Người Ru Ngủ

CHƯƠNG 15



Không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra vào lúc 21 giờ.
Trong khi chờ đợi, họ đã xác định được Randy Philips đến Thánh đường Tình yêu trên chiếc Mercedes của mình. Chiếc xe đã được tìm thấy dưới đáy hồ, đúng như dự đoán của Krepp. Như vậy hung thủ có phương tiện riêng và đã dùng nó để ra đi sau khi gây án.
Sau khi khả năng bắt cóc đã bị loại trừ, cần phải tìm hiểu xem làm thế nào tay luật sư lại rơi vào bẫy và đến cái nơi bị bỏ hoang này. Trực giác của Mila về sự liên đới của một phụ nữ là có cơ sở.
Một nhóm cảnh sát đã khám xét kỹ lưỡng văn phòng làm việc của luật sư Randy Philips để tìm một vụ kiện hôn nhân có ngày cưới trùng với ngày ghi trên nhẫn.
Ngày 22 tháng 9 đã trở thành một cột mốc duy nhất giữa vô vàn những điểm mà họ còn mơ hồ.
Đầu tiên là sự liên hệ giữa vụ thảm sát tại ngôi biệt thự và vụ giết người trong nhà thờ giả. Liên hệ này được phát hiện nhờ vào trực giác của Mila về số điện thoại mà Roger Valin đã gọi. Có vẻ như các nạn nhân không quen biết nhau, do đó có thể mối liên quan nằm ở các thủ phạm.
Trong những năm tháng mất tích, Roger Valin đã gặp một người – một phụ nữ chăng? – và cả hai đã cùng nhau vạch ra một kế hoạch.
Đó là sự lí giải duy nhất mà Mila có thể nghĩ đến trong khi đi lang thang khắp các hành lang của trụ sở cảnh sát. Tuy thế, những gì đã diễn ra giờ không còn là việc quan trọng hàng đầu nữa. Những gì có thể xảy đến mới là thứ cần quan tâm.
Điều cấp bách giờ đây chính là thời hạn mà họ đã nhận được.
Nhiều giờ trôi qua, các biện pháp đã được nghĩ ra để phòng ngừa hoặc ngăn cản một tội ác mới. Nhiều cảnh sát được huy động, các phiên gác được tăng cường. Phải làm cho thủ phạm nghĩ rằng thành phố đã được canh phòng, do đó họ đặt các chốt chặn và tăng số lượng xe tuần tra. Họ yêu cầu những nguồn tin thường lệ căng tai nghe ngóng và mở mắt quan sát. Sự hiện diện đông đảo của lực lượng cảnh sát trong thành phố buộc vài cái tên cộm cán trong giới tội phạm có tổ chức phải hợp tác, ít nhất là để chấm dứt nhanh chóng việc canh gác các tuyến đường, điều vốn không có lợi cho các hoạt động của bọn chúng.
Để không gây ra sự nghi ngờ nơi giới truyền thông, một thông cáo đã được phát đi để tuyên bố một chiến dịch truy quét trộm cướp đang diễn ra. Báo giấy, truyền hình và internet lập tức xúm vào chỉ trích người phát ngôn vô dụng thứ không biết bao nhiêu của sở cảnh sát, vì tội phung phí tiền nộp thuế của dân.
Trong khi chờ đợi, tại trụ sở chính, các cuộc họp nối tiếp nhau để vạch ra một chiến lược. Các cuộc họp ở cấp cao nhất được chủ trì bởi Thẩm phán. Đối với những cuộc họp còn lại, cấp bậc tham dự thấp dần xuống. Mặc cho những đóng góp của Mila cho đến thời điểm này, cô được sắp xếp tham dự các cuộc họp ít quan trọng nhất. Cô có cảm giác rất rõ ràng là vai trò của mình bị giới hạn, như thể họ muốn gạt cô ra khỏi cuộc điều tra.
Vào khoảng 5 giờ chiều, cô rời các tầng trên của trụ sở để quay xuống Minh Phủ. Buổi tối đang đến gần, nỗi lo sợ trước điều sắp xảy ra càng tăng thêm, nhưng Mila đã không ngủ từ rất lâu, cô cảm thấy mình cần nghỉ ngơi nếu muốn giữ một cái đầu sáng suốt.
Mila trốn vào trong một nhà kho cũ, nơi cô đã kê một chiếc giường gấp để dùng trong những ngày phải ở lại muộn tại cơ quan. Cô tháo đôi giày thể thao và dùng chiếc áo khoác da làm chăn đắp. Căn buồng nhỏ ấm cúng như một góc ẩn náu bí mật chìm vào bóng tối, ngoại trừ lằn sáng màu vàng nhạt lọt qua bên dưới cánh cửa. Vậy là đủ để Mila cảm thấy an toàn, như thể ở bên ngoài có ai đó đang trông chừng cô. Nằm nghiêng người, co chân, hai tay khoanh lại, cô tìm kiếm giấc ngủ một cách khó khăn. Cuối cùng lượng adrenaline cũng tụt xuống và sự mệt mỏi thắng thế.
– Chúng ta tìm được rồi.
Mila mở choàng mắt, tự hỏi có phải mình đang mơ. Câu nói vang lên với một giọng bình thản để không làm Mila hốt hoảng, và cánh cửa được mở hé để ánh sáng không làm cô chói mắt. Ngồi ở cuối giường là đại úy Steph với một cái tách bốc khói trong tay. Ông đưa cho Mila, nhưng thay vì cầm nó, cô nhìn đồng hồ.
