kia có bằng lòng tha chết cho ngươi không?
Gã đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ đầy vẻ van lơn cầu khẩn. Trương Vô Kỵ liền gật
đầu. Gã kia mừng quá nói: -Vị đại gia kia bằng lòng rồi, xin cô nương mau mau
ra tay giúp cho.
Triệu Mẫn nói: -Ồ, ngươi có sợ đau không?
Người kia nói: -Tiểu nhân chỉ sợ chết chứ đâu có sợ đau.
Triệu Mẫn nói: -Thế thì được! Ngươi cầm hòn gạch đập vào đuôi kim thoa.
Người kia nghĩ kim thoa đâm vào vai cũng chỉ là bị thương ngoài thịt da, nên
không nhăn nhó gì, cầm viên gạch lên đập xuống. Viên gạch đập xuống, chiếc
trâm liền cắm vào huyệt Khuyết Bồn, y không cảm thấy đau mà lại thấy khoan
khoái, đối với Triệu Mẫn càng thêm tin tưởng, luôn mồm cảm ơn rối rít. Triệu
Mẫn lại bảo y rút kim ra, để vào các huyện Hồn Môn, Phách Hộ, Thiên Trụ, Khố
Phòng … bảy nơi huyệt đạo châm vào. Trương Vô Kỵ mỉm cười nói: -Được rồi!
Được rồi!
Chàng đứng lên, nghĩ thầm người này nếu những huyệt đạo này đã bị châm
vào, nếu như đào tẩu khỏi miếu, cố sức chạy cho nhanh, những huyệt bị điểm
sẽ lập tức phát tác khiến y lăn ra chết ngay.
Triệu Mẫn nói: -Ngươi đi kiếm hai chậu nước cho chúng ta rửa mặt rồi đi nấu
cơm. Nếu ngươi muốn thì cứ việc bỏ thuốc độc vào cơm canh, thế là cả ba
người mình cùng chết.
Người kia vội nói: -Tiểu nhân đâu dám, tiểu nhân đâu dám.
Thế là tự nhiên Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn có được một người đầy tớ chăm lo
săn sóc cho mình. Triệu Mẫn hỏi tên họ mới hay y họ Thọ, tên Nam Sơn, lại có
cái ngoại hiệu Vạn Thọ Vô Cương, là cái tên bạn bè giang hồ chế riễu đặt cho
chỉ vì y đụng chuyện là rụt đầu rụt cổ nên sẽ không bao giờ bị người ta giết
cả. Y theo một đám lục lâm hảo hán xin làm môn hạ Viên Chân, nhưng Viên
Chân thấy tư chất y kém cỏi quá, tính tình lại nhút nhát, chỉ sai y làm những
việc vặt chưa từng truyền thụ y chút võ công nào. Thọ Nam Sơn bị điểm tám
nơi huyệt đạo nhưng sức lực không mất, bị Triệu Mẫn sai hết việc nọ đến việc
kia, thực là chăm chỉ ngoan ngoãn. Y đem chín cái xác ra vườn sau đào huyệt
chôn cất, xách nước rửa sạch các vết máu trong miếu. Khéo làm sao Thọ Nam
Sơn tuy võ công chẳng đâu vào đâu nhưng tài nấu nướng thì thuộc loại hạng
nhất, nấu mấy món ăn, Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn ăn khen lấy khen để.
Sau khi mọi việc đã đâu vào đấy, Trương Triệu hai người mới tra hỏi tình hình
Đồ Sư Anh Hùng Hội ra thế nào. Thọ Nam Sơn không dám giấu diếm, nhưng vì
mọi người coi y chẳng vào đâu nên nhiều việc không cho y hay. Y chỉ biết
Không Văn đại sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm ủy thác cho Viên Chân chủ
trì đại hội, Không Văn và Không Trí đứng tên gửi thiếp mời anh hùng hảo hán
các môn phái, các bang hội đến Tết Đoan Ngọ tới chùa Thiếu Lâm có việc
quan trọng cần thương lượng.
Trương Vô Kỵ cầm các anh hùng thiếp lên coi, thấy người được mời là Phù
Trần Tử, Cổ Tùng Tử, Qui Tạng Tử … các kiếm khách phái Điểm Thương thành
danh đã lâu nhưng ẩn cư nơi Điền Nam[3], xưa nay không lai vãng với nhân sĩ
võ lâm Trung Nguyên. Đến nay ngay cả phái Điểm Thương mà chùa Thiếu Lâm
cũng mời đủ biết kỳ đại hội này khách khứa rất đông, cực kỳ qui mô. Phái
Thiếu Lâm là lãnh tụ võ lâm, lại chính Không Văn, Không Trí ra mặt đứng tên
mời, hẳn người nhận được thiếp dù có việc gì quan trọng đến đâu cũng phải
gác qua một bên để đi phó hội.
Trương Vô Kỵ thấy trên tấm thiệp mời chỉ có vài chữ viết là “Kính mời đến tiết
Đoan Dương tụ hội tại chùa Thiếu Lâm, để cùng anh hùng thiên hạ uống chén
rượu mừng? nhưng không thấy hai chữ “Đồ Sư” liền hỏi: -Sao Tần lão ngũ lại
gọi là Đồ Sư Anh Hùng Hội là sao?
Thọ Nam Sơn mặt dương dương nói: -Trương gia không biết chứ sư phụ chúng
tôi bắt được một nhân vật danh tiếng lừng lẫy, tên là Kim Mao Sư Vương Tạ
Tốn. Phái Thiếu Lâm muốn lần này được nở mày nở mặt với tất cả anh hùng
thiên hạ, trước mặt mọi người đem Kim Mao Sư Vương ra giết nên mới mở đại
hội này, thành thử mới gọi là Đồ Sư Anh Hùng Hội.
Trương Vô Kỵ cố nén giận hỏi thêm: -Thế Kim Mao Sư Vương là người thế nào,
ngươi đã gặp bao giờ chưa? Sư phụ ngươi là thế nào mà bắt được? Người đó
hiện nay nhốt ở đâu?
Thọ Nam Sơn đáp: -Gã Kim Mao Sư Vương ấy ư, hà hà, quả thật ghê gớm hết
chỗ nói, cao phải đến gấp đôi tiểu nhân, bắp tay xem ra còn to hơn đùi tiểu
nhân nữa, chẳng nói gì khác, đôi mắt sáng quắc nhìn vào ai là cũng đủ hồn vía
lên mây, y chẳng phải ra tay, cũng đã lạy lục xin tha rồi …
Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn đưa mắt nhìn nhau, gã vẫn tiếp tục: -Sư phụ tôi
đấu với y bảy ngày bảy đêm liền, không phân thắng bại, sau cùng thầy tôi giận
quá, sử dụng môn võ uy chấn thiên hạ là Cầm Long Phục Hổ Công mới thu
phục được y. Hiện nay Kim Mao Sư Vương bị nhốt trong một cái lồng sắt thật
lớn tại Đại Hùng Bảo Điện trong chùa, người y bị xích bằng bảy tám sợi dây
xích đúc bằng thép ròng …
Trương Vô Kỵ càng nghe càng bực, quát lên: -Ta hỏi gì cứ thực mà nói, nếu
còn nói năng lếu láo thì coi chừng cái mạng chó của ngươi đó. Kim Mao Sư
Vương Tạ Tốn hai mắt đã mù rồi, làm gì có chuyện đôi mắt sáng quắc?
Thọ Nam Sơn nói phét bị bắt quả tang vội nói: -Vâng, vâng! Chắc có lẽ tiểu
nhân nhìn lầm người.
Trương Vô Kỵ hỏi: -Thế ngươi có thực đã trông thấy lão nhân gia hay không?
Tướng mạo Tạ đại hiệp thế nào ngươi nói cho ta biết.
Thọ Nam Sơn quả thực chưa từng thấy Tạ Tốn bao giờ, biết rằng nếu nói láo
nữa, không khỏi nguy đến tính mạng vội đáp: -Tiểu nhân không dám giấu, kỳ
thực chỉ mới nghe các vị sư huynh nói lại thôi.
Trương Vô Kỵ muốn tra hỏi cho rõ nơi Tạ Tốn bị nhốt, nhưng gặng qua gặng
lại, Thọ Nam Sơn quả thực không biết, có lẽ việc này cơ mật đại sự, những kẻ
tép riu như y không thể nào được can dự vào nên chàng cũng đành chịu.
Cũng may là Tết Đoan Dương còn đến hơn hai tháng nữa, thời giờ còn dài, đợi
cho thương thế khỏi hẳn rồi tìm cách cứu sau, không có gì phải vội vã.
Ba người ở tại Trung Nhạc Thần Miếu mấy ngày, không có chuyện gì xảy ra,
chùa Thiếu Lâm cũng không phái ai đến liên lạc. Đến ngày thứ tám, vết
thương của Triệu Mẫn cũng đã đỡ đến bảy tám phần, còn Trương Vô Kỵ thì
chân khí trong người càng lúc càng thông, chân tay dần dần đã có sức, nếu
như địch nhân có kéo đến, muốn đào tẩu cũng không phải khó khăn gì.
