Bích Huyết Kiếm

Hồi 5: Quái khách đến đỉnh núi, phòng kín đọc kì văn



Người gầy gò, vì chưa được rõ Thừa Chí tỉnh dậy, khoái chí cười khinh vài tiếng, búng tàn nến cho ngọn lửa sáng tỏ rồi giở cuốn bí kíp ra đọc. Càng đọc, càng cao hứng, y đắc ý rung đùi, có vẻ sung sướng lắm. Đọc tới chỗ có mấy trang dính chặt với nhau, y lấy ngón tay trỏ chấm nước miếng để cho dễ giở hơn. Mấy lần gặp những trang dính chặt với nhau, nhờ thấm nước miếng, y đều giở được mà không rách trang nào. Thừa Chí bỗng sực nghĩ tới cuốn sách có chất độc rất mạnh, nếu tên kia cứ thấm nước bọt mãi như vậy thế nào cũng bị trúng độc. Như quên cả nguy hiểm, bỗng khẽ kêu lên một tiếng.

Nghe thấy tiếng người kêu, người gầy gò quay đầu lại, trông thấy Thừa Chí hai mắt trợn tròn xoe, đầy vẻ hãi hùng, đang nhìn thẳng vào mặt mình. Y từ từ đứng dậy, rút con dao găm ở lưng hòa thượng ra, rồi tiến gần Thừa Chí và nói rằng:

– Ta với ngươi tuy không có thù oán gì cả, nhưng ngày hôm nay ta không thể để cho ngươi sống được! Nói xong, mắt y lộ đầy vẻ hung ác, giơ dao găm lên, cười gằn mấy tiếng, rồi lại nói tiếp:

– Bây giờ ta có giết chết ngươi, thì ngươi xuống dưới âm ti cũng không hiểu sao mà bị giết! Nói thật cho ngươi biết, ta là Trương Xuân Cửu trong phái Thạch Lương tại phủ Cừ Châu, tỉnh Triết Giang. Phái Thạch Lương chúng ta là tử thù với Kim Xà Lang Quân. Y gian dâm với sư muội chúng ta, rồi trốn nơi đây. Mười mấy năm nay chúng ta đi tìm xem y trốn nơi đâu, nay bí kíp của y rơi vào tay ngươi. Nay ngươi có liên can với Kim Xà Lang Quân chắc ngươi cũng không phải là người lương thiện. Sau khi chết đi, trở thành một con ma rồi, nếu muốn báo thù này, thì ngươi cứ tới Cừ Châu mà kiếm ta, Trương Xuân Cửu đây… hà, hà, hà! Cười chưa dứt tiếng, y bỗng loạng choạng suýt ngã. Thừa Chí liền vận hết sức lực lên hai cánh tay, thét lớn một tiếng, dây thừng trói quanh người liền đứt ra từng khúc.

Rồi nhanh như chớp, chàng giáng luôn vào đầu người nọ một quả đấm thôi sơn.

Nhưng tay chàng chưa chạm tới người kẻ thù, Trương Xuân Cửu bỗng ngã người nằm lăn ra đất. Thừa Chí sợ y có quỷ kế gì, liền cầm một đoạn dây thừng đứt quấn làm vũ khí sử dụng cấp thời. Nhưng thấy người gầy gò đó hai chân duỗi thẳng, không còn cử động được nữa. Mắt, mũi, tai, mồm của y đều chảy máu đen, lúc ấy chàng mới hay kẻ thù đã trúng độc chết. Cúi xuống cởi luôn quãng dây thừng đang trói dưới chân ra, chàng vội chạy ra phòng ngoài. Thấy chàng câm bị trói nằm ở đó, hai mắt y trợn tròn xoe, lộ vẻ bực tức vì không cựa quậy được, Thừa Chí liền cởi trói cho y. Lại thấy Đại Oai và Tiểu Quái như chết ngất ở dưới đất, sợ hai con đười ươi bị ngộ độc, chàng vội lấy mấy gáo nước lã đổ vào đầu, vào mặt hai con vật nọ. Một lát thật lâu, hai con thú mới hồi tỉnh dần. Thừa Chí dùng tay ra hiệu, kể lại đầu đuôi câu chuyện vừa xảy ra cho chàng câm hay. Chờ đến khi trời sáng tỏ, Thừa Chí và chàng câm mới khiêng hai kẻ thù ra đằng sau núi chôn cất. Thấy cái hộp sắt lớn có chất độc hại người như vậy, Thừa Chí tiện tay quăng luôn xuống hố, chôn cùng với hai người kia.

