Người Làm Chứng

CHƯƠNG 4



Nạn nhân của những vụ giết người không bao giờ được coi là một con người thực sự. Người phát hiện ra các thi thể thường trong tình trạng sợ hãi tột độ và gọi ngay cho cảnh sát. Những nhận viên mặc đồng phục sẽ xuất hiện, sau đó điều tra; phòng hình sự sẽ gửi đến một người chụp ảnh, rồi lấy vân tay, rồi đo khoảng cách giữa các vật trong hiện trường. Điều tra viên sẽ đến, khám nghiệm tử thi, lật tới lật lui, tìm mọi thứ từ nước da xám xịt cho đến vết thương đã sinh giòi.
Những người làm công việc này đã thực hiện các động tác ấy hàng trăm lần và sẽ tiếp tục hàng trăm lần nữa. Họ không cho phép mình ngay lập tức công nhận nạn nhân ấy chính là con, mẹ, anh trai, người yêu của một ai đó. Người này có thể là bất kỳ ai cũng như không phải bất kỳ ai, bởi vì biết đâu khi họ sống, những gì tự nhận về nhân thân mình chỉ là dối trá. Chỉ khi nào nhân viên điều tra tìm ra đủ các chứng cứ về cuộc sống trước đây của họ, thì trong óc người khác, họ mới được coi là cha, là chị gái, là chồng, hay là bạn bè của một người nào đó.
Xác chết được tìm thấy dưới nước này cũng chỉ được coi là một “vật thể nổi lên” mà thôi. Thật không gì kinh khủng hơn một xác chết trôi đã ngâm nước vài ngày, một quãng thời gian đủ để nội tạng bắt đầu bị phân hủy và cơ thể tích đầy khí đến mức trương phồng một cách kỳ dị, đủ để da thật bắt đầu tróc lở cho lũ cá và côn trùng rỉa rói.
Lúc cuối cùng tôi nhìn thấy Irina là chiều thứ bảy. Còn hôm nay đã là thứ hai.
Lúc cô ta được kéo lên khỏi mặt nước, tôi không dám nhìn, đúng ra là không dám nhìn thẳng. Tôi có thể để cho Landry đưa mình về và rời khỏi cái nơi kinh khủng này, nhưng tôi thấy mình có nghĩa vụ phải ở lại thêm một lúc nữa.Cô ấy là một phần gia đình thứ hai nơi trang trại này. Tôi thấy cần phải bảo vệ cô ấy.
Nhưng đã quá muộn rồi. Thật không may mắn.
Những nhân viên mặc sắc phục nhận được lệnh phải kéo con cá sấu lên bờ. Họ kiểm tra kỹ những mẩu da người còn giắt trong hàm răng của con bò sát.
Tôi châm một điếu thuốc khác.Tay tôi run lên.
Tôi dựa người vào thành xe vì không còn đủ sức để ngồi xuống nữa.
Những ngày còn “hành nghề”, chẳng có gì có thể ảnh hưởng được tới tôi. Tôi vô cảm. Mạch máu trong tôi đóng băng lại. Chẳng có vụ nào tôi không xử lý được. Tôi là một phụ nữ đang làm nhiệm vụ, đang thực thi công lý, hay chí ít thì cũng gô cổ những tên ma cà bông vào phòng xử án. Tôi chạy theo hết vụ này đến vụ khác, như một con nghiện tìm đến những liều nặng hơn.
Nạn nhân cuối cùng mà tôi nhìn thấy trong chuỗi ngày làm cảnh sát là một người mà tôi quen biết, là người tôi vẫn cộng tác hàng ngày và là người tôi yêu quý. Anh ấy bị giết vì sai lầm của chính tôi. Tôi đã đưa ra một quyết định sai khi tấn công một ổ thuốc ở vùng nông thôn Loxahatchee mà không mang theo súng, nên mới xảy ra chuyện. Một trong những tên buôn ma túy có đôi mắt của loài thú hoang, Billy Golam, chĩa thẳng khẩu 357 vào mặt tôi, nhưng bất thần lại đổi hướng và nổ súng.