Thọ Nam Sơn tận tâm kiệt lực phục thị hai người, không dám có ý gì khác.
Triệu Mẫn cười nói: -Vạn Thọ Vô Cương, ngươi học võ thì chẳng bằng ai nhưng
làm quản gia thì thật là nhân tài hạng nhất.
Thọ Nam Sơn cười gượng đáp: -Cô nương nói phải lắm.
Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn ngày ngày được ăn những món Thọ Nam Sơn hết
tâm hết sức nấu cho ăn, Trung Nhạc Thần Miếu lúc nào cũng mùi thơm nức
mũi. Lại thêm mươi ngày nữa, hai người thể lực hoàn toàn hồi phục, Trương
Vô Kỵ và Triệu Mẫn liền bàn tính làm sao cứu được Tạ Tốn.
Triệu Mẫn nói: -Đúng ra cách hay nhất là điểm vào tử huyệt của Vạn Thọ Vô
Cương, sai y quay về chùa Thiếu Lâm thăm dò tình hình. Thế nhưng gã này lại
quá ư là vô tích sự, xem ra dễ bị lộ lắm, đâm ra hỏng cả đại sự. Chi bằng
chúng mình đi tới chân núi Thiếu Thất rồi tùy cơ mà hành sự. Có điều mình
phải giả trang mới được.
Trương Vô Kỵ nói: -Giả làm gì bây giờ? Cạo trọc đầu làm hòa thượng, ni cô
chăng?
Triệu Mẫn mặt hơi đỏ lên, sẵng giọng: -Gớm, chàng thật khéo tính toán. Một
tiểu hòa thượng dẫn một tiểu ni cô, ban ngày ban mặt đi dung dăng dung dẻ
thì còn ra trò trống gì?
Trương Vô Kỵ cười: -Thế thì mình giả làm hai vợ chồng nhà quê, đến chân núi
Thiếu Thất cày ruộng, đốn củi.
Triệu Mẫn lại cười: -Anh em không được hay sao? Giả làm vợ chồng nếu như
Chu cô nương trông thấy, vai bên trái của em lại có thêm năm cái lỗ nữa.
Trương Vô Kỵ chỉ cười trừ không dám nói thêm, quay sang hỏi Thọ Nam Sơn kỹ
càng các nơi phòng ốc trong chùa Thiếu Lâm rồi nói: -Trên người ngươi các tử
huyệt bị điểm đã giải hết cả rồi, thôi đi đâu thì đi.
Triệu Mẫn nghiêm nét mặt nói: -Thế nhưng ngươi một đời phải sống ở phương
Nam, chứ nếu thấy băng tuyết là lăn ra chết ngay. Ngươi mau mau về hướng
nam, sống ở nơi nào càng nóng càng tốt, chứ nếu gặp phải phong hàn, bị
trúng gió ho hen là nguy lắm đấy.
Thọ Nam Sơn tưởng thật, bái biệt hai người, ra khỏi miếu là đi về phương
nam. Một đời y quả nhiên chỉ sống ở Lĩnh Nam, giữ gìn cẩn thận, không dám
để cho gió máy, đến triều vua Vĩnh Lạc nhà Minh mới chết, tuy chẳng phải là
Vạn Thọ Vô Cương, nhưng cũng sống dai lắm rồi.
Trương Triệu hai người đợi y đi xa, cố gắng dọn sạch các dấu vết còn lại trong
miếu, đi ra khỏi chừng hai chục dặm, kiếm nhà nông mua quần áo nam nữ,
vào chỗ hoang sơn thay ra, còn quần áo đang mặc đem chôn dưới đất rồi
thủng thẳng đến chân núi Thiếu Thất. Đến cách núi Thiếu Thất chừng bảy
tám dặm, trên đường cũng ba lần gặp các nhà sư trong chùa. Triệu Mẫn nói: –
Mình không nên tới gần hơn nữa.
Nàng thấy ở bên đường đi có hai gian nhà tranh, đằng trước có một mảnh
vườn, một ông già nhà quê đang tưới rau liền nói: -Mình xin ông ta cho ở nhờ.
Trương Vô Kỵ tiến đến gần, vái chào rồi nói: -Xin lỗi lão trượng, anh em chúng
tôi đi đường mỏi mệt, xin cho một bát nước uống.
Ông lão nhà quê làm như không nghe, chẳng nói chẳng rằng cứ hùng hục
gánh thùng nước phân đi tưới rau. Trương Vô Kỵ nói lại một lần nữa, ông lão
vẫn không đáp lời. Bỗng kẹt một tiếng, cửa mở ra, một bà lão tóc trắng như
bông bước ra cười nói: -Nhà tôi vừa điếc vừa câm, khách quan có việc gì thế?
Trương Vô Kỵ đáp: -Em gái cháu đi không nổi, muốn xin một bát nước uống.
Bà lão nói: -Mời hai người vào trong này.
Hai người theo vào trong nhà, thấy phòng ốc sắp đặt thật gọn ghẽ, tuy bàn
ghế chỉ bằng gỗ mộc mạc nhưng lau chùi sạch sẽ, ngay cả quần áo của bà lão
tuy bằng vải thô nhưng cũng giặt gỵa tươm tất. Triệu Mẫn trong bụng vui
mừng, uống bát nước rồi, lấy ra một đĩnh bạc, cười nói: -Bà cụ ơi, anh cháu
dẫn cháu đi thăm bà ngoại, chẳng may đi đường bị trẹo chân, không đi lại
được, hôm nay xin bà bà cho nghỉ nhờ một đêm, đợi sáng mai lại lên đường.
Bà lão nói: -Nghỉ một đêm thì có gì đâu mà phải đưa tiền đưa bạc. Có điều
chúng tôi nhà chỉ một gian, một cái giường, vợ chồng tôi nhường cho cô cậu
nhưng anh em làm sao ngủ chung một giường được? Hà hà, tiểu cô nương, cô
nói thật cho già này nghe đi, có phải cùng nhân tình trốn cha mẹ bỏ nhà ra đi
không nào?
Triệu Mẫn nghe bà lão nói đúng tim đen, mặt đỏ nhừ, nghĩ thầm bà lão này
thật tinh đời, nghe giọng điệu xem ra không phải chỉ là một bà nhà quê tầm
thường, bèn đưa mắt nhìn kỹ thêm một lượt. Chỉ thấy tuy bà ta lưng còng tóc
bạc nhưng hai mắt lấp lánh có thần, xem ra không chừng còn biết võ nghệ.
Triệu Mẫn biết Trương Vô Kỵ trông còn ra dáng nhà nông chứ như mình dung
mạo cử chỉ, ăn nói điệu bộ, thật không giống gái quê chút nào bèn bẽn lẽn
nói: -Bà bà đã đoán ra, cháu cũng chẳng dám giấu. Tăng ca ca đây là bạn
cháu từ tấm bé, bố cháu thấy nhà anh ấy bần hàn nên không chịu gả. Mẹ
cháu thấy cháu toan quyên sinh, nên đứng ra giúp cháu cùng với anh ấy …
anh ấy bỏ nhà đi. Mẹ cháu dặn rằng, qua hai ba năm, chúng cháu có … có con
có cái, lúc ấy hãy về, lúc ấy bố cháu có không chịu cũng không xong.
Nàng nói mà mặt đỏ bừng, thỉnh thoảng lại liếc Trương Vô Kỵ một cái, vẻ đầy
yêu thương, nói tiếp: -Nhà cháu ở Đại Đô cũng có chút tiếng tăm, cha cháu lại
làm quan. Chúng cháu mà bị bắt lại, A Ngưu ca ca thể nào cũng bị cha cháu
đánh chết. Bà bà ơi, cháu nói gì bà bà đừng nói lại với ai nhé.
Bà lão cười ha hả, liên tiếp gật đầu: -Hồi ta còn trẻ cũng có tính phong lưu.
Cháu yên tâm, để ta nhường phòng cho đôi vợ chồng son. Nơi đây vắng vẻ xa
xôi, người nhà cháu không thể nào tìm thấy đâu, mà dẫu có ai làm khó cô cậu
thì bà bà cũng đâu có tụ thủ bàng quan.
Bà lão thấy Triệu Mẫn ôn nhu mỹ miều, vừa gặp đã đem chuyện hai người tư
bôn nói cho bà ta nghe, trong lòng liền có cảm tình nên đã nhất định ra tay
tương trợ, tác thành cho hai người nên duyên.
Triệu Mẫn nghe bà ta nói như thế, biết ngay cũng là nhân vật trong võ lâm, nơi
đây thật gần chùa Thiếu Lâm, không biết bà ta và Thành Côn là bạn hay thù,
thành ra chuyện gì cũng phải dè dặt, không để lộ chút sơ hở nào, bèn sụp
xuống lạy nói: -Bà bà đứng ra lo liệu cho hai đứa cháu, chúng cháu xin đa tạ.
A Ngưu ca ca, mau lại tạ ơn bà bà đi.
