Khải Hoàn Môn

CHƯƠNG 29



Chiếc Talbot để ở phố Bassano, chen vào giữa một chiếc Renault và một chiếc Mercedes. Chiếc Mercedes mới tinh, mang biển số Ý. Ravic tìm cách cho xe ra. Anh hấp tấp quá, làm cho thanh chắn của chiếc Talbot quệt trầy sơn cái chắn bùn phía sau của chiếc Mercedes. Anh cho xe chạy về phía đại lộ Hanssman.
Anh cho chiếc xe đi rất nhanh, cảm giác mình đang cầm tay lái làm cho anh thấy dễ chịu. Nó làm cho anh quên cái cảm giác thất vọng gớm ghiếc đọng lại ở đáy dạ dày anh như một khối xi-măng.
Lúc bấy giờ là bốn giờ sáng. Trước đó anh đã có ý định chờ lâu hơn. Nhưng đột nhiên anh lại cảm thấy những công việc chuẩn bị của anh đều vô nghĩa lý. Haake chắc chắn là đã quên cuộc gặp gỡ tối hôm nọ. Có thể hắn sẽ không trở lại Paris nữa là khác. Lúc này bên Đức chắc bọn ấy nhiều công việc phải làm lắm.
Moarozov đứng trước cửa Chéhérazade. Ravic đỗ xe ở một phố bên, rồi đi bộ trở lại. Morozov hỏi:
– Cậu có nhận được tin tôi báo không?
– Không.
– Tôi vừa gọi điện cho cậu cách đây năm phút. Trong kia đang có một tốp người Đức. Bốn người. Trong đó có một người tôi thấy giống…
– Đâu?
– Gần sát dàn nhạc. Đó là một cái bàn duy nhất có bốn người ngồi. Đứng ngoài cửa có thể nhìn thấy.
– Được.
– Cậu ngồi vào cái bàn ngay cánh cửa vào ấy. Tôi đã dặn giữ cho cậu đấy.
– Cám ơn Boris.
Ravic dừng lại ở ngưỡng cửa. Căn phòng hơi tối. Ngọn đèn chiếu soi sáng cái sàn khiêu vũ, trên đó có một nữ ca sĩ mặc chiếc áo dài giát bạc đang đứng hát. Tia sáng phát từ ngọn đèn mạnh đến nỗi phía bên kia nhìn chẳng thấy gì. Ravic nhìn kỹ cái bàn đặt sát dàn nhạc. Anh không phân biệt được gì. Tia đèn chiếu làm cho anh lóa mắt.
Anh ngồi xuống. Người hầu bàn đưa ra cho anh một bình vodka. Dàn nhạc chơi một điệu lê thê. Cái giai điệu như quay từ từ, chậm đến phát cuồng lên được. “Em sẽ chờ. Em sẽ chờ”.
Cô ca sĩ nghiêng mình chào. Những tiếng vỗ tay nổi lên. Ravic chồm ra phía trước. Anh đợi họ tắt ngọn đèn chiếu. Cô ca sĩ ra hiệu cho dàn nhạc. Người chơi vĩ cầm tzigan đứng dậy, trong khi các cây đàn cymbalum dạo khẽ mấy tiếng lanh tanh dìu dịu. Một bài khác, “Ngôi nhà thờ nhỏ dưới ánh trăng”, Ravic nhắm mắt lại. Sự chờ đợi không sao chịu nổi.
Anh đứng dậy trước khi bài hát kết thúc rất lâu. Ngọn đèn chiếu tắt. Đèn ở các bàn sáng lên. Lúc đầu anh chỉ thấy những đường viền mờ mờ. Anh nhắm mắt một lát, rồi lại mở ra. Anh tìm ra ngay cái bàn Morozov đã chỉ.
Anh cúi xuống từ từ để nhìn kỹ. Trong bốn người kia không có ai là Haake. Anh ngồi im hồi lâu. Anh chợt cảm thấy mệt khủng khiếp. Cái mệt đã tập trung lại phía sau hai con mắt. Nó dìm anh dưới một lớp sóng cứ trào lên từng đợt không đều. Tiếng nhạc, tiếng người nói, những tiếng động âm ỉ bao bọc anh như một cái màng. Nó như một ống kính vạn hoa của cơn buồn ngủ, một sức thôi miên dìu dịu tràn vào các tế bào não, vào những ý nghĩ rời rạc, vào cả sự thao thức vật vã.