Tôi kinh hoàng nhìn viên đạn bay vào mặt đội phó Hector Ramirez và xuyên thủng ra tận gáy, máu và óc phun lên tường, lên trần nhà và cả người viên trung úy đang đứng đằng sau anh ta.
Ba năm đã qua đi, nhưng tôi vẫn bắt gặp cảnh đó trong những cơn ác mộng. Hàng đêm khuôn mặt của Hector Ramirez luẩn quẩn trong hồi ức tôi.
Nhưng tôi cho rằng đêm nay, khuôn mặt của Irina sẽ thay thế hình ảnh người đã vì tôi mà phải chết. Khuôn mặt xanh nhợt của Irina sẽ nhìn tôi chằm chằm trong giấc ngủ chập chờn, cả đôi mắt và đôi môi rách nát của cô ấy nữa. Ý nghĩ này làm tôi cảm thấy phát ốm trở lại.
Tôi biết nhiều về cô ấy không. Landry đã hỏi thế.
Tôi biết cô ta hơn một năm nay. Cuộc sống của chúng tôi sẽ tiếp tục xoay tròn như thế nếu không xảy ra biến cố gì. Tôi thương cảm. Đó là sự day dứt trong một cảm giác tội lỗi. Tất cả chúng ta sẽ đều cảm thấy một điều gì đó khi mất đi một người mà chúng ta chẳng hề dành thời gian để tìm hiểu kỹ về họ. Chúng ta luôn tin rằng thời gian hãy còn nhiều, hãy để sau việc này, việc kia nữa… Nhưng thực sự chẳng bao giờ còn thời gian sau khi người ta chết.
Phía bên kia dòng kênh, Landry và những người còn lại mải mê thực thi nhiệm vụ bằng việc phỏng đoán và thu thập chứng cứ trên hiện trường. Họ còn ở đó lâu. Họ chẳng mong đợi gì ở tôi ngoài một lời khai chi tiết mà Landry sẽ lấy sau đó.
Irina chết rồi. Tôi chẳng thể thay đổi được điều gì. Tôi bất lực đứng nhìn đám người bước tới bước lui xung quanh phần còn lại của thi thể cô ta, giống hệt một thùng rác bị những con thú hoang xé tung ra.
Tôi chưa bao giờ có ý định quan tâm về đời tư của cô ấy. Dù sao thì tôi cũng là người quen biết cô ấy. Đó là những gì tôi có thể làm cho Irina. Thậm chí tôi còn biết rằng chuyện này sẽ đưa tôi đi xa hơn nữa. Nếu tôi biết chính xác chuyện gì sẽ xảy ra, hẳn tôi đã có những quyết định khác.
Như thể nhìn thấu tâm can tôi, Landry quan sát vẻ lo lắng. Nhưng tôi đã bước vào trong xe, quay đầu lại và về nhà.
Tôi và Irina đến trang trại của Sean cùng một lúc, làm cùng một công việc như nhau. Thật ngẫu nhiên, đấy chính là định mệnh, nếu bạn tin là như thế. Nhưng lúc đó thì tôi không tin vào bất cứ điều gì cả.
Tôi đã viết thư theo một tin quảng cáo trên tờ Sidelines, một tạp chí địa phương dành cho những người kinh doanh ngựa: cần người chăm sóc ngựa. Và người chủ thuê lại chính là Sean Avadon.
Tôi và Sean biết nhau từ khi tôi còn là một đứa con gái nhỏ, sống với bố mẹ trên một hòn đảo thuộc vùng Palm Beach. Suốt tuổi dậy thì nổi loạn và đầy lo âu, những con ngựa là cứu cánh giúp tôi thoát khỏi cuộc sống rỗng tuếch, mục ruỗng với đầy đủ những đặc ân. Sean, nhiều tuổi hơn tôi và dữ dội hơn, sống trong hai tòa biệt thự dưới phố. Chúng tôi là bạn bè, một cặp chênh lệch và là anh em mặc dù chẳng máu mủ ruột rà gì. Sean đã tạo ra khiếu hài hước nơi tôi, và cả thời trang nữa, anh ta khẳng định thế. Những gì anh không dính dáng vào, tôi cũng chẳng đ�� đến.