Trương Vô Kỵ theo lời chắp tay cám ơn. Bà lão cười hì hì gật đầu, lập tức
nhường phòng của mình, ra ngoài lấy ván xếp thành một cái giường, trải cỏ
lên làm thành một chiếc nệm để nằm. Hai người vào phòng rồi, Trương Vô Kỵ
hạ giọng nói: -Ông cụ tưới rau bản lãnh còn ghê gớm hơn, em có thấy không?
Triệu Mẫn nói: -Ồ, em không nhìn ra.
Trương Vô Kỵ nói: -Ông ta gánh nước phân, đi rất chậm vậy mà hai chiếc
thùng không sóng sánh chút nào, nội lực phải cao cường lắm.
Triệu Mẫn hỏi lại: -Thế so với chàng thì sao?
Trương Vô Kỵ cười: -Để anh thử xem, không biết có được không.
Nói xong liền bồng Triệu Mẫn lên, để ngang trên vai làm như đang gánh nước.
Triệu Mẫn cười khúc khích: -Chao ôi, chàng coi thiếp như gánh phân hay sao?
Bà lão ở bên ngoài nghe tiếng hai người đùa cợt, những gì còn nghi ngại trước
đây đều tiêu tan cả. Tối hôm đó hai người ngồi ăn chung với hai ông bà nhà
quê, thức ăn cũng có thịt gà thịt heo. Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn cố tình làm
như một cặp tình nhân thắm thiết trốn nhà ra đi, thỉnh thoảng len lén nắm tay
nhau, keo sơn không rời được một phút. Lúc đầu hai người chỉ làm bộ, đến
sau thì thành như thật, bà lão nhìn thấy chỉ mỉm cười, còn ông già thì dường
như không để ý, chỉ cắm cúi ăn.
Ăn cơm xong Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn vào phòng, cài then lại. Hai người
trong bữa ăn đùa cợt giả giả thật thật, ngờ đâu cả hai đều động tình. Triệu
Mẫn má đỏ hây hây, nói nhỏ: -Chúng mình chỉ đóng kịch chứ không phải thật
đâu nhé.
Trương Vô Kỵ ôm nàng vào lòng hôn hít, hạ giọng: -Nếu như giả vờ, đôi ba
năm nữa lấy gì có con để bồng về khoe với gia gia?
Triệu Mẫn thẹn thùng hứ một tiếng nói: -Thì ra chàng nấp ở đằng sau, nghe
lén thiếp nói chuyện.
Trương Vô Kỵ tuy nói đùa nàng như thế, nhưng nghĩ lại mình với Chu Chỉ
Nhược có ước định hôn nhân, tuy rằng mai sau lấy được cả hai thì càng tốt
nhưng cũng phải kết hôn với Chu Chỉ Nhược rồi mới tính tới chuyện cùng Triệu
Mẫn nên duyên. Thành thử trong lúc này tuy người ngọc đang ở trong tay,
tình ý triền miên nhưng cũng cố gắng nén lòng, chỉ hôn lên môi lên má rồi đỡ
nàng lên giường, còn mình nằm ở cái chõng đằng trước, điều tức vận công,
đưa Cửu Dương chân khí vòng quanh đủ mười hai lần, rồi lăn ra ngủ.
Còn Triệu Mẫn thì mặt nóng bừng, lòng xao động, trăn trở mãi không sao ngủ
được, mãi đến thật khuya, đang mơ mơ màng màng, bỗng nghe tiếng chân từ
xa đi lại thật nhanh, có ai đó đã đến ngay trước cửa. Nàng vội lay Trương Vô
Kỵ, ngờ đâu chàng cũng đã tỉnh giấc, nắm lấy tay nàng, hai người siết chặt
tay nhau.
Chỉ nghe ở bên ngoài có tiếng người vang lên: -Xin chào hiền kháng lệ nhà họ
Đỗ, cố nhân đêm khuya đến thăm, liệu có vô lễ hay không?
Một lúc sau có tiếng bà lão ở trong nhà nói vọng ra: -Có phải Thanh Hải tam
kiếm đó chăng? Vợ chồng ta từ Xuyên Tây đi trốn tận đây cũng vì sợ Ngọc
Chân Quan các ông. Bọn ta chỉ vì một chuyện nhỏ mà sinh chuyện với các
người, nhưng cũng chẳng có gì thâm cừu đại oán. Việc đã bao nhiêu năm rồi,
Ngọc Chân Quan cớ gì vẫn còn nhất định ép cho bằng được là sao? Người đời
thường nói “Con giun xéo lắm cũng quằn, dồn chó vào chân tường chó cũng
cắn lại?.
Người bên ngoài nghe thế cười sằng sặc, nói: -Nếu quả thực hai vị sợ thì quì
lạy bọn ta ba cái, bao nhiêu chuyện cũ Ngọc Chân Quan sẽ bỏ qua cho không
truy cứu nữa.
Chỉ nghe kẹt một tiếng cửa đã mở ra, bà già nói: -Các ngươi tin tức quả thực
nhanh nhẹn, quả nhiên đã đuổi đến tận nơi đây.
Khi đó mặt trăng mới hơi khuyết, ánh sáng bạc chiếu trên mặt đất, Trương Vô
Kỵ và Triệu Mẫn hai người nhìn theo khe cửa ra, thấy bên ngoài có ba đạo sĩ
đội mũ màu vàng. Người ở giữa râu xồm đâm tua tủa, vừa mập vừa lùn, nói: –
Hiền kháng lệ muốn khấu đầu tạ tội hay muốn dùng song câu và liên tử
thương một phen sống mái?
Bà lão chưa kịp trả lời, ông già câm điếc đã hung hăng bước ra, đứng ngay
trước cửa, tay chống nạnh, khinh khỉnh nhìn ba gã đạo nhân. Bà già cũng đi
theo đứng ngay bên cạnh chồng.
Đạo nhân râu xồm hỏi: -Đỗ lão tiên sinh sao không thấy mở lời? Hay là không
thèm nói chuyện với Thanh Hải tam kiếm?
Bà già đáp: -Chuyết phu tai đã điếc rồi, không nghe ba vị nói gì đâu.
Gã đạo nhân râu xồm?Ồ? lên một tiếng nói: -Cái tài thính phong biện khí của
Đỗ lão tiên sinh vốn là tuyệt nghệ trong võ lâm, làm sao tai lại bị điếc? Tiếc
thay, tiếc thay!
Gã đạo sĩ cũng mập đứng bên cạnh rút soẹt kiếm ra nói: -Đỗ Bách Đương,
Dịch Tam Nương hai người sao không dùng binh khí?
Bà già Dịch Tam Nương đáp: -Mã đạo trưởng, tính tình ông vẫn còn nóng nảy.
Còn Thiệu đạo trưởng, mấy năm không gặp, đầu tóc nay cũng đã hoa râm rồi.
Ha ha! Chuyện nhỏ như thế mà nhìn cũng không ra, sao mà khổ đến thế?
Hai tay bà ta đột nhiên vung lên, ánh sáng lấp lánh, mỗi tay cầm ba con dao
dài chưa đầy nửa thước, tất cả sáu thanh. Ông già câm điếc Đỗ Bách Đương
cũng vung tay, trong hai tay cũng đã cầm sẵn sáu thanh đoản đao từ bao giờ.
Chỉ thấy ông ta tung dao từ tay phải lăn qua tay trái, tay trái lăn qua tay phải,
chẳng khác gì hai bàn tay đan vào nhau, thật là thuần thục.
Ba đạo nhân ngạc nhiên, trong võ lâm chưa từng thấy loại binh khí như thế
này bao giờ, là phi đao chăng nhưng phi đao cũng đâu có thủ pháp như vậy.
Đỗ Bách Đương vốn nổi tiếng Xuyên Tây về môn song câu, còn vợ ông ta Dịch
Tam Nương quen dùng liên tử thương, bây giờ hai vợ chồng lại bỏ môn binh
khí đã từng sử dụng mấy chục năm qua, như thế mười hai con dao này hẳn
chiêu số phải rất lợi hại, rất quái dị.
Gã đạo sĩ mập Mã Pháp Thông vung trường kiếm một cái, cất tiếng ngâm một
câu thơ: -Tam Tài kiếm trận Thiên Địa Nhân.
Gã đạo sĩ râu ngắn Thiệu Hạc liền đọc tiếp: -Điện trục tinh trì xuất Ngọc Chân.
Ba đạo sĩ liền bước giãn ra, lập tức vây Đỗ thị nhị lão vào giữa. Trương Vô Kỵ
thấy ba đạo nhân lúc qua trái lúc qua phải, chạy ngang chạy dọc, tưởng như
tam tài mà không phải tam tài, ba thanh trường kiếm dệt thành một cái lưới
hào quang, nhưng chưa ra chiêu tấn công đối phương. Mãi đến khi ba đạo sĩ
chạy được bảy tám bước rồi, Trương Vô Kỵ mới nhìn ra đạo lý bên trong, nghĩ
thầm “Ba tên đạo sĩ này thực là giảo hoạt, mồm thì nói là Tam Tài kiếm trận, kỳ
thực ngầm sử dụng chính phản ngũ hành. Nếu như kẻ địch tưởng thật, cứ
theo phương vị thiên địa nhân của tam tài mà phá giải thì sẽ bị rơi vào trận
ngũ hành, khó mà thoát chết.