Chôn cất xong đâu đấy, nghĩ tới chuyện hôm qua, trong lòng chàng còn bàng hoàng lo ngại khôn cùng.

Chàng nghĩ thầm: “Năm 12 tuổi, vô hình trung mình đã tìm thấy cái hộp sắt nọ rồi tám năm qua, ta đã quên hẳn câu chuyện đó. Nay thấy người gầy gò và ba vị hòa thượng đã giết lẫn nhau vi tranh giành cuốn Kim Xà bí kíp, thì chắc hẳn cuốn sách đó phải chứa đựng sự gì bí mật hoặc rất quan trọng! Nhưng không hiểu trong cuốn sách đó viết những gì?” Nghĩ tới đó, chàng không thể nén nổi sự tò mò, liền chui vào gầm giường, lôi cái hộp nhỏ phủ đầy mạng rêu ra. Chàng mở hộp sắt, lấy cuốn Kim Xà bí kíp thật để trên bàn, rồi giở từng tờ ra đọc. Những trang đầu dạy về bí quyết luyện công và tâm pháp ném ám khí, không khác gì mấy với những phương pháp của Mục Nhân Thanh và Mộc Tang đạo nhân. Chàng nhận xét kĩ thì thấy thủ pháp của Kim Xà Lang Quân còn hiểm độc gấp mấy lần thủ pháp của hai thầy mình. Chàng nghĩ thầm: “Hôm qua mình suýt gặp quỷ kế đê tiện của kẻ địch. Sau này, dấn thân vào chốn giang hồ để hành hiệp, thế nào chẳng gặp phải những đối thủ cũng sử dụng những thủ pháp đê hèn đó, nhưng dù sao, biết người biết ta, và để phòng thân, thì ta cũng cần phải biết tới những mánh lới đó.” Nghĩ đoạn, chàng bắt đầu nghiên cứu các thủ pháp trong cuốn Bí kíp.

Đọc tới ngày thứ ba, chàng mới nhận thấy các đường lối võ công ghi trong Bí kíp khác hẳn những thế võ của phái Hoa Sơn và chàng cũng chưa hề nghe thấy sư phụ nói qua bao giờ. Nhất nghệ thông thì bách nghệ cũng thông, võ công của Thừa Chí đã tới mức cao siêu. Nên khi chàng học sang môn phái khác chỉ mấy chút thời giờ suy nghĩ là hiểu ngay. Theo đúng trong Bí kíp, chàng tuần tự luyện tập, hết thế võ nay sang thế võ khác. Nhưng luyện đến ngày thứ năm, chàng gặp phải những điều nan giải là trong Bí kíp có viết tỉ mỉ những bí quyết, không vẻ họa đồ về các điệu, các kiểu, thì biết căn cứ vào đâu mà phỏng theo? Vì vậy, chàng đành phải ngừng tập. Chàng lại giở sang chương sau thấy đề mục là “Kim Xà kiếm pháp”. Chàng nghĩ thầm: “Kiếm pháp này do Kim Xà Lang Quân sáng tạo ra, thế nào cũng có nhiều miếng độc đáo!” Nghĩ đoạn, chàng lấy kiếm múa thử, thoạt tiên còn dễ học, tới sau càng múa càng phức tạp, không thuận tay. Luyện đi luyện lại mấy lần, chàng vẫn thấy ngượng nghịu chướng tay. Sực nhớ tới, khi chôn cất di cốt Kim Xà Lang Quân, chàng đã trông thấy trên vách ở trong động có khắc rất nhiều họa đồ, chắc những tranh đó có liên quan đến các thế võ và kiếm pháp này.