Tôi đã trải qua những quãng thời gian đen tối cho đến khi Sean quay trở lại trong cuộc đời tôi, hay là tôi quay trở lại cuộc đời của anh ấy, đúng lúc tôi đầy những điên cuồng, giận dữ và ảo tưởng về một cuộc tự sát. Trong suốt hai năm trời tôi ra vào bệnh viện như cơm bữa. Vào đúng ngày Hector Ramirez bị giết, tôi bị kéo lê bởi chiếc xe tải của lũ buôn ma túy, xương thịt tôi bị chà sát trên vỉa hè đến vỡ ra và rách toạc. Tại sao tôi không chết, tôi cũng không hiểu nổi, và tôi đã tự trừng phạt mình trong suốt hai năm trời. Sean đã mang lại cho tôi và Irina công việc coi sóc ngựa và một ngôi nhà để ở. Anh đưa tôi về như một chú chim bị thương và khi thấy tôi đã hồi phục, anh để tôi chăm sóc lũ ngựa. Làm quen với chúng quả nhiên có ích cho tôi hơn lúc nào hết.
Chỗ ở của Irina nằm ngay phía trên phòng tiếp khách trong trang trại. Tôi vào phòng khách, đứng sau quầy bar, lấy một chai Stoli ra khỏi tủ lạnh và rót một ít vào chiếc cốc pha lê to. Dựa người vào quầy, tôi nhìn căn phòng như thể đó là một sân khấu, và nhớ lại câu chuyện giữa tôi và Irina hồi năm trước.
Cô đã từng ném một chiếc giày chăn ngựa vào đầu một tay buôn ngựa người Bỉ do hắn dụ dỗ Sean nhượng lại cô cho hắn với một khoản tiền lớn. Cô ta cũng dám giết thằng cha đó vì sự hạ nhục này lắm. Cơn thịnh nộ của cô như có thể sờ thấy được, nó nóng bỏng, ngùn ngụt và cay độc. Cô đã lao vào hắn đấm đá liên tục cho tới khi Sean xoa dịu gã người Bỉ. Rồi cô kể cho tôi nghe câu chuyện về một cô bạn người Nga đã làm việc cho tên này, hắn lạm dụng và sử dụng cô ta. Cuối cùng cô gái ấy đã phải tự sát. Irina muốn trả mối hận. Tôi ngưỡng mộ cô ta về điều đó. Cả cuộc đời tôi chưa thấy người nào đủ tự tin để tự thanh toán những ân oán của đời mình.
Đầy cảm xúc. Mang trái tim của loài cọp cái. Tôi tự hỏi liệu cô có tự giành giật mạng sống cho chính bản thân mình, liệu tên giết người kia giờ vẫn còn mang khuôn mặt bị cào xước bởi những ngón tay cô sắc nhọn, với một đôi mắt bị móc ra hay dáng đi không thể thẳng lên được? Tôi hy vọng thế.
Tôi tự nâng cốc và uống cạn ly vodka.
Tháo đôi găng tay mỏng và chặt, tôi bước lên cầu thang xoắn dẫn tới căn phòng của Irina. Nếu Landry mà biết được những gì tôi sắp sửa làm thì hẳn anh ta sẽ nổi khùng lên. Dĩ nhiên, những lời can ngăn không bao giờ khiến tôi chấm dứt những ý định nảy ra trong đầu.
Một người kín đáo như Irina luôn luôn khóa cửa phòng nhưng tôi biết chỗ cô ta thường giấu chìa khóa. Vụ giết người hẳn không thể xảy ra ở đây. Mọi thứ vẫn nguyên si, không có gì lộn xộn. Một chiếc tách cà phê trong bồn rửa. Những cuốn tạp chí thời trang mới nhất vẫn vứt rải rác trên mặt bàn.
Cô để đồ trang điểm bừa bãi trên kệ bồn tắm. Tôi nhớ lại hôm thứ bảy cô có vẻ giận dữ. Cô đi ra ngoài một mình, ăn mặc đẹp mê hồn. Irina có thể lên trang bìa của những tạp chí trong phòng cô còn dễ hơn trông ngựa. Mặc áo pull, quần soóc loe, ủng làm đồng, trông cô vẫn có dáng dấp quý tộc và lịch lãm. Những ngăn kéo đựng đồ trang điểm toàn những thứ thông thường: sơn móng tay, nút gạc, bông thấm, bao cao su. Tôi tự hỏi không biết tối hôm đó cô có nhét hai thứ sau cùng này vào ví không vì nếu như đã biết trước những gì sẽ diễn ra trong một cuộc hẹn.
