Khẩu pháo vẫn lao qua lao lại trong hầm tàu. Có thể nói đó là chiếc xe của Apocalypse [25]. Ngọn đèn đi biển lắc lư trong khoang hầm súng làm cho cảnh tượng đó lúc tối, lúc sáng, nhìn càng chóng mặt. Khẩu pháo lao nhanh dữ dội, không còn trông rõ hình thù nữa, chỉ thấy đen xì lúc nó lao ra ngoài sáng, và ánh lên màu trắng đục mờ khi nó lẩn vào trong bóng tối.
Khẩu pháo vẫn tiếp tục hủy hoại con tàu. Nó đã phá vỡ thêm bốn khẩu pháo nữa và chọc hai lỗ thủng ở thành tàu, may sao chỗ thủng ấy còn trên mực nước, nhưng nếu bão nổi lên bất ngờ thì nước sẽ theo đó mà ập vào. Nó đâm bổ vào khắp các bộ phận trong con tàu như điên như dại, những tấm gỗ dày, ốp hai bên mạn tàu chịu đựng rất khỏe, nhất là loại gỗ uốn cong càng có sức bền đặc biệt; thế nhưng người ta vẫn nghe tiếng gãy răng rắc, vì bị cái chùy khổng lồ kia nện bốn phía, liên hồi. Bỏ một hạt chì vào trong chai rồi đem xóc lên cũng không có những tiếng đập điên loạn và dồn dập như thế. Bốn bánh xe lăn đi lăn lại trên những xác chết, cắt xé, băm ra từng mảnh, và năm xác chết đã biến ra hai chục khúc thịt lăn lóc khắp hầm súng; những chiếc đầu lâu như đang kêu la; những dòng máu chảy ngoằn ngoèo trên sàn theo nhịp chòng chành của con tàu. Bộ phận ván lót phía trong còn tàu bị hư hỏng ở nhiều chỗ bắt đầu hở toác ra. Tiếng động khủng khiếp vang khắp con tàu.
Viên thuyền trưởng đã trấn tĩnh ngay được, rồi theo lệnh ông ta, người ta vứt xuống qua cửa hầm mọi thứ đồ vật có thể giảm tốc độ hoặc chặn khẩu pháo bất kham lại, nào đệm, võng, buồm dự trữ, các cuộn dây chão, các bọc hàng và các bao đựng những tín phiếu giả chở đầy trên tàu – trong thời chiến, việc sử dụng các tín phiếu giả là một hành động đốn mạt, nhưng được người Anh coi là chính nghĩa.
Nhưng những đống giẻ rách ấy làm nên trò gì? Không có ai dám xuống chèn cho đúng cách, nên vài phút sau tất cả những đồ vật kia chỉ còn là một đống giẻ vụn.
Lúc đó, sóng bể khá dữ dội, đủ cho tai nạn hoàn thành trọn vẹn cuộc tàn phá. Một cơn bão đến đúng lúc ấy lại hóa hay; nó có thể lật khẩu pháo chổng bốn vó, và khi đó người ta mới chế ngự được nó. Nhưng lúc này, cuộc tàn phá càng tăng thêm. Cột buồm cũng bị sứt mẻ, bị gãy, vì gắn liền với sườn tàu và chạy suốt các tầng, làm thành những trụ tròn lớn. Bị khẩu pháo đập vào tới tấp, cột buồm đằng trước bị nứt nẻ, cột buồm chính cũng bị trầy trợt. Khẩu đội pháo tan rã. Trong số ba chục khẩu pháo, mười khẩu đã thành vô dụng; lỗ thủng bên mạn tàu ngày càng nhiều và nước đã bắt đầu tràn vào.
Người hành khách già bước xuống đến chân cầu thang đứng ngây ra như tượng đá. Lão nhìn cảnh tàn phá với đôi mắt nghiêm nghị. Lão đứng không nhúc nhích. Hình như lão không thể bước được bước nào nữa vào hầm pháo.
Mỗi một chuyển động của khẩu pháo thả lỏng càng đẩy thêm con tàu đến chỗ tan tành. Chỉ lát nữa, con tàu sẽ bị đắm. Hoặc là chết, hoặc là phải chặn đứng tai họa; phải chọn lấy một con đường, nhưng chọn đường nào?