Đến một lúc nào đó, anh trông thấy Jeanne trong bóng tranh tối tranh sáng của sàn nhảy, nơi các đôi nam nữ đang lượn vòng. Gương mặt cởi mở và háo hức của cô ngả ra phía sau, đầu cô gần sát bên vai một người đàn ông. Anh không cảm thấy mình chạnh lòng. Khi cái dây rốn bí ẩn giữa trí tưởng tượng và đối tượng của nó đã đứt, những tia chớp còn có thể lóa ra giữa hai bên, còn có thể thấy có một ánh sáng mơ hồ phát ra từ những ngôi sao huyền ảo, nhưng đó là một ánh sáng chết. Nó còn có thể tồn tại, nhưng nó không còn đốt thành ngọn lửa. Anh tựa đầu lên lưng ghế. Giây phút thân mật ở bên trên các vực thẳm. Đêm tối của tính dục với những cái tên dịu ngọt của nó. Những đóa hoa sáng như những vì sao trên một đầm lầy thường hút xuống đáy những ai muốn hái hoa.
Anh đứng dậy. Anh còn ngồi đây một giây nữa thì anh sẽ ngủ mất. Anh gọi người hầu bàn.
– Tính tiền giùm.
– Thưa ông không có gì phải thanh toán ạ.
– Sao lại thế?
– Thưa, ông có uống gì đâu ạ.
– Ờ nhỉ.
Anh đưa một ít tiền pourboire cho người hầu và đi ra.
– Không phải hắn à? – Morozov hỏi.
– Không phải.
Morozov nhìn anh.
– Tôi bỏ cuộc thôi – Ravic nói – Tôi không muốn chơi cái trò đáng nguyền rủa này nữa. Tôi đợi đến bây giờ là đã năm ngày rồi. Haake có nói với tôi là hắn không bao giờ ở Paris quá hai ba ngày. Như vậy hắn đã đi rồi, nếu hắn có đến Paris.
– Cậu đi ngủ đi. – Morozov nói.
– Tôi không thể ngủ được. Tôi trở lại Prince de Galles lấy va-li, và thế là hết.
– Tốt – Morozov nói – Trưa mai tôi sẽ đến gặp cậu ở đây.
– Ở đâu kia?
– Ở Prince de Galles.
Ravic ngước mắt lên nhìn bạn.
– Phải rồi. Anh nói đúng. Tôi chỉ nói bậy.
– Cậu đợi đến tối mai đi.
– Phải đây. Tôi sẽ xem. Chào Boris.
– Chào Ravic.
Ravic lái xe qua cửa tiệm Osiris. Anh dùng xe ở phố bên. Nghĩ đến chuyện trở về căn phòng ở International anh thấy buồn nôn. Ở đây có lẽ anh sẽ ngủ được vài giờ. Hôm nay là ngày thứ Hai. Một ngay yên tĩnh đối với các nhà chứa. Người gác cửa đã về. Chắc không còn có ai trong tiệm.
Rolande đứng gần cửa ra vào, trông coi gian phòng lớn. Cái máy nghe đĩa đang ầm ĩ lên trong gian phòng trống trải.
– Tối nay ít khách nhỉ? – Ravic hỏi.
– Chẳng có ai. Chỉ có cái lão khách ngồi dai kia kìa. Dâm như quỷ, nhưng bảo đưa một em lên phòng thì không chịu. Anh biết cái loại ấy rồi đấy. Muốn thì có muốn, nhưng lại sợ. Cũng lại là người Đức. Dù sao lão ấy đã trả tiền rồi, chắc cũng không còn lâu nữa.
Ravic dửng dưng ném một cái nhìn về phía cái bàn kia. Người đàn ông ngồi quay lưng về phía anh. Hắn ngồi với hai cô gái. Khi hắn cúi về phía một trong hai cô, giơ tay nạm lấy cả đôi vú, Ravic trông rõ mặt hắn. Đó là Haake.
Như trong đám sương mù dày đặc, anh nghe tiếng Rolande nói. Anh không hiểu được cô ta đang nói gì. Anh chỉ nhận thấy mình lùi lại, đứng gần cửa ra vào, ở một nơi anh có thể nhìn rõ cái bàn mà không bị hắn trông thấy. Cuối cùng tiếng nói của Rolande đã ra khỏi đám sương mù.
– Anh có muốn uống cognac không?
Tiếng cái đĩa hát rống lên oang oang. Và cảm giác co thắt ở hoành cách mạc. Ravic ấn sâu mấy móng tay vào lòng bàn tay. Dù bằng giá nào cũng không thể để cho Rolande biết rằng anh có quen hắn.