Irina hẹn hò với những loại đàn ông nào? Giàu có. Rất giàu. Cực kỳ đẹp trai. Cô ấy sẽ không bao giờ chạy theo tiền bạc nếu như cái gã ví căng phồng đó là một con cóc mồ hôi dầu, hói đầu và vừa lùn vừa béo. Cô ấy tự đánh giá được bản thân mình.
Suốt cả mùa vừa rồi Wellington không thiếu những gã đàn ông hào nhoáng và ních đầy tiền. Môn thể thao đua ngựa được đăng ký bản quyền bởi những người giàu có từ thời Caesar, và có thể sau này vẫn vậy. Những cô cậu nhà giàu, những vương tôn công tử người Mỹ hay từ hàng chục quốc gia khác góp phần hình thành nên bức tranh quốc tế đa dạng ở nơi trình diễn và sân polo. Suốt từ tháng giêng đến tháng ba, các thành viên đảng phái và những người quyên góp từ thiện cũng xuất hiện ở nơi này.
Irina có dự định gì vào đêm hôm ấy? Tôi có thể dễ dàng hình dung ra tên sát nhân lạnh lùng thô kệch xuất hiện vào đúng lúc cô nhận ra rằng cuộc sống của mình đã trở nên sai lầm nghiêm trọng.
Tôi bước vào phòng ngủ và nhìn thấy những dấu hiệu chứng minh cho tính cách của quý tộc Nga. Trên giường đầy những món đồ chắc đã được thử vào người rồi quăng ra, đúng hôm cô gái đi
Tủ quần áo của cô quá đắt tiền so với một dân di trú bất hợp pháp làm nghề trông ngựa. Ở Wellington này, một người trông ngựa có thể kiếm được 600 đô la một tháng để chăm sóc một con ngựa, cộng với tiền thưởng công nhật vào những ngày trình diễn, khoảng từ 35 đến 50 đô la, cho việc chải bờm ngựa.
Trang trại của Sean có tám con ngựa, và Irina không phải trả tiền thuê nhà. Chi phí cho cuộc sống của cô ta rất thấp, chủ yếu là thuốc lá (cô ta chỉ hút thuốc lúc đi ra ngoài trang trại, chẳng bao giờ thấy có khói thuốc trong nhà cô) và thực phẩm (về hạng mục này thì cô ăn như mèo, tôi có thể thấy điều đó qua những thức ăn để trong tủ lạnh). Như vậy, đa phần thu nhập cô để dành cho quần áo.
Các nhãn mác toàn thương hiệu nổi tiếng: Armani, Escada, Michael Korrns. Hoặc cô ta tiêu sạch số tiền kiếm được vào quần áo, hoặc cô ta còn nguồn thu nhập khác nữa.
Nhưng cả ngày Irina ở trang trại. Việc trong coi ngựa bắt đầu từ bảy rưỡi sáng, đêm cũng phải kiểm tra chúng lúc 10 giờ. Cô ấy chỉ được nghỉ ngày thứ Hai. Chẳng còn thời gian để kiếm thêm nữa.
Trên bàn trang điểm của Irina còn vài thứ nữa: một chiếc khăn quàng hiệu Hermes, vài lọ nước hoa đắt tiền, lắc bạc, một lược chải đầu, một máy ảnh và một bộ bài. Tôi thảy hết những thứ này vào túi.
Tôi kiểm tra các ngăn kéo tủ. Đồ lót. Nhỏ xíu và gợi tình. Một dãy áo pull và quần sooc mặc làm việc được xếp ngay ngắn. Ngăn kéo to dưới cùng bên phải có một hộp đồ trang sức làm bằng gỗ vân đựng vài thứ rất đẹp: mấy đôi khuyên tai kim cương, hai chiếc lắc cũng nạm kim cương và hai chiếc nhẫn. Tôi nhấc một chiếc vòng bằng vàng trắng khá nặng ấy và kiểm tra những món đồ có giá trị khác: một cây thánh giá nạm những viên ngọc thạch lựu nhỏ xíu đỏ như máu, một bông cỏ ba lá tráng men xanh lục, một đôi ủng cưỡi ngựa bằng bạc và một trái tim bằng kim loại quý trên có khảm chữ: B tặng I – B.