Ba người này bày Ngũ Hành kiếm trận, mỗi người đảm trách sinh khắc biến
hóa một hoặc hơn một hành, kết hợp cả khinh công lẫm kiếm pháp, quả thực
uy lực không phải tầm thường.
Còn vợ chồng họ Đỗ hai người dựa lưng vào nhau, bốn cánh tay lấp loáng,
mười hai thanh đoản đao đổi qua đổi lại múa may, hai người không phải chỉ tay
nọ đổi cho tay kia, mà đao của Đỗ Bách Đương cũng đổi qua tay của Dịch Tam
Nương, đao của Dịch Tam Nương cũng đổi qua tay của Đỗ Bách Đương nhưng
không thanh đao nào tuột tay ra ngoài, như hư như thực chạy qua chạy lại.
Triệu Mẫn nhìn xem thấy lạ lùng, hỏi nhỏ: -Bọn họ đang làm trò gì thế?
Trương Vô Kỵ nhíu mày không trả lời, xem thêm một hồi nữa bỗng nói: -À, anh
nghĩ ra rồi, bọn họ sợ môn Sư Tử Hống của nghĩa phụ anh.
Triệu Mẫn hỏi lại: -Sư Tử Hống là cái gì?
Trương Vô Kỵ gật gù liên tiếp, bỗng cười nhạt nói: -Hừ, tài nghệ chỉ có thế
này, vậy mà cũng đòi đồ sư phục hổ ư?
Triệu Mẫn không hiểu chàng định nói gì, gặng hỏi thêm: -Chàng nói cái gì mà
như câu đố thế? Cứ lẩm bẩm một mình khiến em nghe chẳng hiểu mô tê gì
cả?
Trương Vô Kỵ hạ giọng nói thầm: -Cả năm người này đều là kẻ thù của nghĩa
phụ anh. Ông già kia sợ thần công Sư Tử Hống nên tự mình đâm cho điếc tai
…
Chỉ thấy leng keng leng keng ròn như tiếng liên châu, năm người đã ra tay đấu
với nhau. Thanh Hải tam kiếm liên tiếp tấn công năm thức nhưng đều bị vợ
chồng họ Đỗ gạt ra cả. Mười hai thanh đoản đao trong tay họ đổi qua đổi lại,
dưới ánh trăng tạo thành ba vòng hào quang, quấn chung quanh người, thủ
hộ cực kỳ nghiêm mật. Thanh Hải tam kiếm tấn công lâu không ăn thua gì liền
đổi qua thủ ngự, Đỗ Bách Đương thấy thế liền tiến lên, đoản đao đâm luôn
vào bụng dưới gã đạo sĩ nhỏ bé Thiệu Hạc.
Trong võ học có nguyên tắc là “Dài một tấc, mạnh một tấc, ngắn một tấc, hiểm
một tấc”. Đoản đao dài bất quá năm tấc thành ra nguy hiểm vô cùng, y soẹt
soẹt soẹt đâm luôn ba nhát, toàn là đòn sát thủ tấn công, không phòng bị
thân mình chút nào. Trường kiếm của Mã Pháp Thông và Thiệu Hạc liền đâm
ra nhưng đều bị Dịch Tam Nương dùng đoản đao gạt ra được, mới hay hai vợ
chồng ông ta luyện đao pháp này, một công một thủ, phối hợp rất chặt chẽ
cẩn mật, người tấn công cứ việc tấn công, người phòng thủ cứ việc phòng
thủ, không phải đảm trách cả hai bề. Thiệu Hạc bị đâm luôn ba lần, chân tay
luống cuống, phải lùi liên tiếp. Đỗ Bách Đương vẫn tiếp tục tấn công vào
người y, mũi đao nào cũng nhắm toàn chỗ yếu hại, càng lúc càng thêm nguy
hiểm.
Thiệu Hạc hú lên một tiếng dài, kiếm chiêu liền biến đổi, cùng với kiếm của Mã
Pháp Thông hai bên tấn công vào, kết với nhau thành một cái lưới, chặn Đỗ
Bách Đương ở ngoài xa ba thước. Ba thanh kiếm phòng bị chặt chẽ, tưởng
chừng có tạt nước cũng không vào nổi.
Trương Vô Kỵ lại cười khẩy một tiếng, ghé tai Triệu Mẫn nói nhỏ: -Cả đao pháp
lẫn kiếm pháp này đều tập luyện chỉ để đối phó với nghĩa phụ anh đó. Em coi
họ đều thủ nhiều công ít, thủ mạnh hơn công thì có đánh nhau đến một ngày
một đêm cũng chẳng ai thắng được ai.
Quả nhiên Đỗ Bách Đương công mấy lần không vào được, lại từ bỏ để quay về
thủ ngự. Triệu Mẫn nói: -Kim Mao Sư Vương võ công trác tuyệt, năm gã này
chỉ thủ thì làm sao mà thắng cho được?
Năm người đao qua kiếm lại, biến đổi bảy tám loại chiêu số nhưng vẫn không
mèo nào cắn mỉu nào. Mã Pháp Thông đột nhiên quát lớn: -Ngừng tay!
Y nhún chân nhảy ra khỏi vòng, Đỗ Bách Đương cũng nhảy lùi về sau, chòm
râu bạc phất phới, xem ra có uy thế lắm. Mã Pháp Thông nói: -Pho đao pháp
này của hiền kháng lệ, có phải tập luyện cốt để giết sư tử đấy chăng?
Dịch Tam Nương hừ một tiếng nói: -Nhãn quang nhà ngươi quả là lợi hại.
Mã Pháp Thông nói: -Hiền kháng lệ với Tạ Tốn có mối thù giết con, đại cừu đó
không thể nào không báo. Thế sao đã thám thính được kẻ đối đầu nay đang ở
trong chùa Thiếu Lâm, cớ sao không cứu y ra để thanh toán?
Dịch Tam Nương liếc y dò hỏi rồi nói: -Đó là chuyện riêng của vợ chồng ta, đâu
dám để đạo trưởng phải nhọc lòng nghĩ ngợi.
Mã Pháp Thông nói: -Chuyện qua lại giữa Ngọc Chân Quan và hiền phu phụ,
đúng như Dịch Tam Nương mới nói, chẳng qua chỉ là chuyện nhỏ không đáng
gì, lẽ nào phải thí mạng với nhau? Chúng mình chi bằng đổi thù thành bạn, sát
vai nhau cùng đi kiếm Tạ Tốn có hơn chăng?
Dịch Tam Nương nói: -Ngọc Chân Quan có dây dưa gì với Tạ Tốn thế?
Mã Pháp Thông nói: -Dây dưa thì chẳng dây dưa gì cả, hà hà!
Dịch Tam Nương hỏi: -Nếu như không có thù oán gì với Tạ Tốn, sao lại khổ tâm
ra sức luyện môn kiếm pháp đó làm chi? Chúng ta hai bên chiêu số vốn cùng
một gốc, đều chỉ dùng để khắc chế Thất Thương Quyền mà thôi.
Mã Pháp Thông đáp: -Nhãn lực của Dịch Tam Nương thật ghê gớm. Nói gần
nói xa chẳng qua nói thật, Ngọc Chân Quan chỉ muốn mượn thanh đao Đồ
Long xem chơi một chút thôi.
Dịch Tam Nương gật đầu, đưa ngón tay viết lên lòng bàn tay Đỗ Bách Đương
mấy chữ. Đỗ Bách Đương cũng đưa tay viết lại mấy chữ lên tay bà ta. Hai vợ
chồng dùng tay thay lưỡi, đàm thoại một hồi. Dịch Tam Nương nói: -Vợ chồng
tôi chỉ mong báo thù, dẫu có phải bỏ mạng cũng cam lòng, thanh đao Đồ Long
không có ý tơ hào.
Mã Pháp Thông mừng nói: -Thế thì hay lắm. Năm người chúng ta liên thủ tiến
vào chùa Thiếu Lâm, hiền phu phụ giết người báo cừu, còn Ngọc Chân Quan
lấy thanh đao. Tề tâm hiệp lực thì đại công dễ thành, hai bên bên nào cũng
toại ý, không tổn thương hòa khí.
Sau đó năm người đập tay ước định, cùng cất tiếng thề nguyền. Vợ chồng họ
Đỗ mời ba đạo sĩ vào nhà để bàn thảo kế sách báo thù đoạt đao. Thanh Hải
tam kiếm tiến vào ngồi xuống rồi, thấy phòng bên trong đóng chặt cửa, không
thể không đòi vào xem cho kỹ. Dịch Tam Nương cười nói: -Ba vị không có gì
phải nghi ngại, đây là một đôi vợ chồng son từ Đại Đô xuống, trốn nhà ra đi,
đứa con gái đẹp như ngọc nữ, còn đứa con trai thì hình dáng thô lỗ, cả hai
không ai biết tí võ công nào.
