Dinh dưỡng và thực phẩm

CHƯƠNG 44: CAM



Cam được tìm thấy trong văn tự Trung Hoa cách đây trên 4000 năm. Từ Đông Nam Á, cam được chuyển giống sang các quốc gia vùng Địa Trung Hải qua sự giao thương với các nước Tây Âu. Khi thám hiểm châu Mỹ, Christopher Columbus đã mang giống cam đến vùng đất mới này.
Tại Hoa Kỳ, cam bắt đầu được trồng ở vùng Florida vào thế kỷ thứ 18, rồi lan tràn sang California.
Australia có cam vào thế kỷ 19 do người Anh mang đến, rồi từ đó cam được giới thiệu sang New Zealand.
Các loại cam
Có loại cam ăn trái và loại vắt lấy nước.
Cam vắt nước Parson Browns, Hamlin ở Florida có nhiều vào tháng 10 đến tháng 2 năm sau. Cam Valencia ở Florida là loại cam vắt nước nổi tiếng.
Cam ăn trái navel trồng ở California, rất ngon lại không có hạt.
Mùa cam là từ tháng 10 đến tháng 6 năm sau. Việt Nam có cam Bố Hạ, cam Vinh rất nổi tiếng.
Giá trị dinh dưỡng
Cam có nhiều đường, chất xơ hòa tan pectin trong màng bọc múi cam, nhiều vitamin C trong phần cùi ngay dưới vỏ cam và vitamin B.
Một ly nước cam tươi (240ml) có khoảng 125mg vitamin C, 75mcg folacin, 1g chất xơ. Một trái cam trung bình có 70mg vitamin C, 40mcg folacin, 3g chất xơ và cung cấp 60 calori.
Cam còn có chứa rutin, hesperidin, bioflavonoid, một ít các vitamin và khoáng chất khác như beta caroten, thiamine, kali.
Bảo quản
Khi mua, nên lựa trái cam cầm thấy chắc nịch và hơi nặng, vì cam nặng càng nhiều nước ngọt. Vỏ cam vắt nước phải mỏng, nhẵn, còn vỏ cam ăn trái navel phải dày, dễ tróc khi bóc.
Mang về nhà, cất cam vào tủ lạnh, nếu muốn dành dùng dần trong vài tuần lễ.
Nước cam chứa trong chai thủy tinh giữ được vitamin C ít bị hư hao hơn là trong bình nhựa, bình giấy cứng.
Cam tươi là món tráng miệng hay món ăn giữa bữa rất ngon lành mà khi dùng lẫn với rau như xà lách cũng có nhiều hương vị.
Tác dụng trị bệnh
Nhờ có nhiều chất dinh dưỡng khác nhau, cam có một số tác dụng trong y học.
Theo kinh nghiệm dân gian thì cam có tính chất bổ tim, thông máu, ngăn ngừa nhiễm trùng, chống táo bón và làm thuyên giảm bệnh suyễn, đau cuống phổi. Nghiên cứu khoa học cho thấy cam có khả năng chống ung thư và làm giảm cholesterol.
Theo kết quả nghiên cứu của viện Ung thư Hoa Kỳ thì ăn nhiều cam có thể làm giảm nguy cơ ung thư dạ dày, còn nghiên cứu ở Thụy Điển cho thấy cam có thể làm giảm ung thư tụy tạng. Đó là nhờ có vitamin C, một chất chống oxy hóa và một chất thơm là D-limonene có trong tinh dầu vỏ cam.
Kết quả nghiên cứu của Harvard School of Public Health công bố năm 1998 cho biết là nhờ có nhiều kali, cam hạ thấp nguy cơ tai biến mạch máu não, nhất là với người bị cao huyết áp. Người ăn 9 khẩu phần thực phẩm có nhiều kali sẽ ít bị tai biến mạch máu não hơn người ăn 4 khẩu phần cùng loại tới 38%. Một khẩu phần chứa lượng kali tương đương với một quả cam cỡ trung bình.
Vitamin C trong cam giúp cơ thể tránh bệnh scurvy, một bệnh kinh niên với các triệu chứng sơ khởi như mệt mỏi, suy nhược biếng ăn, đau nhức khớp xương, nướu răng sưng, chảy máu. Chỉ cần thiếu vitamin C trong mười ngày là bệnh có thể xuất hiện. Uống một ly cam vắt là ta đã có gấp đôi lượng vitamin C cần dùng mỗi ngày.
Cam cũng giúp cơ thể tăng thêm sức đề kháng với cảm cúm.
Cam với nhiều folacin làm giảm nguy cơ khuyết tật ở trẻ sơ sinh như chẻ môi, ống não tủy không phát triển (neural tube defect).
Cam thường rất an toàn khi tiêu thụ, trừ phi đang uống thuốc aspirin hoặc ibuprofen mà ăn nhiều cam, vì acid trong cam có thể làm kích ứng niêm mạc dạ dày.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.