– Thôi – Anh nghe thấy tiếng mình nói – Tôi uống nhiều rồi. Người Đức à? Chị có biết hắn ta là ai không?
– Chịu thôi – Rolande nhún vai nói – Đối với tôi thì bọn họ đều như nhau cả, hình như lão này trước đây chưa đến lần nào. Anh không muốn uống gì thật à?
– Không. Tôi chỉ dạo qua đây chút thôi.
Anh cảm thấy Rolande đang chăm chú nhìn anh. Anh cố bình tĩnh.
– Với lại tôi muốn hỏi lại ngày làm buổi lễ tiễn chị. Nó là thứ Năm hay là thứ Sáu?
– Thứ Năm Ravic ạ. Anh đến chứ?
– Tôi sẽ đến. Tôi chỉ muốn biết có thế thôi. Tôi đi đây. Chào chi.
– Chào anh.
Anh thấy bóng đêm bỗng tràn đầy tiếng la hét và tiếng giông bão. Không còn có nhà cửa… Chỉ là một hoang mạc của những khối đá, một rừng cửa sổ. Rồi bỗng nhiên, tiếng còi báo động, một chiếc xe cảnh sát chậm rãi đi qua trên phố vắng. Chiếc xe, một nơi ẩn nấp để đừng bị ai trông thấy, một chỗ mai phục để chờ kẻ thù.
Bắn chết ngay khi hắn ra khỏi tiệm chăng? Ravic nhìn qua dãy phố một lượt. Vài chiếc xe, mấy ngọn đèn vàng, một con mèo lang thang. Xa xa, dưới một cây đèn đường, một bóng người, hình như là một viên cảnh binh. Số biển trên xe anh, tiếng phát súng mà anh sẽ nổ. Rolande vừa nói chuyện với anh… anh văng vẳng nghe tiếng nói của Morozov “Đừng để hở bất cứ nguy cơ nào. Tuyệt đối đừng. Không bỏ”.
Không có người gác cửa. Không có chiếc xe taxi nào. Rất tốt. Ngày thứ Hai giờ này rất vắng khách. Đúng vào lúc anh suy nghĩ như vậy, một chiếc Citroen đi qua trước mặt anh và đỗ lại ở trước cửa. Người lái xe châm một điếu thuốc lá rồi ngáp một cái đến sái quai hàm. Ravic cảm thấy da mình co lại. Anh đợi một lát.
Anh tự hỏi xem có nên xuống xe và nói với người lái taxi kia là trong tiệm không có ai nữa hay không. Như thế quá nguy hiểm. Cho anh ta tiền để nhờ anh ta đi đâu đấy? Hay là sai anh ta đi đưa một mảnh giấy gì đó cho Morozov? Phải đấy. Phải đấy. Anh lấy trong túi ra một mảnh giấy, nguệch mấy chữ nhắn Morozov đừng đợi anh ở Schéhérazade nữa. Anh ký một cái tên bịa đặt…
Chiếc taxi phóng đi. Anh nhìn theo nhưng không thấy gì ở bên trong xe. Anh không biết Haake có lên xe trong khi anh viết không. Anh sang số một. Chiếc Tilbot quẹo qua góc đường và đuổi theo chiếc taxi. Nhìn qua tấm kính sau lưng chiếc xe, anh không trông thấy ai. Nhưng có thể Haake ngồi mãi trong góc. Anh vượt lên trước chiếc Citroen. Anh vẫn không nhìn thấy gì ở trong xe. Anh cho xe đi chậm lại, để cho xe kia vượt lên. Người lái xe ngoảnh lại quát:
– Ê, đồ ngu! Lái cái kiểu gì thế, muốn tao đâm vào đít phỏng?
– Trong xe anh có một người bạn của tôi.
– Anh xỉn rồi! Anh không thấy xe tôi chạy không à?
Ravic thấy cái máy đếm của chiếc taxi không chỉ số. Anh hãm lại, quay xe thật nhanh và đi ngược trở lại đoạn đường vừa qua.
Haake đang đứng trên vỉa hè. Hắn giơ tay ra hiệu.
– Ê! Taxi!
Ravic đến chỗ hắn và hãm xe lại.
– Taxi phải không?
– Không.
Ravic thò đầu ra cửa.
– Chào ông.
– Cái gì?
– Hình như chúng ta có quen nhau. – Ravic nói bằng tiếng Đức.
Haake nghiêng người ra phía trước. Mặt hắn bỗng rạng rỡ lên.