Mã Pháp Thông nói: -Tam nương đừng trách, chẳng phải chúng tôi không tin ở
hai ông bà, có điều chúng ta tính toán một chuyệt thật là trọng đại, có điều
xung khắc với hào kiệt võ lâm, nếu như để tin tức lộ ra, e rằng …
Dịch Tam Nương cười nói: -Bọn mình đánh nhau cả nửa ngày trời mà hai đứa
chúng nó vẫn ngủ như khúc gỗ. Thế nhưng Mã đạo trưởng muốn cẩn thận cho
chắc, muốn chính mắt xem lại cũng không sao.
Nói xong tiến lại đẩy cửa nhưng cửa đó có cài then bên trong. Trương Vô Kỵ
muốn từ năm ngưới này dò la mối manh để cứu Tạ Tốn nên lúc này không
muốn ra tay, lập tức lật đật tháo giày, lấy chăn đắp lên người giả vờ ôm Triệu
Mẫn ngủ trên giường. Chỉ nghe cạch một tiếng nhỏ, then cửa đã bị Thiệu Hạc
sử kình chấn gãy. Dịch Tam Nương tay cầm chân nến, tiến vào phòng, Thanh
Hải tam kiếm liền bước theo sau.
Trương Vô Kỵ thấy có ánh lửa, mắt nhắm mắt mở choàng dậy ngơ ngác nhìn
Dịch Tam Nương ra chiều hoảng hốt. Mã Pháp Thông giơ kiếm lên đâm ngay
vào yết hầu chàng, ra chiêu vừa nhanh vừa hiểm độc. Trương Vô Kỵ “A” lên
một tiếng kinh hoàng, thân trên nhào về trước, hóa ra đưa cổ vào mũi kiếm.
Mã Pháp Thông rụt tay thu kiếm về, nghĩ thầm người này quả không biết chút
võ công nào hết, nếu như người biết võ dù mật lớn đến đâu cũng không ai
không tránh thế kiếm đó.
Triệu Mẫn ậm ự mấy tiếng, chưa tỉnh giấc hẳn, đôi má hồng hồng, ánh nến
chiếu vào xinh đẹp quả khiến xiêu lòng người. Thiệu Hạc nói: -Dịch Tam Nương
nói không sai, thôi mình đi ra.
Năm người liền khép cửa lại đi ra phòng ngoài. Trương Vô Kỵ liền nhảy xuống,
xỏ giày vào. Chỉ nghe Mã Pháp Thông nói: -Không biết hiền kháng lệ biết có
chính xác là Tạ Tốn đúng là đang ở trong chùa Thiếu Lâm chăng?
Dịch Tam Nương đáp: -Cái đó thì chắc chắn là đúng. Chùa Thiếu Lâm đã gửi
anh hùng thiếp đi, đến tết Doan Dương này sẽ mở đại hội Đồ Sư, nếu như họ
chưa bắt được Tạ Tốn thì còn mặt mũi nào với anh hùng thiên hạ?
Mã Pháp Thông?Ừ? một tiếng nói: -Không Kiến thần tăng của phái Thiếu Lâm
chết về tay Tạ Tốn, đệ tử Thiếu Lâm dù tăng dù tục, không thể không báo
thù. Hiền kháng lệ chỉ cần đợi đến tết Đoan Dương vào trong chùa, giương
mắt lên xem kẻ thù giơ cổ chịu chém, chẳng tốn chút hơi sức nào cũng đã trả
được mối huyết thù đó rồi. Đỗ lão tiên sinh việc gì phải hủy đôi tai, lại cam đắc
tội với chùa Thiếu Lâm để làm gì?
Dịch Tam Nương cười khẩy đáp: -Chuyết phu chọc thủng hai tai là từ năm năm
trước rồi. Hơn nữa, đứa con duy nhất của vợ chồng tôi có tội tình gì đâu mà bị
ác tặc Tạ Tốn giết hại, hai người chúng ta đối với y thù sâu như biển, báo
phục mối thù to như thế đâu lẽ nào lại phải mượn tay người khác hay sao? Một
khi bọn ta mà gặp được tên ác tặc Tạ Tốn rồi, việc đầu tiên của lão bà này là
chọc thủng hai tai mình. Vợ chồng ta chỉ mong được cùng y đồng qui ư tận,
ha ha, từ khi đứa con ta chết đi rồi, hai người chúng tôi đâu còn ham gì sống
nữa. Đắc tội với Thiếu Lâm cũng thế, đắc tội với Võ Đương cũng vậy, dẫu có
băm vằm trăm nghìn vết đao thì cũng đâu có gì đáng nói đâu?
Trương Vô Kỵ ở phòng trong nghe bà ta nói thấy giọng đầy căm thù khiến
người ta phải kinh hồn táng đảm, nghĩ thầm “Năm xưa nghĩa phụ bị Thành
Côn làm hại, bao nhiêu oán hờn trút lên những người vô tội. Hai vợ chồng họ
Đỗ này xem ra không phải là người xấu, chỉ vì lòng thương đứa con yêu chết
thảm, cho nên rắp tâm giết nghĩa phụ để báo cừu. Mối thù này nếu bảo cố
gắng hòa giải thì thật không thể nào được. Ta chỉ còn cách cứu nghĩa phụ ra
trốn đi một nơi thật xa để khỏi phải tăng thêm tội nghiệt”.
Lúc này bỗng thấy năm người ở phòng bên không có một chút tiếng động nào,
chàng nhìn qua khe vách, thấy vợ chồng họ Đỗ và bọn Mã Pháp Thông ba
người chấm tay vào nước trà, viết chữ lên trên bàn, nghĩ thầm “Năm người
này quả thực cẩn thận, tuy đã tin rằng ta và Mẫn muội không phải người trong
giới giang hồ nhưng vẫn sợ tiết lộ cơ mật. Than ôi! Nghĩa phụ ta kẻ thù trên
giang hồ thật vô kể, kẻ dòm dỏ thanh đao Đồ Long cũng thật là nhiều, từ nay
cho đến tiết Đoan Dương không biết bao nhiêu người muốn ra tay trước. Mấy
người này không những khổ tâm tính toán mà tài nghệ cũng cao cường, ra tay
ác độc, chùa Thiếu Lâm chỉ cần sơ sẩy một chút là nghĩa phụ ta đã lâm vào đại
họa ngay, mình phải tìm cách cứu ông ra mới được”.
Năm người kia vẫn dùng tay viết chữ, bàn thảo một cách kín đáo không
ngừng. Trương Vô Kỵ bèn quay trở vào tấm phản nằm ngủ không thèm để ý
đến bọn họ nữa.
Sáng hôm sau khi trở dậy thì Thanh Hải tam kiếm không còn ở đây, Trương Vô
Kỵ nói với Dịch Tam Nương: -Bà bà, tối hôm qua ba vị đạo gia tay cầm dao
sáng quắc, ở đâu đến vậy? Mới đầu chúng cháu tưởng họ đến tróc nã mình,
sợ quá mất thôi, sau mới biết là không phải.
Dịch Tam Nương thấy chàng nhìn trường kiếm thành ra con dao, trong bụng
cười thầm, thản nhiên nói: -Bọn họ lạc đường, chỉ uống xong chén trà là đi
mất. Tăng tiểu ca, ăn cơm trưa xong, vợ chồng ta muốn đem ba gánh củi lên
chùa bán, cậu gánh giúp chúng tôi một gánh được không? Nếu các hòa
thượng hỏi đến tôi sẽ bảo cậu là con tôi. Không phải là tôi muốn lợi dụng cậu
đâu nhưng để cho những nhà sư trong chùa khỏi nghi. Vợ cậu xinh đẹp như
thế, chớ có nên đi theo ra ngoài.
Tuy bà ta bàn với Trương Vô Kỵ như thế nhưng thật chẳng khác gì ra lệnh nào
có để cho chàng từ chối. Trương Vô Kỵ nghe xong hiểu ngay ý tứ “Bà ta lại
tưởng mình là một anh nhà quê thực, nên bảo mình đi theo vào chùa Thiếu
Lâm xem xét động tĩnh, thực là hay quá”. Chàng liền nói: -Bà bà bảo sao thì
tiểu tử làm vậy, miễn sao bà cho hai đứa cháu ở nhờ. Chúng cháu chạy đôn
chạy đáo, lúc nào cũng nơm nớp chẳng ngày nào được bình yên.
Đến xế trưa, Trương Vô Kỵ đi theo vợ chồng họ Đỗ, mỗi người gánh một gánh
củi, đi về hướng chùa Thiếu Lâm. Chàng đầu đội nón mê, lưng cài búa ngắn,
hai chân xỏ dép gai, trong ba người thì gánh củi của chàng to nhất. Triệu Mẫn
đứng ở thềm nhà, mỉm cười đưa mắt tiễn chàng đến tận xa.
Vợ chồng họ Đỗ cố đi thật chậm, thở hồng hộc, đến sơn đình ngoài chùa
Thiếu Lâm, liền bỏ quang gánh xuống ngồi nghỉ. Trong sơn đình có hai nhà sư
đang ngồi tán gẫu, thấy ba người cũng chẳng thèm để ý.
