Một ngôi nhà tăm tối chìm trong yên lặng.
Simon Berish chỉ là một cái bóng hiện lên trên lớp kính của cánh cửa hậu mà anh đã cẩn thận khép lại sau lưng mình.
Anh thấy tiếc vì đã bỏ lại khẩu súng của Mila trong văn phòng của Stephanopoulos.
Nhưng có lẽ Sylvia không chờ đợi chuyến viếng thăm lúc 3 giờ sáng này. Có lẽ cô ta chắc mẩm mình đã thắng. Nhưng anh không thể biết nếu cô ta vẫn giữ cảnh giác.
Anh chẳng còn chắc chắn được gì nữa.
Ánh đèn đường xuyên vào nhà như một màn sương trắng nhợt. Berish tận dụng nó để lẻn vào phòng ăn. Những bước chân của anh chỉ tạo ra tiếng động khe khẽ như một lời thì thầm. Tai anh căng ra đón nhận mọi âm thanh.
Tiến đến hành lang, anh quay nhìn vào phòng khách. Ở đó là chiếc trường kỷ nơi Sylvia đã lau máu của Steph cho anh với một sự chăm sóc và yêu thương vô hạn. Anh vẫn còn cảm nhận thấy bàn tay ve vuốt của cô ta trên cổ – một vết nhơ vô hình và xúc phạm.
Berish hướng về phía cầu thang. Anh muốn tìm ra Sylvia, vào giờ này anh tin cô ta đang ngủ. Anh bước lên từng bậc thang một. Bậc thang gỗ kêu cọt kẹt dưới chân anh. Cầu thang tưởng như dài vô tận.
Khi lên đến nơi, Berish dừng bước để quan sát những tấm ảnh treo trên tường đang được ánh trăng chiếu sáng. Sáng nay, Sylvia đã nói với anh về con trai mình.
Con em đẹp trai đấy chứ, phải không anh?
Họ đây. Ở công viên, trên bãi biển, phía sau một chiếc bánh sinh nhật. Khi quan sát kỹ, anh mới thấy những nụ cười của hai người có vẻ không chân thành. Họ không hớn hở khoe chúng. Mà khoác chúng lên khuôn mặt.
Anh lại có cảm giác quen biết cậu bé cứ lớn dần lên trong các tấm ảnh bên cạnh mẹ mình như có phép thần. Nhưng lần này anh đã nhận ra các đường nét khuôn mặt của Michael Ivanovic.
Đó không phải là mẹ tôi.
Berish đã không hiểu Michael có ý gì khi nói ra những lời ấy trong buổi thẩm vấn, nhưng giờ thì mọi thứ đã rõ. Anh đã tự hỏi Stephanopoulos đã giao thằng bé sáu tuổi cho ai sau khi đưa nó ra khỏi phòng 317 khách sạn Ambrus. Bây giờ anh đã biết. Ông ta đã hứa dành nó cho nhân chứng quý giá của mình. Sylvia đã chấp nhận giao kèo để đổi lấy món quà này.
Cô ta đã nuôi nấng nó, đã nhào nặn nó theo những giới luật của giáo phái. Rồi cô ta phái nó quay về để hoàn thành sứ mạng giết chóc. Cô ta biết nếu bị bắt nó sẽ không bao giờ phản bội mình.
Giả thuyết về cái ác lại một lần nữa được chứng thực. Cái thiện biến thành cái ác rồi biến thành cái thiện rồi lại trở thành cái ác, trong một chu kỳ bất diệt của sự sống và cái chết.
Các mảnh ghép đang vào đúng chỗ. Nhưng một lần nữa, anh tự hỏi ai là người đã chụp những bức ảnh gia đình.
Thế rồi anh nhận ra ở hậu cảnh của một tấm ảnh xuất hiện phần đầu của một chiếc xe hơi quen thuộc.
Chiếc Volkswagen của Stephanopoulos.
Berish đã có được sự xác nhận mà anh đang tìm kiếm.
Hai kẻ thuyết giáo.
Một nam một nữ. Anh không bao giờ có thể tưởng tượng. Người ru ngủ có một bản chất kép – thiện và ác.
Hãy tìm cô ấy…
Lời nói sau cuối của Steph. Nó nhắc đến Sylvia. Hay đúng hơn là Kairus.
Chính là chúng ta. Khi truy lùng hắn trong suốt những năm qua, chúng ta đã triệu hồi hắn lên. Và rốt cuộc hắn đã xuất hiện.
Steph khẳng định như thế. Còn anh, anh đã tưởng ông ta nói nhảm.
Nhưng anh không còn thời gian để suy ngẫm các hệ lụy của khám phá vừa có được. Các cửa phòng nhìn ra hành lang đều đang mở. Berish kiểm tra từng cái một. Khi anh đến căn phòng cuối cùng, anh nhận ra nó là phòng ngủ của chủ nhà.
Anh cúi xuống để quan sát dáng người Sylvia đang say ngủ. Anh đã nghĩ đến một cách để vô hiệu hóa cô ta.
Nhưng chiếc giường trống không.
Berish ngẫm nghĩ. Cô ta ở đâu? Có thể là bất cứ chỗ nào. Anh tin ngôi nhà chưa tiết lộ hết mọi bí mật với mình.
Anh lui ra hành lang, định bụng tiếp tục tìm kiếm ở tầng dưới. Nhưng bản năng nghề nghiệp đã mách bảo anh không được bỏ qua bất cứ điều gì.
Khi quay người để xuống cầu thang, lưng hướng về phía ô cửa sổ duy nhất, Berish nhác thấy một cái bóng đang đu đưa trên bức tường đối diện mình. Giống như một con lắc.