– Mein Gott [1]… Herr [2] von… von…
– Horn.
– Đúng rồi! Đúng rồi! Herr von Horn. Dĩ nhiên! May quá! Ông đi đâu mà tôi tìm mãi không ra thế, ông bạn thân mến?
– Tôi ở đây, ở Paris chứ đi đâu? Ông lên đây. Tôi không ngờ ông trở sang sớm thế.
– Tôi đã gọi điện cho ông mấy lần. Ông đổi khách sạn rồi à?
– Đâu có! Tôi vẫn ở Prince de Galles.
Ravic mở cửa xe.
– Ông lên đây tôi đưa đi. Giờ này không còn taxi đâu.
Haake đặt chân lên bậc xe. Ravic có thể nghe thấy tiếng hắn thở. Anh trông thấy cái mặt đỏ gay, sưng húp của hắn.
– Prince de Galles à? – Haake nói – Zut! À ra thế! Thế mà tôi cứ nhè khách sạn George V gọi mãi. – Hắn phá lên cười ha hả – Bây giờ thì tôi hiểu rồi. Dĩ nhiên là Prince de Galles. Tôi lẫn lộn hai thằng cha ấy. Tôi không ghi vào sổ tay. Tôi cứ tin vào trí nhớ.
Ravic liếc mắt nhìn cửa tiệm. Trong mấy phút tới sẽ không có ai ra. Các cô gái còn phải thay áo quần mới về được. Nhưng vẫn phải làm sao cho Haake lên xe ngay.
– Ông có ý định vào đây không?
– Tôi cũng định thế, nhưng bây giờ muộn quá rồi.
Haake xì mũi rất to.
– Quả có thế. Tôi là người khách cuối cùng. Bây giờ họ đang đóng cửa.
– Không sao. Chỗ này không hay. Ta đi chỗ khác. Ông lên đi.
– Bây giờ mà có nơi còn mở cửa sao?
– Có chứ. Chính vào giờ này những nơi sang nhất mới mở cửa. Osiris là một hộp đêm dành cho khách du lịch thôi.
– Thật à? Thế mà tôi cứ tưởng đó là một trong những nơi sang nhất.
– Tiệm Osiris ấy à? Một nhà chứa tầm thường. Có những nơi hơn hẳn. Osiris không bì được đâu.
Ravic rú ga mấy lần. Tiếng máy rồ lên rồi lại giảm xuống. Cái mẹo ấy tỏ ra có kết quả. Haake thận trọng lên xe, ngồi xuống cạnh Ravic.
– Gặp lại ông tôi mừng quá – Hắn nói – Mừng thực sự ấy!
Ravic vói tay đóng cửa xe lại.
– Tôi cũng rất mừng.
– Ông nói thế chứ chỗ này cũng hay lắm! Nhiều con gái khỏa thân lắm. Cảnh sát của họ để yên thì lạ thật! Chắc phần đông đều nhiễm bệnh cả nhỉ?
– Những nơi như thế này thì biết thế nào được.
Ravic cho xe chạy.
– Ông có biết những nơi mình có thể hoàn toàn yên tâm về khoản ấy không? – Haake vừa hỏi vừa cắn một mẩu xì gà – Tôi không muốn nhiễm bệnh đúng vào lúc phải về. Nhưng mặt khác, con người ta chỉ sống có một lần!
– Thật thế. – Ravic vừa nói vừa đưa cho hắn cái bật lửa.
– Bây giờ ta đi đâu?
– Ta mở đầu bằng một nhà hò hẹn có được không?
– Nó là cái gì vậy?
– Một ngôi nhà mà phụ nữ tử tế đến để tìm những lạc thú bất ngờ.
– Sao? Phụ nữ tử tế thực sự ấy à?
– Dĩ nhiên. Đó là những người có những ông chồng quá già, hay quá nhạt nhẽo. Cũng có cả những người mà chồng không kiếm được tiền.
– Nhưng làm thế nào… dù sao họ cũng không thể… họ làm thế nào?
– Họ đến đấy một vài giờ. Như để uống ly cooktail. Và nếu có khách thì người ta gọi họ. Nó không giống như các nhà ở Montmartre. Tôi biết một nơi rất hay ở giữa khu rừng Boulogue. Bà chủ trông như một công tước phu nhân ấy. Mọi thứ đều hết sức trang nhã, kín đáo và sang trọng.
