Người Ru Ngủ

CHƯƠNG 46



Lần đầu tiên Alice hỏi về bố là khi con bé được chừng bốn tuổi.
Tuy nhiên, thắc mắc của con bé đã xuất hiện trong đầu nó được một thời gian. Như thường thấy ở bọn trẻ con, câu hỏi đó mang những hình thức khác – bằng cử chỉ, hoặc lời nói.
Đùng một cái Alice vẽ hình gia đình mình gồm một người mà con bé chưa bao giờ được nghe nhắc đến. Không thể xác định được con bé ý thức được mình còn có một đấng sinh thành nữa từ khi nào. Nhưng chắc chắn chuyện đó xảy ra khi con bé so sánh mình với những đứa bạn cùng tuổi, hoặc khi nghe bà Inès kể về chồng mình, tức ông ngoại của nó. Dẫu sao thì, câu hỏi đầu tiên của con bé về bố là một dạng thoả hiệp.
– Bố con bao nhiêu tuổi ạ?
Đó là một cách để nói tránh đi mà không đánh mất mục tiêu chính.
Một thời gian sau, Alice quay lại chủ đề đó, lần này là chiều cao của bố. Như thể thông tin quý báu đó có thể thay đổi số phận của nó vậy. Kể từ đó, các câu hỏi cứ nối tiếp nhau. Màu mắt, cỡ giày, món ăn yêu thích của bố.
Từng chút một, Alice cố gắng xây dựng lại hình ảnh người bố của mình.
Đó là một việc đòi hỏi nhiều công sức, đặc biệt là đối với một đứa trẻ. Mila hiểu rõ điều ấy. Bà Inès đã bóng gió đề cập đến một cuộc gặp giữa hai bố con, nhưng Mila cứ trì hoãn.
Cô muốn đợi một thời điểm thích hợp, mặc dù cô không biết thời điểm đó là khi nào. Khi nghe mẹ mình lại nhắc đến chuyện ấy đêm hôm qua, Mila đã đồng ý ngay không do dự, như thể hai mẹ con chưa từng bàn cãi chuyện đó với nhau bao giờ. Sau tất cả những chuyện cô đã làm – đêm hôm xông vào nhà làm mọi người hoảng vía – Mila cảm thấy mình mắc nợ Alice. Cô không nghĩ mình là một người mẹ tốt, nhưng cô không thể ngăn cản việc con gái mình được cảm thấy là một người con ngoan.
Mà những đứa con ngoan thì phải đi thăm bố.
Ngoài ra, những sự việc trong tuần đã đưa Mila trở lại với thời kỳ xảy ra vụ “Kẻ nhắc tuồng”. Ước mong của Alice không còn bất khả thi nữa. Có lẽ định mệnh đã muốn cô đối diện với quá khứ. Hoặc cũng có thể Alice đã cho Mila thấy cô không thể lờ đi sự việc tồi tệ đã xảy ra.
Bởi lẽ, nếu không có sự việc đó, con bé đã không được sinh ra.
Con đường uốn lượn quanh quả đồi và được ôm ấp bởi những nhánh cây.
Alice nhìn qua cửa xe. Trong một thoáng, Mila ngỡ như nhìn thấy hình ảnh của chính mình hồi bé trong kính chiếu hậu. Cô cũng thích chộp bắt những khoảng khắc trong khi di chuyển với tốc độ nhanh. Những hình ảnh lướt qua trước mắt mà cô chỉ tóm được một phần nhỏ. Một ngôi nhà, một cái cây, một người phụ nữ đang phơi quần áo.
Hai mẹ con không nói chuyện nhiều kể từ lúc bắt đầu đi. Mila đã lấy cái ghế an toàn trẻ em ở trong cốp xe ra đặt vào băng ghế sau, để bà ngoại cho Alice ngồi vào, không quên bảo đảm con bé được thắt dây an toàn và mang theo con búp bê ưa thích.
Bà Inès đã mặc cho Alice một chiếc váy hai dây bằng vải bông màu hồng. Con bé đi giày và kẹp tóc cùng màu trắng.
Sau khi đi được vài cây số, Mila đã hỏi Alice xem con bé có bị nóng hay muốn nghe radio không, nhưng Alice lắc đầu, tay ôm con búp bê tóc hung vào lòng chặt hơn.
– Con biết mẹ con mình đang đi đâu đúng không?
– Bà nói rồi ạ.
– Con có vui không?
– Con không biết.
Alice đã dập tắt mọi ý định tiếp tục cuộc đối thoại của Mila. Một bà mẹ khác sẽ tìm hiểu cặn kẽ ý nghĩa sự do dự của con bé. Một bà mẹ khác có thể sẽ đề nghị quay về. Nhưng Mila không phải là một người mẹ thật sự của Alice, bà Inès mẹ cô đã thay thế cô trong vai trò này.
Toà nhà xây bằng đá xám hiện lên ở phía xa.
Đã bao nhiêu lần cô đi thăm ông trong bảy năm qua? Đây mới là lần thứ ba. Lần đầu tiên, chín tháng sau biến cố, cô đã không thể bước qua ngưỡng cửa và bỏ chạy. Lần thứ hai cô đã đi đến tận phòng ông nằm, đã nhìn thấy ông, nhưng không nói gì với ông hết. Xét cho cùng, họ đã trải qua quá ít thời gian bên nhau, nên cũng chẳng có gì nhiều để chia sẻ.