Nghĩ tới đó, không sao nhẫn nại được nữa, Thừa Chí liền gọi chàng câm đem dây thừng, bó đuốc, lên đỉnh núi để thòng chàng xuống dưới động. Lúc ấy chàng trở nên một thanh niên cao lớn, vạm vỡ, đáng lẽ không chui lọt cửa động, nhưng may thay hồi nọ chàng đã phá rộng hai bên cửa nên bây giờ chàng mới chui vào được. Cầm bó đuốc lên chiếu sáng các hình đồ trên vách, chàng nghiên cứu thật tỉ mỉ từng bức họa. Quả nhiên, những bức họa đồ đó là những hình vẽ giải thích các yếu quyết trong cuốn bí kíp, chàng vui mừng vô cùng. Theo đúng họa đồ để luyện tập, chỉ tốn mất độ hai tiếng đồng hồ, chàng đã in sâu những hình đồ đó vào trong óc và thuộc lòng hết mọi miếng võ trong cuốn Bí kíp. Chàng quỳ xuống trước mộ Kim Xà Lang Quân vái hai cái ngụ ý cảm tạ ông ta đã để lại sách giáo thụ võ công cho mình. Khi sắp bước ra khỏi động, chợt nhìn lên vách đá thấy treo thanh bảo kiếm, chàng không cần nghĩ ngợi nhấc luôn khí giới báu đó xuống coi. Hình thù thanh kiếm đó lạ lùng lắm, không khác gì con rắn đang uốn mình, chỗ cán kiếm là đuôi rắn, còn chỗ mũi kiếm đó có hai cái rìa nhỏ.

Thừa Chí nhận thấy kiếm pháp rất lạ lùng cũng bởi thanh kiếm đó khác hẳn các thanh kiếm khác. Ngoài công dụng để đâm hoặc chém như mọi thanh kiếm khác, hai rìa ở đằng mũi kiếm còn dùng để móc và khóa khí giới của địch. Chợt nghĩ đến chàng câm đứng chờ mình trên đỉnh núi, nếu lâu quá thế nào cũng lo ngại cho chàng liền cầm kiếm đi ra. Thấy gần cửa động có một viên đá lớn cản trở lối đi, chàng thuận tay múa kiếm phạt ngang một nhát. Ngờ đâu đá vụn bay tứ tung, viên đá ấy đã đứt làm đôi.

Không dè lưỡi kiếm đâm thẳng một nhát, chàng đã cắm ngập thanh kiếm vào trong tảng đá.

Thừa Chí mừng quá, vội bò ra. Vừa về tới nhà, đứng giữa một cái sân rộng, chàng múa Kim Xà Kiếm, theo kiếm pháp Hoa Sơn. Múa một hồi, chàng thấy sử dụng thanh kiếm đó thuận tay lắm, đến khi múa kiếm pháp Thanh Sà lại còn thuận tay hơn. Trong một thời gian mười mấy ngày, Thừa Chí đã học hiểu nhiều miếng kiếm ghi lại trong Bí kíp, nhất là việc sử dụng ám khí Kim Xà Chủy lại càng tinh xảo vô cùng, chàng đã học được hết mọi bí quyết thủ pháp của môn đó. Chàng so sánh và nhận thấy tâm pháp ám khí của Mộc Tang đạo nhân và ám khí Kim Xà Chủy tinh xảo ngang nhau. Mặc dầu Kim Xà Lang Quân không đi theo con đường chính, nhưng vì ông ta có một bản lĩnh kinh người nên Thừa Chí cũng phải khâm phục vô cùng. Tới khi nghiên cứu đến ba trang cuối cùng trong cuốn Bí kíp, chàng phải rùng mình kinh hãi. Ba trang đó viết chi chít những khẩu quyết biến hóa thật kì ảo, xuất quỷ nhập thần, nhưng một phần khó hiểu quá, chàng không sao lĩnh hội nổi. Nghiên cứu trong hai ngày liền, chàng vẫn cảm thấy trong đó có nhiều chỗ mâu thuẫn, chắc thế nào cũng có sự bí ẩn gì đây.