Ravic nói thong thả, đầy tự chủ, thở một cách ung dung. Anh lắng nghe mình nói như một người hướng dẫn du lịch. Anh buộc mình phải nói liên tục, để thêm điềm tĩnh. Anh cảm thấy các mạch máu trên cánh tay rung lên. Anh cầm vô lăng bằng cả hai tay, thật vững để tự kiểm soát.
– Ông sẽ ngạc nhiên khi trông thấy các gian phòng. – Anh nói – Đồ đạc bày trong nhà đều là thứ chính bản. Những tấm thảm cổ, những loại rượu tuyệt ngon, một cách phục vụ hoàn hảo, còn đàn bà thì tuyệt đối bảo đảm.
Haake ném ra một đám khói xì gà, rồi quay sang Ravic.
– Tôi thấy tuyệt thật đấy. Chỉ có một điều hơi phiền: các thứ đó chắc phải đắt kinh khủng?
– Tôi cam đoan với ông là họ lấy giá rất phải chăng.
Haake bật ra một tiếng cười khàn khàn và gượng gạo.
– Còn tùy ông quan niệm thế nào là phải chăng! Xin ông đừng quên rằng chúng tôi ở bên Đức, bị hạn chế khá ngặt về ngoại hối.
Ravic khoát tay gạt cái luận cứ ấy đi.
– Tôi rất quen bà chủ. Tôi đã có dịp giúp bà ta nhiều việc quan trọng. Chúng ta sẽ được coi là những thượng khách thuộc một loại hoàn toàn đặc biệt. Tôi sẽ giới thiệu ông là bạn tôi, và rất có thể là người ta sẽ không cho ông trả tiền bất cứ khoản nào. Vài món pourboire là cùng, ít hơn giá một chai rượu ở Osiris.
– Thật ư?
– Ông sẽ thấy.
Haake xoay hẳn người sang phía Ravic.
– Donnerwetter! Ông quả là một tay cừ khôi! – Hắn nhoẻn rộng miệng và cười với anh – Tôi thấy ông am hiểu những nơi thú vị thật đấy! Chắc ông đã giúp bà kia một việc tày trời đấy nhỉ.
Ravic nhìn thẳng vào mắt hắn nói:
– Những nhà như thế đôi khi cũng gặp chuyện phiền hà với nhà chúc trách. Có những mưu toan tống tiền. Ông có hiểu tôi muốn nói gì không?
– Có chứ!
Haake có vẻ nghĩ ngợi.
– Vậy ra ông có thế lực đến thế sao!
– Tôi thì không. Nhưng tôi có mấy người bạn có thế lực.
– Tuyệt quá. Rồi đây ông có thể giúp chúng tôi nhiều việc lớn. Hôm nào ta sẽ bàn về chuyện này, ông thấy có tiện không?
– Rất vui lòng. Ông sẽ ở Paris bao nhiêu lâu?
Haake cười xòa.
– Cứ như thể có số ấy: lần nào tôi cũng gặp ông đúng vào lúc sắp lên đường về. Bảy giờ ba mươi sáng hôm nay tôi sẽ lên tàu. – Hắn nhìn đồng hồ trên bảng lái xe – Tức là còn hai giờ rưỡi nữa. Tôi suýt quên nói cho ông biết. Đến giờ ấy ta phải có mặt ở nhà ga phía Bắc. Ông liệu xem có kịp không?
– Dễ thôi. Ông có phải quay trở lại khách sạn không?
– Không. Túi hành lý của tôi gửi sẵn ở ga rồi. Tôi rời khách sạn từ trưa hôm nay. Như vậy tôi tiết kiệm được một ngày tiền phòng với chế độ ngoại hối…
Hắn lại cười phá lên.
Ravic chợt nhận thấy mình cũng cười ha hả. Anh nắm tay lái chặt hơn. Không thể được! Không thể có được! – Anh nghĩ. Thế nào cũng có một việc gì xảy ra. Chứ một cái hên vô lý đến như thế này không thể tiếp tục mãi được.
Không khí trong lành làm tăng tác dụng của những cốc rượu mà Haake đã tống vào bụng. Giọng hắn lè nhè, và hắn hói năng chậm chạp hơn. Hắn ngồi lại cho thoải mái rồi bắt đầu thiu thiu ngủ. Cái hàm dưới của hắn trễ xuống, mắt hắn nhắm lại. Chiếc xe đi vào những lùm cây tối tăm và vắng lặng của khu Rừng Boulogne.