– Mới 7 giờ, thời hạn chưa hết đâu.
– Chúng ta tìm được gì vậy? – Cô vừa hỏi vừa ngồi dậy và cầm lấy tách cà phê.
– Việc lục soát văn phòng của Philips đã mang lại kết quả: chúng ta đã tìm thấy một cái tên… Nadia Niverman.
Mặc dù là người đầu tiên đoán ra, Mila vẫn ngạc nhiên khi nghe thấy cái tên của một phụ nữ.
– Nadia Niverman. – Cô lặp lại, không nhận ra mình đang giơ cái tách giữa không khí.
– Đó là vụ mất tích cuối cùng mà Eric Vinceti phụ trách. – Steph thông báo. – Họ vừa gọi cho tôi, có vẻ như các sếp vẫn còn cần đến cô.
Trong mười phút tiếp theo Mila nói chuyện điện thoại với Boris. Trước tiên, từ máy tính của Eric Vincenti, cô gửi qua mail cho Boris hồ sơ về vụ mất tích hai năm trước của người phụ nữ.
Nadia Niverman là một bà nội trợ ba mươi lăm tuổi, cao một mét bảy, tóc vàng. Chị ta kết hôn vào ngày 22 tháng 9. Ba năm sau, Nadia được chấp nhận ly hôn vì bị chồng đánh đập.
– Đương nhiên, luật sư của ông chồng chính là Randy Philips. – Boris nói qua điện thoại. – Chuyện đó tạo ra một động cơ trả thù hợp lý.
Mila tỏ ra chưa bị thuyết phục.
-Mila, có chuyện gì vậy? Làm thế quái nào mấy người mất tích này lại quay trở về?
– Tôi không biết. – Mila chỉ nói được có thế.
Cô không hiểu được. Chuyện này thật khó hiểu, và đó chính là điều khiến cô sợ hãi.
Roger Valin và Nadia Niverman mất tích cách nhau nhiều năm.
– Nếu đám truyền thông mà biết được chuyện này, chắc chắn hai kẻ đó sẽ được đặt biệt danh là “cặp đôi sát thủ”. Ở đây mọi người phát điên hết cả rồi. Thẩm phán đã triệu tập một cuộc họp khẩn cấp.
– Tôi biết. Steph vừa mới đi lên.
– Tôi không hiểu được tại sao Nadia không giết gã chồng mình thay vì tay luật sư. Có lẽ thời hạn kia được dành cho gã.
– Anh có báo cho anh ta chưa?
– Chúng tôi đã đưa John Niverman đến một nơi an toàn. Gã được canh chừng cẩn thận, nhưng cô có thể hình dung gã sợ như thế nào.
Cũng giống như Valin, ảnh chụp của Nadia đã được truyền thông phát đi. Khác với tay kế toán, vụ mất tích của chị ta tương đối gần, cơ hội khám phá nơi chị ta đã ở trong thời gian qua cũng cao hơn.
– Boris, anh muốn tôi làm gì đây? Tôi có nên lên trên đó không?
– Không cần. Chúng tôi sẽ truy gã chồng để biết liệu thằng cha nhát cáy khốn nạn đó có che giấu các chi tiết về cuộc sống của vợ gã trước khi chị ta mất tích hay không. Sau đó, nhờ vào hồ sơ của Nadia, chúng ta sẽ cố gắng tìm hiểu xem có ai giúp đỡ chị ta đi trốn, một người quen, hoặc một người bạn chẳng hạn. Tôi muốn cô cũng làm chuyện tương tự. Phiền cô tìm những ghi chép không có trong hồ sơ chính thức do Eric Vinceti thực hiện, nếu có.
Họ gác máy, và Mila lập tức bắt tay vào việc.
Cô xem một lượt các hồ sơ trên màn hình máy tính. Anh chàng đồng nghiệp của cô đã sắp xếp chúng theo trình tự thời gian. Cách thức này chỉ được sử dụng trong các vụ mất tích. Ở bên hình sự chẳng hạn, người ta luôn bắt đầu từ sự kết thúc, tức là từ thời điểm chết của nạn nhân.
Eric Vinceti rất chăm chút cho việc soạn báo cáo, có thể nói đọc chúng giống như đọc truyện ngắn vậy.
“Cần phải giữ gìn tác động về mặt cảm xúc”. Anh luôn nói như vậy. “Nó là cách duy nhất để nuôi dưỡng ký ức. Những người sẽ đọc hồ sơ trong tương lai phải cảm thấy gắn bó với người mất tích”.
Vincenti tin rằng đó là phương pháp duy nhất khiến cho người tiếp quản công việc của mình thực sự dồn tâm trí vào việc đi tìm sự thật. Giống như anh, Mila thầm nghĩ.
Tôi tìm kiếm họ khắp nơi. Tôi tìm kiếm họ mọi lúc.
Mila nhìn những tấm ảnh có trong hồ sơ. Cô thấy tác động của năm tháng trên Nadia Niverman, nhưng ánh mắt của chị ta lão hoá nhanh hơn mọi thứ khác. Và chỉ có một điều duy nhất có thể gây ra kết quả như vậy.
Mila hiểu rất rõ sự tàn phá từ từ của nỗi đau.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.