Chàng xem kĩ lại lời dặn trong cuốn Bí kíp và mô tả lại các hình vẽ trên vách đá, nhưng cũng vẫn không thấu hiểu được. Vì vậy, đêm ấy nằm trằn trọc chàng không thể nào nhắm mắt. Thấy ánh sáng trăng rọi vào, chàng đếm đốt ngón tay tính nhẩm sư phụ xuống núi tới nay đã 28 ngày rồi chỉ còn hai ngày nữa là tới ngày mình phải hạ sơn.

Chàng nghĩ thầm: “Sư phụ có nói là Kim Xà Lang Quân là người rất kì dị, 3 trang cuối này có thể là ý gì khác chăng, chứ không phải là võ công gì.”

Nghĩ như vậy chàng bèn không nghiên cứu thêm nữa, rồi chàng lại nghĩ, những võ học trong quyển sách này ác độc lắm lỡ nhỡ để lọt vào tay bọn tà ma tàn ác thì hậu quả không thể lường được, thôi thì mình đã học thuộc hết rồi thì hủy nó đi, chàng bèn kéo ngọn nến lại gần châm vào cuốn sách, mấy tờ lụa mỏng bắt lửa cháy rất nhanh nhưng còn cái bìa không biết làm bằng thứ gì mà không chịu cháy, chàng bèn cầm lên định xé nhỏ nó ra rồi đốt luôn, nhưng mặc cho Chàng đã dùng hết sức tới mấy trăm cân lực mà mảnh bìa chỉ hơi giãn ra chứ không rách. Ngạc nhiên vô cùng, chàng bèn xem xét thật kĩ thì thấy nó được làm từ một thứ tơ gì đó rất mịn và hình như là gồm hai lớp dán vào nhau, chàng bèn tìm cách tách nó ra, loay hay một lúc bỗng hai mảnh bìa rời ra và từ trong đó rớt xuống hai mảnh giấy.

Chàng nhặt lên xem chợt mừng rú lên, thì ra trong một mảnh giấy có chi chít những chữ nhỏ li ti chỉ dẫn những điều khó hiểu ở 3 trang cuối của cuốn bí kíp, còn tờ giấy kia là một bản đồ chằng chịt có ghi chú tỉ mỉ, xem kĩ thì ra một bản đồ bảo tàng gì đó, chàng thở phào tự nhủ – may mà cuốn sách này lọt vào tay mình chứ lọt vào tay người bình thường không chịu bỏ công nghiên cứu tới cùng thì không sao được hướng bản đồ chôn giấu của báu ấy. Nghĩ đoạn, chàng cất hai tờ giấy đó vào trong túi áo.

Hai ngày hôm sau, Thừa Chí thu xếp hành trang từ biệt chàng câm để xuống núi.

Chàng câm dắt hai con đười ươi tiễn ra tận lưng chừng núi. Thừa Chí ăn ở trên núi hơn mười năm trời, nay bỗng nhiên phải xa cách trong lòng rất áy náy khó chịu. Đại Oai và Tiểu Quái là những con vật rất thông minh, linh tính sẽ phải xa cách Tiểu chủ, nên chúng nắm tay chàng kêu chít chít, không chịu cho chàng lên đường. Thấy vậy, Thừa Chí không nỡ chia tay với hai con vật có nghĩa, liền quyết định cho chúng đi theo, và dùng tay ra hiệu cho chàng câm biết rõ ý muốn của mình. Lần đầu tiên xuống núi, Thừa Chí thấy cái gì cũng mới lạ cả. Vài hôm sau, đi tới tỉnh Sơn Tây, chàng thấy đâu đâu cũng có binh mã điều động và các cửa ả khám xét rất nghiêm ngặt. Các nghĩa quân nghe nói chàng tới kiếm Sấm Vương đều không dám cản trở và còn cho người đưa đường dẫn chàng tới trung quân của Lý Tự Thành. Thấy người hầu cận vào báo tin có đồ đệ của Mục Nhân Thanh xin vào ra mắt.

