Tiệm ăn Tàu là nơi lui tới thường xuyên của cảnh sát.
Cũng giống như lính cứu hỏa, các cảnh sát chọn cho mình một nơi ăn uống cố định. Tiêu chí quyết định sự lựa chọn của họ vẫn là một bí mật – thường thì nó không phụ thuộc vào chất lượng thức ăn, thái độ phục vụ lẫn khoảng cách so với nơi công tác. Rất khó để tìm lại nguồn gốc của những chọn lựa như vậy. Nhân viên cảnh sát nào là người đầu tiên đặt chân tới quán ăn này? Tại sao những người khác bắt chước theo anh ta? Dẫu sao thì, những chỗ như thế này đã trở thành lãnh địa độc chiếm, nơi khách hàng “thường dân” chỉ là một bộ phận nhỏ được chấp nhận nhưng ít được chào đón. Các ông bà chủ không phàn nàn về chuyện này, đối với họ đây vẫn là một món hời: không chỉ doanh thu luôn ổn định, sự hiện diện của cảnh sát còn là một sự bảo kê đặc biệt chống lại bọn trộm cướp, những kẻ có ý đồ mờ ám và những nhà cung cấp gian trá.
Lúc Mila bước qua cửa, cô được chào đón bằng mùi dầu chiên sực nứt. Tiếng ồn ào của những người mặc đồng phục xanh đang ngồi đầy trong quán ăn khiến cô khó chịu không kém. Một nữ phục vụ bàn người Trung Quốc đón Mila. Nhận thấy đây là một khách hàng mới, cô gái thông báo các món ăn truyền thống được phục vụ vào giờ ăn trưa, còn thức ăn sáng thì mang tính quốc tế. Mila rất muốn hỏi cô gái tại sao một quán ăn Quảng Đông lại phục vụ trứng và thịt muối vào lúc 9 giờ sáng, nhưng cô chỉ cảm ơn rồi quan sát chung quanh. Một cú quét mắt là đủ để Mila hiểu Steph hàm ý gì khi dùng chữ “bị ruồng bỏ” với người mà cô sắp gặp mặt.
Giữa hàng chục cảnh sát viên đang vừa ăn uống vừa tán gẫu cười đùa, Simon Berish là người duy nhất ngồi một mình.
Mila lách người qua các bàn ăn để đi đến chiếc bàn trong cùng, nằm kẹt giữa hai vách ngăn. Người đàn ông mặc comlê đeo cà vạt, mắt tập trung vào tờ báo, miệng nhâm nhi tách cà phê. Ở bên trái anh ta là một chiếc dĩa đựng phần còn lại của món trứng chiên thịt muối cùng một cốc nước chanh đá. Dưới chân anh ta là một con chó lông vàng kích thước trung bình đang lim dim ngủ.
– Tôi xin lỗi. – Mila lên tiếng. – Đặc vụ Berish phải không ạ?
– Phải. – Người đàn ông đáp, ngạc nhiên hạ tờ báo xuống.
– Tôi là Mila Vasquez, đồng nghiệp của anh.
Cô chìa tay ra, nhưng thay vì bắt tay, Simon Berish nhìn như thể đó là một khẩu súng. Mila nhận thấy mọi ánh mắt trong phòng đều chiếu vào họ, tựa như cô vừa vi phạm một điều cấm kỵ.
– Tôi muốn nói chuyện với anh về một vụ án mà anh từng phụ trách.
– Vụ nào?
– Ảo thuật gia, Kẻ chiêu hồn, Người ru ngủ. Kairus.
Tay cảnh sát cứng người lại. Mila cảm thấy càng lúc càng lúng túng.
– Tôi chỉ xin anh vài phút thôi.
– Tôi không nghĩ đó là một việc sáng suốt. – Berish xẵng giọng và nhìn quanh để đảm bảo chưa ai nghe thấy họ.