Cặp đen pha cử hành một điệu vũ ma quái trên con đường, dường như giành giật trong tay đêm tối những bóng cây huyền ảo. Tiếng bánh lăn đều đều, êm êm trên mặt đường rải nhựa. Mùi xiêm gai bay vào cửa xe đã hạ kính xuống. Tiếng máy sâu và mịn trong không khí ẩm ướt. Ánh phản chiếu thoáng qua của một mặt hồ về phía tay trái; dáng dấp u sầu của mấy cây liễu, nhạt hơn những bóng sồi tối sẫm. Những bãi cỏ rắc những giọt sương đêm lấp lánh màu xanh nhạt và màu xà cừ. Con đường cái đi Madrid, con đường đến cửa ô Saint Jacques, con đường đi Neuilly. Một ngôi nhà chìm trong giấc ngủ. Mùi nước. Sông Seine.
Ravic đi ra đại lộ sông Seine. Hai chiếc xà-lan bồng bềnh trong ánh trăng. Trên một chiếc có một con chó cất tiếng sủa. Có những tiếng nói dội trên mặt nước vẳng tới. Một ngọn đèn leo lét ở phía mũi chiếc xà-lan đi trước. Ravic không dừng xe lại. Anh giữ đều tốc độ để khỏi đánh thức Haake. Anh đã tính chuyện dừng lại ở chỗ này. Nhưng không thể được. Hai chiếc xà-lan đi quá gần bờ. Anh rẽ sang đường La Ferme, tách ra khỏi bờ sông đi trở về phía Allée de Long champ. Anh theo con đường này cho đến quá đường Hoàng hậu Marguerite, lái rất cẩn thận. Rồi anh cho xe đi vào những con đường hẹp hơn.
Anh nhìn Haake và thấy mắt hắn mở. Haake đang nhìn anh. Hắn đã ngẩng đầu lên mà người không xê dịch, và nhìn Ravic. Hai mắt hắn long lanh như hai hòn bi bằng thủy tinh trong cái ánh sáng yếu ớt chiếu từ bảng lái. Anh thấy như bị điện giật.
– Ông thức à? – Ravic hỏi.
Haake không đáp. Hắn tiếp tục nhìn Ravic. Hắn không cử động. Ngay mắt hắn cũng không nhúc nhích. Một lát sau hắn mới hỏi:
– Ta đang ở đâu đây?
– Trong rừng Boulogne. Gần tiệm Restautant de La Cascade.
– Chạy được bao lâu rồi?
– Mười phút.
– Không phải, lâu hơn chứ.
– Ông cho là lâu hơn?
– Trước khi ngủ tôi có nhìn đồng hồ. Xe chạy đã được nửa giờ rồi.
– Thật ư? Lạ nhỉ. Sắp tới rồi.
– Tới đâu? – Mắt Haake vẫn không rời Ravic.
– Tới nhà hò hẹn.
Haake cựa mình.
– Quay về đi.
– Ngay bây giờ sao?
– Vâng.
Hắn không còn say nữa. Hắn đã tỉnh hẳn. Gương mặt hắn đã thay đổi. Vẻ vui tính thật thà đã biến mất. Lần đầu tiên Ravic thấy lại cái bộ mặt anh đã từng biết, bộ mặt đã vĩnh viễn ghi vào trí nhớ của anh, trong những phòng tra tấn của sở Gestapo. Và đồng thời, cái cảm giác lướng vướng mà anh đã thể nghiệm từ khi anh gặp lại hắn cũng tan biến. Anh không còn có cảm giác là mình đang chuẩn bị giết một người hoàn toàn xa lạ chẳng có gì liên quan đến mình. Anh đã chở lên xe một anh chàng vui tính thích uống vang đỏ, và anh đã hoài công tìm trên gương mặt con người này những cái gì làm thành tất cả lẽ sống của anh trong mấy ngày nay. Thế nhưng bây giờ anh đã thấy lại chính đôi mắt mà anh đã nhìn thấy khi anh rời bỏ trạng thái vô thức để bước vào một thế giới mà chỉ có sự đau đớn là tồn tại mà thôi. Cũng chính đôi mắt lạnh như thép ấy, cái giọng trầm trầm và băng giá ấy…
Một phản ứng đột ngột xảy ra trong người Ravic. Nó như một dòng điện bỗng đảo ngược hai cực lại. Sức ép vẫn còn đó, nhưng sự giao động, sự bứt rứt và sự bất định đã chuyển thành một dòng điện duy nhất hướng thẳng vào một chiều. Những năm tháng đều sụp đổ thành một đống tro tàn. Căn phòng tường xám hiện ra trước mắt anh như một cơn ác mộng, với những cái bóng đèn chói chang, với mùi máu, mùi mồ hôi, mùi của đau đớn và sợ hãi.