Sấm Vương dù đang bận việc quân cơ cũng phải thân hành ra đón tiếp. Cũng vì Mục Nhân Thanh khen đồ đệ của mình tài giỏi trước mặt mọi người, nên Sấm Vươngmới trọng dụng Thừa Chí như vậy. Nghe giọng nói của Lý Tự Thành, có vẻ ông ta muốn chiêu nạp Thừa Chí. Thấy Lý Tự Thành tuy ăn mặc mộc mạc, nhưng dáng điệu oai nghi, vẻ mặt hào hùng, Thừa Chí cũng phải phục thầm. Chàng được Lý tướng quân cho biết hiện giờ sư phụ của chàng không có mặt tại đây vì ông ta có việc phải xuống Giang Nam. Chàng mồ côi cha mẹ từ hồi nhỏ, nhờ có sư phụ nuôi nấng dạy bảo cho tới ngày nay, nên khi nghe thấy nói sư phụ vắng mặt, chàng có vẻ không vui. Chàng lại hỏi đến người bạn chi giao là Thôi Thu Sơn hiện có ở đây không?

Sấm Vương cho hay Thu Sơn đã theo Mục Nhân Thanh xuống Giang Nam quyên tiền để tiếp tế cho nghĩa quân rồi. Chàng trả lời là phải xuống miền Nam bẩm với sư phụ trước, rồi mới dám trở lên phụ lực được. Sấm Vương không nài ép nữa, sai Tể tướng quân Lý Nham tiếp chàng dùng cơm.

Khi chàng lên đường xuống Giang Nam, Sấm Vương còn tặng cho mười lạng kim làm lộ phí. Chàng từ chối không được, đành phải nhận lấy. Thấy chàng chưa có kinh nghiệm sự đời, ăn mặc kì dị, lưng đeo quái kiếm, lại dắt hai con đười ươi theo, Lý Nham mới khuyên chàng gửi lại hai con đười ươi và cây kiếm Kim Xà để người đời khỏi dị nghị. Thấy Lý Nham có lòng tối khuyên bảo như vậy, chàng nghe lời, liền mặc trang phục nho sinh, giả dạng một vị tú tài, rồi mới cáo từ ra đi.

Hôm đó, chàng đi tới Ngọc Sơn thuộc tỉnh Giang Tây. Cơm nước xong, chàng mướn thuyền đi đường thủy. Ra tới bờ sông, thấy một chiếc thuyền lớn đậu tại đó, chàng lại hỏi mướn. Chủ thuyền cho hay, phú ông nọ đã thuê bao cả thuyền để xuống phủ Kim Hoa tỉnh Triết Giang chở hàng. Chàng xin đi nhờ và bằng lòng trả giá cao.

Chủ thuyền liền vào khoang hỏi ý kiến phú thương Long Đức Lân. Thấy Thừa Chí là tú tài, ăn nói nho nhã, Long Đức Lân bằng lòng ngay. Chủ thuyền đang nhổ neo khởi hành thì có một thiếu niên hấp tấp chạy tới, và lớn miệng kêu gọi:

– Ông chủ thuyền ơi! Tôi có việc gấp phải tới Cừ Châu, ông làm phúc cho tôi đi nhờ với.

Nghe thấy giọng nói thánh thót êm tai, Thừa Chí ngẩng đầu lên nhìn mặt người nọ. Chàng phải ngạc nhiên mà nghĩ thầm: “Trên thế gian này, sao lại có người đẹp trai đến thế?” Người đó trạc độ 19 tuổi, lưng đeo một thanh trường kiếm Chủ thuyền liền đáp: thuyền này đã có người thuê bao rồi, để tôi hỏi qua xem họ có bằng lòng không, chưa nói xong đã thấy chàng thanh niên nhún chân nhảy xuống thuyền, nhẹ nhàng như không, Long Đức Lân thấy chàng ta dễ thương và mặt mày vui tươi nên cũng vui lòng đồng ý ngay.