– Ít nhất hãy cho tôi biết lí do và tôi sẽ để anh yên. Ảo thuật gia, Kẻ chiêu hồn, Người ru ngủ là ai?
– Một nhân vật hoang đường. Hắn bầu bạn với ông ba bị và thủy quái hồ Loch Ness. Cách đây hai chục năm, người ta đã khai sinh ra hắn trong một sự cuồng loạn của đám đông. Truyền thông lôi hắn ra mỗi khi có ai đó biến mất, họ thêm một trong những biệt danh của hắn vào tin tức để làm tăng lượt đọc. Giống như một bộ trang phục tối màu trong tủ quần áo: người ta có thể mặc nó đi đám ma, nhưng đi đám cưới cũng vẫn ổn.
– Vậy nhưng anh vẫn tin, đúng không?
– Chuyện lâu lắm rồi, hồi đó chắc cô chỉ là một đứa trẻ. Bây giờ xin phép cô, tôi muốn dùng nốt bữa sáng – Anh ta nói và lại chúi mũi vào tờ báo.
Mila sắp bỏ đi thì những cảnh sát viên ở chiếc bàn bên cạnh đứng dậy. Một người trong số họ đi qua bên cạnh bàn của Berish và đụng vào chiếc dĩa thức ăn anh để ở gần mép bàn. Những mẩu trứng bắn vào cà vạt của Berish. Một hành động có chủ ý. Không khí căng thẳng có thể cảm nhận được, ngay cả chú chó dưới bàn cũng hếch mũi lên.
Mila đã nghĩ đến tình huống xấu nhất, nhưng Berish đã vuốt ve con chó để dỗ nó ngủ lại. Sau đó, với một sự bình thản phi thường, anh rút từ trong túi áo vét ra một chiếc khăn tay đã giặt là cẩn thận, chấm nó vào trong cốc nước rồi lau chiếc cà vạt. Mila muốn rụng rời tay chân. Một thuộc cấp công khai tỏ ra không tôn trọng cấp trên, lại còn giữa bàn dân thiên hạ nữa, nhưng vẫn ra đi mà không phải trả giá. Thậm chí anh ta còn cười hả hê với đồng nghiệp. Mila đã định can thiệp vào thì Berish nắm cổ tay cô giữ lại.
– Thôi bỏ đi. – Anh ta nói mà không nhìn Mila, một tay chìa chiếc khăn cho cô.
Giọng điệu từ tốn của anh ẩn chứa nhiều điều. Trong đó có lí do anh không mời cô ngồi xuống. Berish không lỗ mãng, chỉ là anh không quen với việc có bạn ngồi cùng. Lạ lùng thay, Mila hiểu điều đó. Không phải do sự thương cảm, mà bởi kinh nghiệm.
Theo quy tắc danh dự ngầm của cớm, những nguyên nhân khiến người ta bị ruồng bỏ không nhiều, nhưng không thể xoá đi được. Tệ nhất là tội phản bội đồng nghiệp và mách lẻo. Hình phạt tương đương với sự mất mát một phần của quyền công dân, nhưng trên hết là sự an toàn. Bởi những người lẽ ra có quyền bảo vệ bạn sẽ không buồn động tay nữa. Tuy vậy, Berish có vẻ chịu đựng tình trạng đó khá tốt.
Mila nhận lấy chiếc khăn tay và lau những mẩu thức ăn vương trên áo khoác da của mình.
– Cô ăn gì không? – Berish đột ngột hỏi. – Tôi mời.
– Trứng và cà phê ạ, cám ơn anh. – Cô cảnh sát đáp và ngồi xuống đối diện với Berish.
Anh gọi một cô phục vụ, chuyển yêu cầu của Mila cùng với một tách cà phê thứ hai.
– Tại sao một người phụ nữ mang cái tên Tây Ban Nha xinh đẹp như cô lại quyết định tự gọi mình là Mila? – Anh hỏi trong khi gấp tờ báo lại.