Một chiếc bàn nhỏ kê sát cạnh gường kiêm táp đờ luy và bàn viết. Irina còn để mở laptop trong lúc vội vã ra ngoài hôm thứ bảy. Trên màn hình vẫn chiếu những slideshow ảnh cá nhân.
Tôi ngồi xuống ghế để xem cho kỹ. Có vài bức ảnh chụp những con ngựa mà Irina trông coi, ảnh chụp Sean đang cưỡi ngựa ở trường đua Wellington và bức tôi cưỡi con D’Artagnant, con ngựa lông màu hạt dẻ rất đẹp của Sean, sương sớm bao phủ bên dưới khiến cả người lẫn ngựa trông như đang trôi bồng bềnh.
Những bức ảnh thú vị hơn chụp Irina và các bạn của cô đang tụ tập dọc một bên sân polo. Sân vận động Polo Quốc tế lúc nào cũng đông kín người đứng hai bên cánh.
Cả nhóm Irina đều không mặc quần jean và áo pull mà ăn mặc như đi dự tiệc, Irina đeo chiếc kính râm rất to hiệu Dior, mặc chiếc váy đen mỏng như muốn khoe cả đôi chân dài. Tóc cô buộc gọn ra sau thành một túm. Mấy cô bạn của Irina cũng ăn mặc tương tự. Đội mũ rộng vành, cười hết cỡ, ly sâmpanh cầm trên tay.
Tôi không nhận ra ai trong số họ. Thậm chí nếu họ có là những người coi sóc ngựa ở những trang trại lân cận, thì tôi cũng không thể nhận ra nếu họ không mặc trang phục ngày thường. Ở đây là như vậy. Trong những buổi giao tế, người ta phải mất đến một tiếng để nhận ra những người mình vẫn gặp hàng ngày trong những bộ trang phục xuềnh xoàng và mũ lưỡi trai.
Trong những bức ảnh không chỉ có các cô gái. Còn có gần chục bức khác chụp những vẫn động viên polo Argentina hấp dẫn, một vài người cưỡi ngựa, có người đứng, cười, tay choàng lên vai những cô gái khác. Tôi tự hỏi ai trong số họ là B.
Tôi chạm vào con chuột. Màn hình chờ biến mất. Trên màn hình hiện ra trang web gần đây nhất Irina đã truy cập: www.Horsedaily.com.
Không do dự, tôi lướt đôi tay đeo găng lên bàn phím và click chuột liên tục cho đến khi tôi tìm ra file đựng ảnh. Tôi muốn chuyển hết chúng vào email của tôi nhưng chắc chắn việc này sẽ để lại dấu vết, và rồi Landry lại riết róng phát nhức đầu. Tôi liền rút chiếc máy ảnh của Irina ở trong túi và chụp lại những bức ảnh được phóng to trên màn hình. Màn hình desktop hiện ra tôi đóng hết các file ảnh lại. Biểu tượng AOL 1 nhấp nháy. Nếu may mắn, tôi sẽ tìm thấy số tài khoản và mật khẩu mà Irina lưu lại để đỡ phải đăng nhập mỗi lần truy cập. Cô ấy sống một mình. Chẳng có kẻ tò mò nào sống cùng khiến cô ấy phải đề phòng.
Tôi click sign on và ngay lập tức được đền đáp bằng một lời chào AOL và tín hiệu báo Irina có thư. Tôi không mở mail vì điều đó sẽ lộ ra có người truy cập vào máy tính của Irina sau khi cô ta chết. Nhưng tôi rút một mẩu giấy trong ngăn bàn và ghi lại địa chỉ người gửi.
Tuy nhiên truy cập vào các mail đã mở rồi lại là một chuyện khác. Tôi mở tất cả các mail trong ba ngày gần nhất trước lúc cuối cùng tôi nhìn thấy Irina và in lại toàn bộ. Sau đó tôi đọc lại rất kỹ, tìm kiếm tất cả dấu hiệu và điềm báo trước một tai họa, nhưng tôi không đủ thời gian.