– Sao lại quay về?
– Tôi phải quay về. Có người đang đợi tôi ở khách sạn.
– Nhưng ông vừa nói là hành lý đã gửi ngoài ga rồi mà.
– Đúng thế. Nhưng tôi còn một việc phải thanh toán trước khi đi. Tôi quên mất. Ông quay về đi.
– Tùy ông.
Suốt tuần vừa qua, Ravic đã lái xe chạy ngang dọc trong khu rừng Boulogne hàng chục lần, ban ngày lẫn ban đêm. Anh định hướng được ngay. Mấy phút nữa thôi. Anh quẹo sang trái rẽ vào một con đường hẹp.
– Về lối này à?
– Vâng.
Mùi hương nặng dưới những lùm cây mà ánh nắng không bao giờ lọt qua. Bóng tối dày đặc hơn. Hai luồng ánh sáng từ hai ngọn đèn pha chiếu ra. Trong miếng kính hồi quan Ravic trông thấy bàn tay trái của Haake từ từ, từng chút một rời xa của xe. Anh lại cho xe rẽ ngoặt, hai tay nắm vô lăng hết sức chặt. Ra đến đường thẳng, anh cho xe chạy thật nhanh, rồi mấy giây sau, hết sức đột ngột, anh lấy hết sức nặng ấn xuống bàn đạp hãm xe.
Chiếc Taibot chồm lên. Bộ hãm rít ken két. Một chân Ravic dẫm phanh còn chân kia anh đạp mạnh xuống sàn xe để khỏi mất thăng bằng. Haake không kịp rút tay ra khỏi túi. Hắn bị xô mạnh về phía trước, trán dập vào cạnh bảng lái. Ngay lúc ấy, Ravic phang mạnh vào cổ hắn, ngay phía dưới ót, bằng cái clê ăng-lê nặng trịch mà anh vừa rút ở túi xe, bên phải ra.
Haake không dậy nữa. Hắn nặng nề ngã sang một bên. Vai phải hắn đè mạnh vào bảng lái không để cho thân hình hắn tuột xuống sàn.
Ravic cho xe đi tiếp. Anh đi qua đại lộ và giảm ánh sáng đèn pha. Anh chờ xem thử có ai tình cờ nghe thấy tiếng hãm xe không. Anh tự hỏi xem có nên lôi Haake ra khỏi xe rồi giấu hắn sau một dãy rào để phòng khi có ai đến. Cuối cùng anh dừng xe lại ở gần một ngã tư, tắt đèn và tắt máy. Anh mở cửa xe, nhảy xuống đường và mở ca-pô ra giả vờ xem máy. Anh nghe ngóng một lúc. Nếu có ai đến, anh có thể nhìn thấy và nghe thấy từ xa. Anh sẽ có đủ thì giờ kéo xác Haake ra sau một bụi cây và làm ra bộ bị hỏng máy.
Xung quanh im phăng phắc. Một sự im lặng sống động. Nó đột ngột, bất ngờ đến nỗi Ravic nghe thấy nó rõ mồn một. Anh xiết chặt nắm tay lại đến phát đau lên. Anh biết rằng đó là máu anh đang kêu ong ong trong tai anh. Anh thở thật chậm và thật sâu.
Tiếng ong ong trở thành tiếng gầm. Qua tiếng gầm ấy, anh nghe ra một âm thanh rất cao, rất sắc và mảnh, càng ngày càng tăng cuồng độ. Ravic cố hết sức nghe. Âm thanh ấy mạnh lên, đanh như kim loại… và anh chợt hiểu ra rằng đó là tiếng dế kêu, và tiếng gầm kia đã tắt. Trong bóng lê minh đang nhạt dần chỉ còn lại cuộc hòa tấu của đàn dế trên bãi cỏ hẹp trước mặt anh.
Ravic đóng ca-pô lại. Gấp lắm rồi, phải làm cho xong trước khi trời sáng. Anh nhìn xung quanh. Chỗ này không thuận lợi. Anh đã chọn sai khu rừng này. Khi bắt đầu đi anh không ngờ là đã muộn đến thế.
Anh quay phắt lại: vừa có tiếng một vật gì cào vào xe, kềm theo tiếng rên rỉ. Một bàn tay của Haake buông thõng ra ngoài, đang sờ soạng trên bậc xe. Ravic nhận thấy mình vẫn đang cầm cái clê ăng-lê. Anh túm lấy cổ áo Haake, nhấc lên để cho cho cái đầu khỏi vướng và lấy hết sức lực giáng cái clê xuống hai lần. Tiếng rên im bặt.