Phía trên đầu mình, anh nhận ra một sợi dây thừng mảnh được gắn với trần nhà.
Berish thò tay nắm sợi dây kéo xuống. Cánh cửa sập trượt theo bản lề và một chiếc thang trải ra trước mắt anh. Như một cái lưỡi thè ra từ miệng của một tên khổng lồ. Lối tiếp cận với thế giới song song.
Berish trèo lên gác mái.
Anh thò đầu lên và ngửi thấy trong không khí bụi bặm một mùi nến tắt. Một ô cửa con trên mái hắt xuống thứ ánh sáng lạnh lẽo, tạo thành một cái giếng màu trắng ở giữa phòng.
Xung quanh anh, trên tường, có hàng trăm tấm ảnh.
Hiệu ứng của chúng cũng tương tự như trong Sảnh Đợi ở Minh Phủ. Nhưng những khuôn mặt đang quan sát anh từ trên tường thuộc về những người biến mất khỏi căn phòng số 317 của khách sạn Ambrus.
Những người sống không biết họ còn sống. Và người đã chết không thể chết đi.
Họ nom buồn bã như những bóng ma già cỗi. Mệt mỏi như thể có quá nhiều thứ để quên đi.
Ở phía cuối bộ sưu tập những ánh mắt, Berish nhận thấy một bóng người đang nằm dài trên chiếc giường gấp. Anh chạy đến nắm tay cô.
– Mila. – Anh thì thào gọi tên cô.
Không có phản ứng. Anh áp một tai vào miệng cô, hi vọng nghe thấy tiếng thở, hoặc cảm thấy hơi thở trên da mình. Nhưng anh quá căng thẳng và không thể xác định được cô còn sống hay đã chết. Anh bèn nghe tim cô.
Nó đang đập. Rất yếu ớt, nhưng vẫn còn đập.
Anh chỉ muốn tạ ơn trời đất. Nhưng rồi anh nhận ra tình trạng thảm hại của Mila: trên người chỉ mặc quần áo lót, mái tóc ướt đẫm mồ hôi, quần lót vàng nước tiểu, môi nứt nẻ khô khốc. Những vết sẹo trên da cô đã cũ, nhưng cánh tay trần của cô có những vết thương mới, sâu và mưng mủ.
Thuốc ngủ tiêm tĩnh mạch, anh nghĩ thầm. Người ta đã làm cho cô hôn mê.
Cũng như người mà cô đã từng yêu – Berish cũng biết chuyện này và nhận ra sự trùng hợp chết chóc. Trước khi chìm vào hôn mê, người đàn ông đó đã cho Mila một đứa con gái. Alice.
Mila sẽ không phải chịu chung số phận như vậy. Berish tự thề với bản thân.
Bất chấp nguy hiểm còn ẩn nấp trong ngôi nhà, Berish bế cô lên để đưa đi. Người cô nhẹ như băng. Khi quay lại, anh nhận ra Sylvia đang quan sát mình.
– Em có thể giúp anh, nếu anh muốn.
Câu nói bình thường, hợp lý và tỉnh táo đó khiến anh rùng mình còn hơn cả một lời đe dọa. Không có sự điên rồ trên khuôn mặt cô ta, không có vẻ độc ác trong giọng nói của cô ta.
– Thật mà, em có thể giúp anh đưa cô ấy đi.
– Đừng có lại gần cô ấy. – Berish lạnh lùng đáp.
Sylvia không hề có vũ khí, trên người vẫn khoác chiếc áo ngủ ban sáng. Hai mươi năm sau, cô ta lại lừa dối anh lần nữa.
Bế Mila trên tay, Berish bước đi dưới cái nhìn của những kẻ mất tích trên tường. Khi đến trước mặt Sylvia, anh đã tưởng cô ta sẽ chặn đường. Họ nhìn nhau như hai kẻ đang cố nhận ra nhau. Rồi cô ta tránh ra.
Berish lần xuống thang, cố gắng giữ thăng bằng. Anh biết cô ta vẫn đang nhìn mình, nhưng anh mặc kệ. Anh xuống đến tầng trệt. Sylvia đi theo anh, cách một quãng, giống như một đứa trẻ.
Con quái vật sao mà mỏng manh quá, con người quá.
Trước khi ra ngoài bằng cửa trước, anh quay lại nhìn Sylvia.
– Các cô có bao nhiêu người?
Sylvia mỉm cười.
– Cả một đạo quân.
Khi Berish bước qua ngưỡng cửa, ánh đèn nhấp nháy làm anh lóa mắt. Các đồng nghiệp của anh đã bao vây ngôi nhà, nhưng họ tỏ ra không thù địch.
Klaus Boris đi đến gặp anh, lo lắng ra mặt.
– Cô ấy thế nào?
– Cô ấy cần được hỗ trợ, ngay lập tức.
Băng ca được đưa đến. Một y tá đỡ cho anh sức nặng của cơ thể bất động. Berish buông Mila ra và đưa tay vuốt mặt cô. Mila được đưa vào xe cứu thương. Nó lập tức hú còi rồi chạy đi.
Berish nhìn theo chiếc xe.
– Cám ơn anh đã gọi điện báo. – Boris nói với anh.
Berish không nghe thấy câu nói đó. Anh cũng không nhìn thấy các đồng nghiệp còng tay Sylvia và lặng lẽ đưa cô ta đi.
Simon Berish – tên cớm bị ruồng bỏ – chỉ có một mong muốn: biến mất.