– Ai nói với anh đó không phải là tên thật của tôi?
– Maria Elena, đúng không?
– Cái tên đó không thuộc về tôi, hoặc tôi không thuộc về nó.
Berish ghi nhận điều này. Anh nhìn Mila bằng đôi mắt sẫm màu, nhưng cái nhìn của anh không làm cô khó chịu. Anh có một ánh mắt đẹp, và Mila không ngại khi bị nhìn như thế.
Berish có vẻ thoải mái. Thái độ chín chắn, thân hình săn chắc, các cơ bắp gồ lên dưới lớp vải áo sơmi khiến cho bộ comlê lịch lãm của anh trở nên giống như một cái áo giáp. Anh không phải luôn như thế từ trước đến giờ. Steph đã nói với Mila là Berish nghiên cứu môn nhân học. Nhưng lúc này cô chưa muốn tìm hiểu xem nguyên nhân nào đã dẫn anh tới sự thay đổi mạnh mẽ đó.
– Vậy, anh sẽ nói với tôi về Kairus chứ?
– Trong mười lăm phút nữa chỗ này sẽ vắng ngắt. – Berish vừa đáp vừa xem đồng hồ. – Cô cứ thoải mái dùng bữa, sau đó tôi sẽ giải đáp các thắc mắc của cô. Rồi chúng ta sẽ chia tay và không gặp lại nhau nữa. Cô hiểu chứ?
– Nhất trí.
Thức ăn được dọn lên. Mila ăn trứng trong khi Berish uống cà phê của mình. Sau đó ít phút, nhà hàng trở nên vắng lặng. Các cô phục vụ đi dọn dẹp bàn. Tiếng cười nói ồn ào nhường chỗ cho tiếng đĩa tách lanh canh.
Con chó dưới chân Berish vẫn ngủ.
– Tôi không muốn biết tại sao cô đến đây, tôi không quan tâm chuyện đó. – Đặc vụ Berish nói ngay. – Tôi đã chôn chặt câu chuyện này từ nhiều năm trước. Tôi sẽ nói với cô những gì tôi biết, mặc dù cô có thể đọc nó trong hồ sơ.
– Chính thủ trưởng Stephanopoulos của tôi là người khuyên tôi đến nói chuyện với anh.
– Già Steph. Ông ta là cấp chỉ huy đầu tiên của tôi, hồi tôi mới ra trường.
– Tôi không biết đấy. Tôi cứ tưởng Steph luôn làm việc ở Minh Phủ.
– Không đâu, ông ta từng nắm chương trình bảo vệ nhân chứng.
– Chuyện đó tôi chưa hề nghe.
– Thật ta thì nó không còn tồn tại nữa. Đó là thời còn bọn tội phạm có tổ chức và chính quyền phải tiến hành hàng loạt phiên toà để bắt các thủ lĩnh băng đảng. Sau đó, đơn vị đã được giải tán và chúng tôi được điều chuyển đi các nơi khác. Nhưng mà này, cô…
– Tôi sao cơ?
Berish nhìn Mila kỹ hơn nữa.
– Chính là cô, đúng không?
– Tôi không hiểu.
– Cô từng tham gia vụ “Kẻ nhắc tuồng”, giờ thì tôi nhớ ra rồi.
– Anh có trí nhớ tốt đấy. Nhưng nếu anh không phiền, lần này chúng ta sẽ bàn đến các bóng ma của anh, chứ không phải của tôi. Hãy cho tôi biết về Kairus.
Berish hít một hơi thật sâu. Như thể anh đang mở một cánh cửa đã khép chặt từ lâu trong lòng mình. Như Mila đã dự cảm, sau cánh cửa đó những bóng ma đe doạ vẫn đang nhảy múa. Chúng lần lượt hiện lên trên gương mặt của người đặc vụ khi anh bắt đầu kể lại.