Một tiếng động gọn. Ravic sững người ra. Rồi anh nhận thấy đó là một khẩu súng lục từ trên ghế rơi xuống bậc xe. Chắc Haake đã cầm nó trong tay khi Ravic dận phanh. Ravic ném nó vào trong xe.
Anh lại lắng tai nghe. Tiếng dế kêu. Bãi cỏ. Nền trời đang nhạt dần và như lùi ra xa. Chỉ ít nữa là rạng đông. Ravic mở cửa xe, lôi Haake ra ngoài, hạ cái ghế trước và thử đặt xác kẻ thù ở sàn, giữa hai hòm đựng hành lý, lấy hết đồ ra trong vòng một giây. Anh lại kéo Haake ra khỏi xe và lôi xềnh xệch ra phía sau. Haake chưa chết hẳn. Hắn rất nặng. Mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt Ravic. Anh nhét được cái xác vào hồm đựng đồ. Hắn giống như một cái thai khổng lồ, hai đầu gối co lên đến tận cằm.
Anh nhặt mấy thứ dụng cụ ban nãy để trong hòm đồ: một cái xẻng và một cái kích, đem đặt ở phía trước xe. Trên một cái cây rất gần chỗ anh, một con chim cất tiếng hót. Anh giật nẩy mình. Mặt trời sắp mọc rồi.
Anh không thể để sơ hở một mảy may. Anh trở ra phía sau, nhấc nắp hòm lên một nửa, đặt chân lên thanh chắn và dùng đầu gối giữ cái nắp ở tư thế ấy, vừa đủ để tho hai tay vào. Nếu có ai đến, sẽ thấy anh đang làm một việc gì hoàn toàn vô hại, và anh chỉ có việc buông cho cái nắp sập xuống. Anh còn một quãng đường dài phải đi. Trước hết phải giết cho Haake chết hẳn.
Đầu hắn ở trong góc bên phải cái hòm đồ. Anh có thể nhìn thấy nó. Cổ hắn không căng. Động mạch trên cổ vẫn phập phồng. Anh đặt hai bàn tay quanh cổ Haake và lấy hết sức xiết thật mạnh.
Anh tưởng phút ấy kéo dài vô tận. Cái đầu khẽ cựa quậy. Rất yếu ớt. Cái thân như muốn duỗi ra. Có thể tưởng chừng nó bị áo quần gò lại. Cái miệng mở ra. Trên cây, con chim cao giọng hót inh ỏi. Cái lưỡi dày cộm lên đầy mồm. Bỗng Haake mở một mắt ra. Con mắt lồi lên khỏi tròng, dường như có được thị giác trở lại, và nhích tới gần mặt Ravic… Thân hình Haake mềm nhũn ra. Ravic giữ chặt hai tay thêm vài phút nữa. Thế là xong.
Cái nắp hòm sập xuống. Ravic bước mấy bước. Rồi anh tựa vào một thân cây và nôn thốc ra. Anh có cảm giác là dạ dày của anh bị ai lôi ra. Anh cố thôi mửa, nhưng không được.
Khi ngước mắt lên, anh trông thấy một người đàn ông đi qua bãi cỏ. Người đó nhìn anh. Ravic vẫn đứng yên. Người kia mỗi lúc một gần lại. Hắn đi thong thả, dáng đi bình thản. Hắn ăn mặc như một người làm vườn hay một người thợ. Hắn nhìn Ravie. Ravic nhổ nước bọt rồi rút trong túi ra một bao thuốc lá. Anh châm một điếu. Vừa hút một hơi, anh cảm thấy như bị bỏng họng. Người kia băng qua đường. Hắn nhìn nơi Ravic vừa nôn, rồi nhìn cái xe, rồi lại nhìn Ravic. Hắn không nói lấy một lời, và Ravic không đọc thấy gì trên gương mặt hắn. Vẫn dáng đi bình thản ấy, hắn khuất sâu ngã tư đường.
Ravic đợi thêm vài giây nữa. Rồi anh khóa cái hòm đồ lại và lên xe cho nổ máy. Anh không có việc gì làm ở khu rừng Boulogne nữa. Trời đã sáng quá rồi. Anh phải đến rừng Saint Germain. Anh biết rất rõ khu rừng này.
Chú thích:
[1] Lạy Chúa tôi (tiếng Đức).
[2] Ngài.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.