Dịch Tam Nương lấy chiếc khăn thô quấn trên đầu xuống lau mồ hôi, lại đưa
qua lau mồ hôi cho Trương Vô Kỵ hỏi: -Có mệt lắm không con?
Trương Vô Kỵ lúc đầu không thích bà ta, nay nghe lời nói đầy vẻ thân tình,
không phải giả vờ nên đưa mắt nhìn thấy bà lão nước mắt long lanh, biết bà ta
nhớ đến đứa con bị Tạ Tốn sát hại, lại thấy bà ta nhìn mình đầy vẻ trìu mến,
dường như muốn mình lên tiếng trả lời, trong lòng không khỏi bất nhẫn, liền
đáp: -Thưa mẹ, con không mệt, còn mẹ có mệt không?
Chàng lên tiếng gọi mẹ, nghĩ đến mẹ ruột mình, không khỏi thương cảm. Dịch
Tam Nương thấy chàng gọi mình là mẹ, nước mắt rơi lã chã, liền giả vờ lấy
khăn lau mồ hôi nhưng thực ra là để chùi nước mắt.
Đỗ Bách Đương đứng lên, cất gánh củi lên vai, tay trái vẫy một cái liền đi ra
khỏi sơn đình. Tuy ông ta không nghe thấy hai người nói gì, nhưng cũng biết
bà vợ già nhân cảnh mà động lòng, nhớ đến con, sợ không chừng lộ chuyện,
để cho hai nhà sư kia nhìn ra chân tướng.
Trương Vô Kỵ chạy lại lấy hai bó củi trong gánh của Dịch Tam Nương bỏ lên
gánh của mình nói: -Thôi mình đi mẹ ạ!
Dịch Tam Nương thấy chàng có ý tứ thế nghĩ thầm “Nếu con ta có còn sống
đến nay thì đã lớn tuổi hơn thanh niên này nhiều, chắc mình cũng đã có mấy
đứa cháu nội rồi”. Bà ta tần ngần không muốn bước đi, thấy Trương Vô Kỵ
gánh củi chạy ra khỏi sơn đình mới đuổi theo, trong lòng khích động khiến
chân bước cũng loạng choạng. Trương Vô Kỵ liền quay lại giơ tay ra đỡ, nghĩ
thầm “Nếu như mẹ ta ngày nay còn sống mà ta được đưa tay đỡ mẹ thế này
…?
Một nhà sư thấy thế nói: -Chàng thanh niên này thật là hiếu thuận, quả trên
đời hiếm có.
Nhà sư kia nói tiếp: -Bà lão ơi, gánh củi có phải bà định gánh lên chùa bán đấy
chăng? Mấy hôm nay phương trượng hạ pháp chỉ, không cho người ngoài vào
trong chùa, thôi bà đừng lên nữa.
Dịch Tam Nương thất vọng, nghĩ thầm “Chùa Thiếu Lâm quả nhiên phòng bị
thật nghiêm mật, muốn lẻn vào không phải dễ dàng”. Đỗ Bách Đương đã chạy
được mấy trượng rồi thấy hai người không đi theo liền ngừng lại đứng đợi.
Một nhà sư nói: -Gia đình nhà quê này mẹ hiền con thảo, thôi mình cứ để dãi
cho họ một tí. Sư đệ, chú đưa họ vào cửa sau đến hương tích trù, nếu như
giám thủ biết thì cứ nói là những người này vẫn thường đến bán củi, chắc
không đến nỗi nào.
Nhà sư kia đáp lời: -Vâng! Giám thủ không cho người ngoài vào chùa, là để đề
phòng những kẻ vô công rồi nghề. Còn những người này là nhà quê trung hậu
thật thà, có gì đâu mà phải cấm đoán họ làm ăn?
Nói xong y liền dẫn đường cho vợ chồng họ Đỗ và Trương Vô Kỵ, đi vòng ra
sau núi vào chùa, đem ba gánh củi xếp vào trong kho, sau đó nhà sư trông coi
hương tích trù tính toán tiền nong ra trả. Dịch Tam Nương nói: -Chúng tôi có
cải bẹ trắng thật ngon, ngày mai sai A Ngưu đem đến vài cân để cho các sư
phó nếm thử, chỗ này không tính tiền.
Nhà sư đưa họ đến bèn cười: -Từ mai trở đi, các người không được đến nữa.
Giám thủ mà biết được, trách phạt chúng tôi thì chết.
Nhà sư coi sóc hương tích trù nhìn Trương Vô Kỵ đánh giá, bỗng nói: -Vào độ
trước sau tiết Đoan Dương, nhà chùa có khoảng hơn ngàn vị khách, gánh
nước bổ củi xem chừng không xuể. Huynh đệ này tướng tá khỏe mạnh, lại đây
giúp việc vài tháng, mỗi tháng trả cho năm tiền có chịu không?
Dịch Tam Nương mừng lắm, vội nói: -Thế thì tốt quá rồi, A Ngưu ở nhà cũng
không có việc gì quan trọng, đến chùa đây cho các sư phó sai phái các chuyện
vặt, lại có thêm mấy lượng bạc để dành thì còn gì bằng.
Trương Vô Kỵ nghĩ ra không ổn “Chùa Thiếu Lâm có nhiều người biết mặt ta, lỡ
bất ngờ đến trù phòng thì hỏng cả, ở trong chùa hai ba tháng thể nào cũng có
người nhận ra”. Chàng bèn nói: -Mẹ ơi, còn nhà con …
Dịch Tam Nương nghĩ đây đúng là chuyện nghìn năm một thuở, chỉ có thể may
mà gặp chứ không thể cầu mà tới vội vàng nói: -Thì vợ con cứ ở nhà, hay mày
sợ mẹ mày hành hạ nó? Con cứ ở đây, nghe lời sai bảo của các sư phó, không
được lười biếng, cứ vài ngày mẹ sẽ lại cùng với vợ con đến thăm một lần. Con
nhà lớn đầu như thế mà xa mẹ một buổi cũng không xong, hay mày còn mong
mẹ mày cho bú, xi đái mới chịu hay sao?
Bà ta vừa nói vừa giơ tay vò đầu Trương Vô Kỵ, hai mắt đầy vẻ thiết tha lưu
luyến. Nhà sư trông coi nhà bếp lâu nay lo lắng, nghĩ đến chuyện trước sau đại
hội Đoan Dương, thiên hạ anh hùng tụ hội, chuyện cơm ăn nước uống không
phải dễ dàng. Giám thủ tuy cũng đã tăng viện thêm nhiều người đến giúp việc
nhưng những hòa thượng đó nếu không chăm chỉ tham thiền thanh tu thì
cũng nghiên cứu võ nghệ, những chuyện tạp nhạp nhà bếp có ai chịu làm.
Những người bị giám thủ sai đến chẳng qua chuyện chẳng đặng đừng, thành
ra xuống đến hương tích trù ai cũng ra vẻ ta đây, đứng coi thì nhiều, thò tay
vào làm thì ít, lúc này thì cũng chẳng sao nhưng khi khách khứa kéo đến thể
nào cũng rắc rối to. Nay vừa thấy Trương Vô Kỵ có vẻ chất phác chăm chỉ, nhà
sư trông coi nhà bếp liền có ý muốn giữ chàng lại nên vội vàng lên tiếng
khuyên lơn. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm “Ban ngày mì chỉ quanh quẩn trong bếp,
chắc chẳng gặp cao thủ trong chùa đâu, đến đêm mình sẽ tìm cách thám
thính xem nghĩa phụ ở chỗ nào, xem ra cũng tiện”. Thế nhưng chàng vẫn cố ý
ra vẻ trù trừ, đợi cho đến khi nhà sư dẫn chàng vào chùa đứng bên cạnh cũng
lên tiếng nói đốc vào, chàng mới miễn cưỡng nhận lời, nói: -Sư phụ, tốt hơn
hết là mỗi tháng sư phụ trả cho tôi sáu tiền, năm tiền tôi đưa cho mẹ tôi, còn
một tiền tôi cho vợ tôi mua vải hoa …
Nhà sư trông coi nhà bếp nghe thế liền cười ha hả nói: -Được rồi, thế là hai
bên ba mặt một lời, mỗi tháng sáu tiền cũng được.
Dịch Tam Nương lại dặn dò mấy câu rồi mới cùng Đỗ Bách Đương chậm rãi đi
xuống núi. Trương Vô Kỵ đuổi theo gọi vói theo: -Mẹ ơi, mẹ chăm sóc vợ con
nhé!
Dịch Tam Nương đáp: -Mẹ biết rồi, con cứ yên tâm.