Trên bàn viết cũng có một giỏ đựng thư tay. Có một coupon của tiệm Bed Bath & Beyond, một hóa đơn y tế, và một thư mời tham gia câu lạc bộ sống khỏe. Lật mặt sau của một bức thư, tôi ghi nhanh tên và địa chỉ của bác sĩ.
Đèn trên điện thoại bàn lóe sáng báo hiệu có tin nhắn, tôi cực kỳ muốn mở ra xem song không thể, vẫn cùng một lý do giống như tôi phải để lại email mới gửi trong hộp thư của Irina. Tuy nhiên, tôi vẫn có thể kiểm tra lại số những cuộc gọi nhỡ mà không ảnh hưởng đến những tin nhắn kia.
Danh mục trên màn hình nhỏ xíu hiện ra bốn cuộc gọi nhỡ. Tôi lấy đầu bút nhấn nút xem lại các cuộc gọi rồi ghi nhanh những số điện thoại. Hai cuộc gọi là trong vùng, một số nhìn giống mã vùng Miami, và một cuộc gọi không hiện số. Tất cả đều vào ngày Chủ nhật, cuộc gọi cuối cùng là vào lúc 11 giờ 32 phút tối, từ Lisbeth Perkins.
Tôi tự hỏi không biết những người này sẽ cảm thấy thế nào nếu họ nhận được tin Irina đã chết, có thể chết đúng vào lúc họ gọi điện cho cô ấy.
Bạn bè cô ấy là những ai? Cô có gia đình không? Một trong số bốn cuộc gọi này phải chăng từ một người tình nào đó của cô?
B. tặng I.
Tôi lục ngăn kéo để tìm cuốn danh bạ điện thoại nhưng không thấy. Chắc hẳn Irina đã lưu hết trong máy cầm tay hoặc trong máy tính. Chiếc điện thoại di động giống như một phần thân thể của Irina, được sử dụng liên tục nên chắc hẳn phải ở bên cạnh Irina vào đêm cô bị giết chết. Tôi không biết liệu Landry và những người đi cùng có tìm được chiếc ví của Irina trong đám cỏ hay dưới bờ kênh không.
Nếu không thể tìm được điện thoại của cô ấy, thì cách tốt nhất là lấy mấy hóa đơn điện thoại mà tôi tìm thấy trong chiếc hộp bằng nhựa dưới gầm bàn. Tôi lấy hai hóa đơn, vội vã xuống gác và sao lại bằng máy fax trong văn phòng Sean.
Tôi nhìn ra ngoài trang trại, lo ngại Landry sẽ xuất hiện cho dù biết chắc anh còn mất nhiều thời gian ở hiện trường. Anh không vội gì phải vào căn hộ của nạn nhân. Việc ưu tiên trước mắt là thu thập các chứng cớ còn sót lại ở chỗ nạn nhân bị bỏ lại. Dấu giày, đầu lọc thuốc lá, vũ khí, một chiếc bao cao su dùng rồi hay bất cứ thứ gì mà thủ phạm lỡ đánh rơi.
Landry là người chỉ đạo công việc này.Anh sẽ ở lại đó và nghiên cứu kỹ từng chi tiết. Anh cũng sẽ phải làm việc với giới truyền thông, vì những phóng viên, như một lũ chó săn tài tình, sẽ đánh hơi thấy xác chết và ập đến ngay bây giờ.
Tôi vội quay trở lên và trả lại những tờ hóa đơn. Còn những bản photo, tôi gấp nhỏ lại rồi lận vào thắt lưng quần.
Tiếng lạo xạo của lốp xe ô tô nghiến trên sân trại đã gần ngay cửa sổ. Người đóng móng đến để thay móng cho ngựa, ngay sau xe của anh ta là một chiếc xe tải của hãng Gold Coast Feed.
Cả thế giới có mặt ở đây chắc. Mọi thứ lúc nào cũng chơi ác tôi. Không còn phút tĩnh lặng nào để tưởng niệm người chết, hoặc lưu lại trong trí nhớ những thứ cô ta còn để lại.
——————————–
1 American Online

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.