Thuyền tách bến đi được một lát thì mọi người làm quen với nhau, chàng trai giới thiệu mình tên là Ôn Thanh, lúc đó mội người đang ngồi ở ngoài mui nói chuyện phiếm, bỗng dưng có bốn chiếc thuyền nhỏ xuôi dòng rất nhanh tản ra xung quanh thuyền rồi dừng lại và từ từ bám theo chiếc thuyền của mọi người, Thừa Chí lúc đó đang ngồi đối diện với chàng trai chợt thấy nét mặt chàng trai biến đi hiện lên một vẻ hung ác, tàn độc. Thừa Chí giật mình nghĩ: “Bộ mặt thanh tú thế kia, sao lại có nét mặt hung dữ đến thế?”. Hình như Ôn Thanh đã nhận thấy vẻ mặt ngạc nhiên của Thừa Chí, liền đổi sắc mặt, miệng tủm tỉm cười, đầy vẻ nhu mì khả ái. Mới bước chân vào đời, Thừa Chí đâu đã hiểu biết mọi bí ẩn của giang hồ. Thấy thái độ của Ôn Thanh và hành động của bốn chiếc thuyền nhỏ có vẻ khác thường, chàng tuy biết sắp có chuyện gì xảy ra nhưng không sao đoán nổi là chuyện gì! Đến chiều tối, thuyền ngừng ở cạnh một thị trấn nọ, Thừa Chí muốn lên bờ dạo chơi, liền rủ hai người cùng đi cho vui. Vì bận trông coi hàng hóa, Đức Lân từ chối, còn Ôn Thanh thì tỏ vẻ khinh miệt:

– Nơi hoang vu này, có thắng cảnh gì đâu mà dạo chơi?

Giọng nói có vẻ chế nhạo Thừa Chí hãy còn ngây thơ. Mặc dầu Ôn Thanh có thái độ kiêu ngạo, khinh người quá mức, nhưng Thừa Chí vốn là người trung hậu thành cẩn, không vì thế mà tức giận, chàng chỉ mỉm cười, rồi một mình lên bờ vào trong phố tiêu khiển. Uống vài li rượu, mua chút quà bánh, trái cây, chàng lại trở về thuyền. Thấy Đức Lân và Ôn Thanh ngủ rồi, chàng cởi áo đi nghỉ.

Khoảng nửa đêm, Thừa Chí bỗng nghe thấy tiếng còi ở đằng xa vọng lại. Chàng rất thính tai, vừa nghe tiếng động là tỉnh dậy liền. Chàng vừa mặc áo xong, đã nghe thấy tiếng bơi chèo từ miền hạ du tới. Lúc ấy Ôn Thanh đột nhiên ngồi dậy, thì ra hắn ngủ vẫn mặc cả áo ngoài, rút thanh kiếm dài ở trong chăn ra rồi nhảy ra đằng mũi thuyền. Thừa Chí giật mình, nghĩ thầm: “Chẳng lẽ người thiếu niên tuấn tú kia lại là bọn tay sai của thủy tặc? Hắn lên thuyền làm nội ứng để cướp tiền bạc và hàng hóa của nhà buôn nọ? Nay ta đã gặp không thể nào khoanh tay không cứu giúp.” Vì Kim Xà Kiếm hình thù quái dị mà chàng phải gửi lại trong quân trại của Sấm Vương, nên hiện trong lưng chàng chỉ có một con dao găm và mấy chục quân cờ cây.

Cầm dao găm ngồi dậy, chàng nghe thấy tiếng bơi chèo của chiếc thuyền nhỏ ở phía trước mặt càng ngày càng gần, rồi đột nhiên có tiếng nói thô lỗ phát ra từ đầu thuyền nhỏ nọ:

– Tên họ Ôn kia, ngươi có biết thế nào là nghĩa khí giang hồ không?

Ôn Thanh hét lớn:

– Biết thì sao? Và không biết thì sao?

Tên nọ đáp:

– Chúng ta đã tốn bao nhiêu công khó nhọc, theo dõi từ đây! Còn ngươi thì khôn ngoan lắm, giữa đường nhảy ra, định ăn cướp cơm chim phải không?

Lúc đó Long Đức Lân đã tỉnh dậy, nghe thấy tiếng nói ồn ào, vội ngó đầu ra coi.

Thấy bốn chiếc thuyền nhỏ, lửa đốt sáng choang, đầu thuyền chiếc nào cũng đứng đầy người cầm vũ khí, hắn hoảng sợ đến nỗi run lẩy bảy. Nghe hai bên đối đáp, Thừa Chí đã hiểu rõ sự thế, liền an ủi Đức Lân rằng:

– Không việc gì đến ông, ông đừng sợ! Giọng nói run run, Đức Lân khẽ hỏi:

– Họ… họ… có phải chúng định đến cướp hàng hóa của tôi không?