Trương Vô Kỵ ở trong nhà bếp bổ củi xúc tro, nhóm lửa xách nước, toàn
những việc không lấy gì làm thích thú. Khi xúc tro chàng cố ý để cho mặt mày
lem luốc, đầu tóc bù xù, nhìn vào trong chum nước thấy bóng mình thật không
ai còn có thể nhận ra. Đến đêm chàng cùng các hỏa công khác ngủ tại một
phòng nhỏ ngay trong hương tích trù. Chàng biết chùa Thiếu Lâm là nơi ngọa
hổ tàng long, rất có thể ngay trong đám đầu bếp cũng có người thân mang
tuyệt kỹ thành thử việc gì cũng hết sức cẩn thận, cả đến nói chuyện cũng
chẳng dám rỉ răng quá một lời.
Cứ như thế được bảy tám ngày, Dịch Tam Nương đưa Triệu Mẫn đến thăm
chàng hai lần. Chàng chăm chỉ, từ sáng đến tối, việc gì xốc vác mấy cũng làm
thành ra nhà sư trông coi hương tích trù hết sức hài lòng, đối với các đầu bếp
khác cũng thật là hòa mục. Chàng không dám dò hỏi, chỉ lắng tai nghe những
người khác nói chuyện may ra biết được chút tin tức nào chăng, trong bụng
nghĩ thầm thể nào chẳng có người đưa cơm cho nghĩa phụ, nếu như gặp được
người đó thì có thể hỏi được nơi giam giữ Tạ Tốn. Thế nhưng chàng cố gắng
chờ đợi bao nhiêu ngày nhưng vẫn chẳng nghe được manh mối gì cả.
Đến chiều tối ngày thứ chín, chàng ngủ đến nửa đêm, bỗng nghe từ xa
khoảng nửa dặm văng vẳng vọng tới tiếng người hò hét, bèn len lén trở dậy,
bốn bề không ai hay biết liền thi triển khinh công, theo âm thanh mà lần tới,
thấy tiếng từ khu rừng phía bên trái chùa nên tung mình nhảy lên một cây to,
xem xét kỹ sau cây không có ai mai phục mới từ đó nhảy qua cây khác, dần
dần tiến tới.
Khi đó trong rừng tiếng binh khí chạm nhau, dường như có mấy người đánh
nhau ở một chỗ. Chàng náu mình sau tàn cây chỉ thấy đao quang tung hoành,
kiếm ảnh thấp thoáng, tất cả sáu người chia thành hai bên đang đánh nhau.
Ba người sử dụng kiếm chính là Thanh Hải tam kiếm, sắp xếp Chính Phản Ngũ
Hành giả làm Tam Tài Trận, thủ thế thật là nghiêm mật. Phe tấn công là ba
nhà sư, tất cả đều sử dụng giới đao, xông thẳng vào phá trận. Hai bên đánh
được hai ba chục chiêu, nghe soẹt một tiếng, một người trong Thanh Hải tam
kiếm bị trúng đao ngã lăn ra. Giả Tam Tài Trận bị vỡ một mặt, hai người kia
không còn cách gì chống đỡ, chỉ thêm vài chiêu, một người khác “Ối” lên một
tiếng thảm thiết, bị chém chết ngay, nghe giọng thì là gã lùn mập Mã Pháp
Thông. Người còn lại tay phải cũng bị thương nhưng vẫn nhất quyết tử chiến.
Một nhà sư quát khẽ: -Ngừng tay!
Ba thanh giới đao vây y lại nhưng không tiếp tục tấn công. Một giọng già nua
gay gắt hỏi: -Các ngươi Thanh Hải Ngọc Chân Quan và chùa Thiếu Lâm chúng
ta không thù không oán, sao nửa đêm đến đây xâm phạm là sao?
Người còn lại trong ba người của phái Thanh Hải là Thiệu Hạc, buồn bã nói: –
Ba sư huynh đệ bọn ta đã thua rồi, chỉ oán mình học nghệ chưa tinh, còn hỏi
han làm gì?
Người giọng già nua kia cười khẩy: -Các ngươi vì Tạ Tốn mà đến đây, chắc
muốn lấy thanh đao Đồ Long chứ gì? Ha ha, ta chưa từng nghe Tạ Tốn giết ai
trong Ngọc Chân Quan, thì hẳn là vì bảo đao mà đến. Với tài nghệ như trẻ con
thế mà cũng xông vào chùa Thiếu Lâm ư? Phái Thiếu Lâm là lãnh tụ võ lâm đã
hơn nghìn năm nay, không ngờ lại bị người ta coi thường đến thế.
Thiệu Hạc lợi dụng khi y đang cao hứng liền đâm vụt ra một kiếm. Nhà sư kia
vội vàng tránh qua nhưng vẫn chậm mất một chút, kiếm đâm ngay vào vai bên
trái. Hai tăng nhân ở hai bên liền vung đao chém xuống, Thiệu Hạc liền lập tức
đầu một nơi mình một nẻo.
Ba nhà sư không nói nửa lời, nhặt mấy cái xác lên, vội vàng đi về phía chùa.
Trương Vô Kỵ toan đuổi theo xem ra thế nào, bỗng nghe trong đám cỏ cao ở
phía bên phải đằng trước có tiếng thở nhè nhẹ, nghĩ thầm “Nguy hiểm thực,
hóa ra có người ẩn núp nơi đây”. Chàng liền nằm yên không động đậy, qua
khoảng nửa giờ sau, mới nghe trong bụi cỏ có hai tiếng vỗ tay, đằng xa cũng
có người vỗ tay đáp lại, trước sau trên dưới có sáu nhà sư trồi lên, kẻ cầm
thiền trượng, người mang đao kiếm, chia ra thành hình nan quạt quay trở về
chùa.
Trương Vô Kỵ đợi cho sáu tăng nhân đó đi xa rồi mới quay về nhà bếp, những
người ngủ chung vẫn đang ngon giấc chưa ai thức dậy. Chàng trong bụng
than thầm “Nếu như không phải chính mắt ta trông thấy thì có ai ngờ đâu chỉ
trong giây lát, ba hảo hán kia đã bị giết chết không kịp trối trăn”. Từ đó trở đi,
chàng biết rằng chùa Thiếu Lâm phòng bị rất là nghiêm nhặt không phải bình
thường nên lại càng cẩn thận hơn nữa.
Lại thêm vài ngày nữa đã đến trung tuần tháng tư, thời tiết ấm dần, mỗi ngày
lại gần tiết Đoan Dương thêm một chút. Chàng tự nhủ “Ta ở trong hương tích
trù làm những việc cực nhọc này, vậy mà cũng không sao dò hỏi được nghĩa
phụ đang ở nơi đâu, tối nay phải mạo hiểm đi các nơi tra xét mới được”.
Đêm hôm đó chàng ngủ đến canh ba liền len lén trở dậy, tung mình nhảy lên
mái nhà, nấp sau nóc chùa, đợi tới khi vừa yên ổn đã thấy hai bóng người nhẹ
nhàng lướt từ phía nam chạy về hướng bắc, tăng bào phần phật, giới đao
sáng loáng chính là những nhà sư trong chùa đi tuần ngang qua.
Đợi cho hai nhà sư đó qua khỏi rồi, chàng tiến lên vài trượng lại nghe trên mái
ngói có tiếng chân người, hai tăng nhân khác nhảy qua, người này vừa qua thì
người khác tới, đan chéo vào nhau tuần tra thật là sít sao, e rằng đến hoàng
cung nội điện cũng chưa bằng được.
Chàng thấy tình hình như thế, liệu rằng nếu tiếp tục tiến lên thể nào cũng bị
phát giác, đành phải bỏ cuộc quay về.
Lại thêm ba ngày nữa, tối hôm đó sấm chớp ầm ầm, trời đổ một trận mưa rào.
Trương Vô Kỵ mừng lắm, nghĩ thầm “Thật là trời gúp ta”. Mưa mỗi lúc một to,
bốn bề tối đen như mực, chàng liền lẻn ra chạy về phía tiền điện, trong bụng
nghĩ “La Hán Đường, Đạt Ma Đường, Bát Nhã Viện, Phương Trượng tinh xá
bốn nơi là yếu địa của chùa Thiếu Lâm, mình phải đến đó thám thính mới
được”. Thế nhưng chùa Thiếu Lâm phòng ốc san sát, thật không sao biết được
đâu là La Hán Đường, đâu là Bát Nhã Viện. Chàng lấp ló từ từ tiến lên, đến
một khu rừng tre, thấy đằng trước có một căn nhà nhỏ, song cửa chiếu ra ánh
đèn. Khi đó người Trương Vô Kỵ đã ướt đẫm, những hạt mưa to bằng hạt đậu
rơi đập lên người lên mặt, từng giọt từng giọt văng trở lại. Chàng rón rén đến
gần căn nhà kia, nghe thấy trong nhà có người nói chuyện, chính là tiếng của
Không Văn đại sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm.