Cái đêm duy nhất cô ở cùng ông đã cứa vào lòng cô hơn cả ngàn vết dao. Nỗi đau thật khủng khiếp, nhưng cũng thật đẹp, nó mạnh mẽ đến độ không thể so sánh với bất kỳ dạng thức yêu đương nào. Ông, người khi cởi quần áo cho cô đã phơi bày bí mật của một cơ thể đầy thương tích. Ông, người đã hôn khắp lượt những vết sẹo của cô. Ông, người đã thổ lộ với cô về sự tuyệt vọng của mình vì biết cô sẽ sử dụng nó đúng đắn.
Ít nhất đã bốn năm rồi cô không đến thăm ông.
Một người hộ lý da màu ra đón hai mẹ con ở bãi đậu xe. Mila đã gọi điện để báo trước chuyến thăm của mình.
– Chào chị. – Anh ta tươi cười lên tiếng. – Chị đến thăm, chúng tôi vui quá. Hôm nay ông ấy đỡ nhiều lắm rồi đấy. Hai mẹ con vào đây, ông ấy đang đợi.
Những lời vừa rồi là để dành cho Alice, để không làm con bé hoảng sợ. Mọi thứ phải thật tự nhiên.
Họ đi vào qua cửa chính. Hai người bảo vệ ngồi phía sau một cái quầy, họ hỏi xem Mila có còn nhớ thủ tục ra vào toà nhà không. Cô giao nộp vũ khí, phù hiệu và điện thoại di động. Hai người bảo vệ cũng kiểm tra con búp bê tóc hung. Alice nhìn thao tác của họ với đôi mắt tò mò chứ không phản kháng. Sau đó hai mẹ con bước qua một máy dò kim loại.
– Ông ấy vẫn có nguy cơ bị giết. – Người hộ lý đã đón hai mẹ con giải thích.
Họ băng qua hành lang tỏa mùi chất khử trùng với nhiều cánh cửa đóng. Thỉnh thoảng Alice lại phải rảo bước để theo kịp Mila. Có lúc con bé nắm tay mẹ, nhưng nhận ra sai sót của mình, nó lập tức rụt tay lại.
Chiếc thang máy đưa họ lên tầng hai. Những đoạn hành lang khác sinh động hơn so với ở dưới nhà. Những âm thanh đều đặn phát ra từ trong các căn phòng – tiếng bơm của máy hỗ trợ hô hấp, tiếng bíp bíp của máy theo dõi nhịp tim. Các nhân viên ở đây mặc đồng phục màu trắng và thực hiện một cách nghiêm túc quy trình lấy thuốc vào bơm tiêm, thay bình dịch truyền, đổ túi nước tiểu và thay ống thông tiểu.
Mỗi người phụ trách một bệnh nhân, cho đến khi thời hạn sống của người này chấm dứt. Ít nhất thì đó là điều mà một bác sĩ đã nói với Mila. “Chúng tôi ở đây vì những người này bẩm sinh đã nhận được một số ngày dôi dư”. Khi nghe như thế cô đã nghĩ đến một dạng lỗi sản xuất. Như thể sự sống và cái chết đã lấy đà để giờ đây song hành với nhau trong một tiến trình lê thê kéo dài sự tồn tại, cho đến khi cái sau thắng cái trước.
Dẫu sao thì, không có người nào đang nằm trên những chiếc giường bệnh ở đây có thể hi vọng quay trở lại hành trình mà họ đã đi.
Những người chết không biết họ đã chết, và những người sống không thể chết đi. Mila đã định nghĩa những người mất tích như thế cho Berish. Điều tương tự cũng diễn ra ở đây.
Người hộ lý dừng lại ở bên ngoài một phòng bệnh. Họ đã đến nơi.
– Hai mẹ con muốn ở lại một mình với ông ấy chứ?
– Vâng, cám ơn anh. – Mila đáp.
Mila tiến lên một bước trong khi Alice chôn chân trên ngưỡng cửa, tay vẫn siết chặt con búp bê vào người.
Con bé nhìn chằm chằm người đàn ông đang nằm dài trên giường với đôi tay ló ra khỏi tấm ga trắng được gấp cẩn thận ngang ngực. Hai bàn tay của ông nằm hờ hững trên lớp vải, lòng bàn tay úp xuống. Chiếc ống thở gắn nơi cổ họng ông đã được che đi bằng một miếng gạc trắng để không làm vị khách nhỏ tuổi hoảng sợ.
Alice vẫn đứng bất động, cố gắng khớp con người nằm trước mặt mình với hình ảnh nó đã xây dựng trong đầu.
Đáng lẽ ngay từ đầu Mila đã có thể làm cho con bé tin ông đã chết, như thế sẽ đơn giản hơn, kể cả cho cô. Nhưng theo những gì diễn ra trước mắt thì cô sẽ là một kẻ nói dối. Dù sao thì định mệnh cũng muốn đến một ngày sẽ có những câu hỏi quan trọng hơn và những câu trả lời quan trọng hơn là màu mắt hay cỡ giày của ông. Như vậy tốt hơn nên đợi để giải thích cho con bé hiểu rằng thân xác vô dụng kia là nhà tù không thể thoát ra đối với linh hồn bị kết án của bố nó.
Thật may là vẫn còn thời gian cho cả hai.
Alice hơi nghiêng đầu, như thể đã cảm nhận một sắc thái của cảnh tượng trước mắt – một trong những cái mà người lớn không thể thấy được. Sau đó nó quay sang Mila và nói:
– Bây giờ mình đi được rồi.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.