Lại nghe thấy Ôn Thanh quát tháo:

– Tiền tài của thiên hạ, ai cũng có quyền hưởng. Chẳng lẽ số vàng cũng của các ngươi chắc?

Tên nọ trả lời:

– Ngươi đem hai nghìn lạng vàng đó ra đây, chúng ta chia đôi. Như vậy, chúng ta đã nể ngươi lắm rồi.

– Thôi! Câm đi! Các ngươi đừng có mơ tưởng hão huyền.

Hai tên đại hán đứng trên hai chiếc thuyền nhỏ khác liền nổi giận:

– Sa đại ca, hà tất phải phí lời nói với quân ngang ngược ấy làm gì?

Nói đoạn, cả hai tay cầm khí giới, nhảy sang chiếc thuyền lớn.

Nghe họ cãi vã, Long Đức Lân đã run sợ mất mật rồi, nay lại thấy hai người nhảy sang thuyền mình, Ông ta sợ quá lắp bắp, giọng run run:

– Viên… Viên tướng công ơi! Quân cướp… chúng sang tới… tới đây cướp…

Thừa Chí kéo hắn ẩn núp sau lưng vừa an ủi:

– Có tôi đây ông khỏi sợ! Lúc ấy chỉ thấy Ôn Thanh hơi né mình phi luôn chân trái lên “Bõm!” một tiếng, chàng đã đá ngã người bên trái xuống sông. Chàng múa kiếm đỡ con dao của người bên phải chém tới. Chỉ nghe thấy “keng”, “phật” hai tiếng, đao và bả vai của tên nọ đều bị chặt đứt. Rồi y ngã nằm chết ngất trên mũi thuyền. Ôn Thanh cười nhạt một tiếng, rồi gọi vọng sang thuyền bên kia:

– Bớ Sa Lão Đại! Từ nay ngươi đừng để cho những đồ chuột lắt ấy ra đối chọi với đời, toi mạng một cách vô ích nhé! Tên đại hán phía trước mặt “hừ” một tiếng, rồi dõng dạc bảo các bộ hạ:

– Chúng bay sang khiêng lão Lý về đây.

Hai tên ở thuyền nhỏ nhảy sang khiêng tên bị cụt tay về. Không bao lâu tên bị đá ngã xuống sông cũng lóp ngóp bò lên thuyền nhỏ, mình mẩy ướt như chuột lột.

Sa Lão Đại lại lên tiếng:

– Bang Long Du ta với phái Thạch Lương nhà ngươi vốn xưa nay không có thù hằn gì. Ông chủ chúng ta chỉ nể mặt ông Tổ thứ năm ngươi đó thôi, chứ ngươi đừng có tưởng lầm ta hèn nhát đâu nhé.

Nghe thấy nói tới phái Thạch Lương, Thừa Chí giật mình kinh ngạc, nghĩ thầm: “Bữa nọ, tên Trương Xuân Cửu lẻn lên núi Hoa Sơn ăn trộm kiếm pháp, chả phải là người của phái Thạch Lương là gì?” Chàng lại nghe thấy Ôn Thanh nói:

– Ngươi nói thế để lấy lòng ta, tại các ngươi không địch nổi ta chứ gì?

Sa Lão Đại nổi giận:

– Chẳng hay ngươi có chịu tuân theo luật lệ của giới giang hồ không?

– Ta muốn sao làm vậy, ngươi không được phép lí với ta.

– Này, ta “tiên lễ hậu binh” trước. Sau này Ngũ Tổ nhà ngươi không còn trách cứ ta cậy nhiều người bắt nạt một người bé bỏng thế cô nữa nhé! Nghe lời nói của Sa Lão Đại, Thừa Chí hiểu ngay tên tướng cướp này có vẻ kính nể sợ oai Ngũ Tổ nào đó của Ôn Thanh. Cười nhạt một tiếng, Ôn Thanh trả lời:

– Cậy có miếng võ quèn của nhà ngươi, mà cũng đòi bắt nạt ta ư?


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.