Ông ta nói: -Vì cái gã Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn kia mà trong tháng vừa qua
phái Thiếu Lâm đã giết chết hai mươi ba người, tạo nhiều sát nghiệp, thực trái
với đức từ bi của nhà Phật. Quang Minh tả sứ của Minh Giáo là Dương Tiêu,
hữu sứ là Phạm Dao, Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính, Thanh Dực Bức
Vương Vi Nhất Tiếu, trước sau đều sai người đến chùa Thiếu Lâm xin chúng ta
thả Tạ Tốn ra …
Trương Vô Kỵ nghe nói thế, trong dạ vui mừng “Thì ra ông ngoại ta cùng bọn
Dương tả sứ cũng đã hay được tin tức và cũng đã cử người đến rồi”. Lại nghe
Không Văn nói tiếp: -“Bản tự tuy đã thoái thác nhưng Minh Giáo lẽ nào lại chịu
bỏ qua. Trương giáo chủ võ công xuất thần nhập hóa, tới nay vẫn chưa thấy ra
mặt, e rẳng có tính toán âm mưu gì bên trong. Ta và Không Trí sư đệ được y ra
tay cứu cho, còn nợ người ta một món ân tình, nếu như đích thân đến đây xin
thì chúng ta biết ăn nói ra làm sao? Chuyện này quả thật là khó. Sư đệ, sư
điệt, hai vị có cao kiến gì không?
Một giọng già nua lạnh lùng khẽ đằng hắng một tiếng, Trương Vô Kỵ nghe
thấy giật bắn người, biết ngay đó là giọng của Thành Côn, kẻ cải danh Viên
Chân. Người đó Trương Vô Kỵ chưa từng đối diện nói chuyện nhưng khi trước
trên Quang Minh Đính nằm ở trong cái túi nghe y kể lại chuyện cũ, rồi lại nghe
y quát tháo ở sau tảng đá nên khẩu âm nghe đã quen thuộc. Trong chớp mắt
chàng chợt nhớ đến khi còn ở chung một chỗ với Tiểu Siêu, trong lòng cảm
thấy bùi ngùi, vừa êm đềm, vừa chua xót.
Chàng nghe Viên Chân nói: -Tạ Tốn có ba vị thái sư thúc canh gác, ắt không
thể nào sơ sẩy điều gì được. Cái Anh Hùng đại hội kỳ này có quan hệ đến uy
danh, hưng suy vinh nhục của phái Thiếu Lâm chúng ta trong hàng nghìn,
hàng trăm năm nay, cái ơn nhỏ của ma giáo kia, phương trượng sư thúc chẳng
cần phải khắc khoải làm chi. Huống chi việc xảy ra tại chùa Vạn An chính là do
ma giáo ngầm cấu kết với triều đình để gây khó khăn cho sáu đại môn phái,
chẳng lẽ phương trượng sư thúc lại không hay biết gì sao?
Không Văn ngạc nhiên hỏi: -Minh Giáo cấu kết với triều đình là thế nào?
Viên Chân nói: -Trương giáo chủ của Minh Giáo vốn dĩ kết thân với Chu cô
nương chưởng môn phái Nga Mi, ngay ngày làm lễ cưới, quận chúa nương
nương của Nhữ Dương Vương bỗng dưng dắt tay tên tiểu tử họ Trương hai
người bỏ trốn, chuyện này dấy động giang hồ, phương trượng sư thúc chắc
cũng đã nghe tới rồi.
Không Văn đáp: -Quả đúng thế, ta có nghe chuyện đó rồi.
Viên Chân nói: -Trong đám thủ hạ của quận chúa nương nương kia có một tên
bộ thuộc đắc lực, tên gọi khổ đầu đà, hai vị sư thúc ở chùa Vạn An ắt hẳn
cũng đã gặp qua y chứ?
Không Trí tại cao tháp chùa Vạn An bị Triệu Mẫn ép buộc phải biểu lộ võ công,
đã từng bị khổ đầu đà hành hạ nhiều lần, nhưng khi đó nội lực mất hết không
có cách gì kháng cự, lúc này cũng vẫn còn phẫn nộ chưa thôi liền nói: -Hừ,
chuyện này xong rồi, ta thể nào cũng trở lại Đại Đô gặp tên khổ đầu đà đó một
lần mới thỏa dạ.
Viên Chân nói: -Thế hai vị sư thúc có biết gã khổ đầu đà đó là ai không?
Không Trí nói: -Gã khổ đầu đà đó kiến thức thật rộng rãi, dường như võ công
các nhà các phái nào y cũng thông thạo, nhưng không sao có thể biết được
môn phái của y.
Viên Chân nói: -Khổ đầu đà chính là Phạm Dao, Quang Minh hữu sứ của ma
giáo.[4]
Không Văn và Không Trí cùng hỏi dồn: -Có thực thế không?
Giọng hai người thực vô cùng kinh ngạc. Viên Chân nói: -Viên Chân lẽ nào
dám nói láo hai vị sư thúc? Nếu Tết Đoan Dương này y dám đến bản tự, hai vị
sư thúc gặp sẽ biết ngay.
Không Trí trầm ngâm rồi nói: -Nếu quả là như thế, Trương Vô Kỵ và quận chúa
kia quả có ngầm cấu kết với nhau, đưa cô ta ra bắt giữ các thủ lãnh của sáu
đại môn phái rồi do Trương Vô Kỵ giả vờ cứu để lấy lòng.
Viên Chân nói: -Chuyện đó mười phần thì đến tám chín là như thế.
Không Văn nói: -Ta xem Trương giáo chủ trung hậu hiệp nghĩa, dường như
không phải là hạng người làm vậy, mình không nên trách lầm người tốt.
Viên Chân nói: -Phương trượng sư thúc minh giám, người đời có nói rằng “Biết
người biết mặt chứ sao biết được lòng”. Gã Tạ Tốn kia là nghĩa phụ của
Trương Vô Kỵ, lại là một trong tứ đại hộ giáo pháp vương của ma giáo, ma giáo
thể nào cũng hết sức cứu y cho bằng được, đến kỳ đại hội Đồ Sư này mọi
chuyện sẽ rõ ràng.
Sau đó ba người bàn tính sẽ tiếp đãi khách khứa thế nào, làm sao chống giữ
kẻ địch đến cướp Tạ Tốn, rồi xem các môn phái có những ai là cao thủ. Viên
Chân thì muốn khích cho các phái đánh lẫn nhau, đợi đến khi tất cả mọi bên
đều bại cả, lúc đó phái Thiếu Lâm sẽ ra mặt thu lợi, trấn áp thu phục các môn
phái, chưởng quản thanh đao Đồ Long một cách danh chính ngôn thuận rồi
giết Tạ Tốn tế Không Kiến thần tăng.
Không Văn vẫn hết sức e dè, không muốn làm tổn thương thêm nhân mạng
để đắc tội với đồng đạo võ lâm, lại dường như có phần không muốn làm mất
lòng Minh Giáo.
Còn Không Trí thì nước đôi, nói: -Nói đi nói lại, chuyện quan trọng hơn hết là
làm sao ép cho Tạ Tốn nói ra thanh đao Đồ Long nay đang ở đâu, nếu không
chuyến này đại hội Đồ Sư xôi hỏng bỏng không, ngược lại hóa ra làm tổn
thương uy vọng của bản phái.
Không Văn nói: -Sư đệ nói phải lắm. Chúng ta phải làm sao trong đại hội này
dương đao lập uy, nói cho mọi người biết thanh đao Đồ Long võ lâm chí tôn kia
đã thuộc về bản phái chưởng quản, khi đó bản phái hiệu lệnh thiên hạ thì còn
ai là kẻ không tuân theo.
Không Trí nói: -Hay lắm, cứ thế mà làm. Viên Chân, ngươi tìm cách nào nói
chuyện với Tạ Tốn thêm một lần nữa, bảo y giao bảo đao ra, chúng ta sẽ tha
mạng cho y.
Viên Chân đáp: -Vâng! Cẩn tuân lời sai bảo của hai vị sư thúc.
Có tiếng chân người nhẹ nhàng, Viên Chân đã đi ra. Trương Vô Kỵ trong bụng
mừng thầm, biết ba nhà sư Thiếu Lâm này võ công cực kỳ cao cường, chỉ cần
hơi có tiếng động, lập tức sẽ bị phát giác ngay, nếu như cả ba cùng ra tay một
lượt, một mình e rằng khó mà thủ thắng, giỏi lắm thì chỉ thoát thân được thôi,
còn việc cứu nghĩa phụ thì quả là khó khăn vô cùng. Nghĩ thế chàng bèn nín
thở bất động.
Chỉ thấy thân hình gầy cao của Viên Chân đi về hướng bắc, tay cầm một cái
dù phất bằng giấy dầu, mưa nặng hột đập lên chiếc ô kêu lộp bộp. Trương Vô
Kỵ đợi y đi ra khoảng chừng hơn chục trượng rồi lúc ấy mới nhẹ nhàng cất
bước, đi theo sau.
[1]Sách tướng viết là người nào thịt đâm ngang, mặt bành bạnh là người
hung ác (diện nhục hoành sinh tính tất hung)
[2] Chỉ sáu giác quan nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý
[3]tức Vân Nam
[4] Việc này sau khi cứu xong sáu đại môn phái tất cả chạy ra ngoài thành thì
ai cũng biết rồi vì lúc đó Phạm Dao cũng đi theo cùng sao ở đây Không Văn,
Không Trí lại chưa biết?
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.