Khẩu pháo quả là vô địch!
Phải chặn ngay con vật điên rồ khủng khiếp ấy.
Phải cột cái ánh chớp ấy lại.
Phải dập tắt cái tia sét ấy.
Boisberthelot hỏi La Vieuville:
— Ngài có tin Chúa không, ngài kỵ sĩ?
La Vieuville trả lời:
— Có. Không. Đôi khi.
— Trong bão tố thì sao?
— Có. Và nhất là trong những giờ phút thế này.
— Quả chỉ còn Chúa mới có thể cứu chúng ta thoát nạn này – Boisberthelot nói.
Mọi người lại nín lặng, mặc cho khẩu pháo hoành hành phá phách một cách ghê gợn.
Bên ngoài, sóng đập vào con tàu đáp lại những tiếng va chạm bên trong của khẩu pháo. Có thể nói như hai chiếc búa luân phiên nện vào thành tàu.
Bỗng nhiên, trong cái trường đấu không ai dám bén mảng ấy, nơi khẩu pháo tuột xích đang lồng lộn, một người xuất hiện, tay cầm chiếc gậy sắt. Đó là người đã gây ra sự biến này, người phụ trách khẩu pháo cẩu thả, nguyên nhân của tai nạn, người chủ của khẩu pháo. Anh ta đã gây ra tai họa, anh ta muốn sửa chữa. Một tay cầm gậy sắt, tay kia cầm dây thòng lọng, anh ta nhảy từ sân trên của con tàu xuống sàn dưới.
Thế là bắt đầu một biến cố dữ dội; một cảnh tượng vĩ đại! Cuộc chiến đấu giữa khẩu pháo và người pháo thủ; cuộc vật lộn giữa vật chất và trí tuệ, cuộc đọ sức giữa một đồ vật và một con người.
Anh ta đứng thu vào một góc, gậy và dây nắm trong tay, lưng tựa vào ván gỗ khoang tàu, chân vững như hai cột bằng thép, mặt xám xanh, bình tĩnh, ghê rợn, anh đứng chờ như mọc rễ trên sàn.
Anh ta đợi khẩu pháo xông tới gần anh.
Người pháo thủ hiểu biết khẩu pháo của mình, và anh cảm thấy rằng hình như khẩu pháo cũng hiểu biết anh. Anh đã sống bao nhiêu lâu bên khẩu pháo đó. Biết bao lần, anh đã lùa tay vào mõm nó! Đây là con quái vật quen thuộc của anh. Anh bắt đầu gọi nó như gọi con chó của mình.
— Lại đây – Anh ta bảo nó. Có lẽ anh ta cũng mến nó.
Hình như anh ta mong nó đến với anh.
Nhưng nó tới chỗ anh ta có nghĩa là nó đè lên anh ta. Mà thế thì anh ta mất mạng. Làm sao tránh cho khỏi bị nghiền nát? Đó là vấn đề. Mọi người đều nhìn khiếp sợ.
Không còn một lồng ngực nào thở bình thường, trừ lão già là người duy nhất đứng ở sàn dưới, người chứng kiến ghê rợn. Lão cũng có thể bị khẩu pháo nghiền nát. Lão vẫn đứng im không nhúc nhích. Dưới chân hai người, sóng biển vẫn mù quáng điều khiển cuộc chiến đấu. Đúng cái lúc anh pháo phủ nhảy vào khiêu khích khẩu pháo để chấp nhận cuộc vật lộn ghê sợ đó, tình cờ biển bớt chao động và khẩu pháo bỗng đứng lại một lúc như sửng sốt. “Lại đây nào!” Người pháo thủ bảo khẩu pháo như thế. Khẩu pháo có vẻ nghe ngóng. Rồi đột nhiên, khẩu pháo chồm vào người pháo thủ. Anh ta tránh thoát.
Cuộc chiến đấu bắt đầu. Cuộc chiến đấu kỳ dị. Cái mảnh khảnh vật lộn với xương sắt da đồng. Người dạy thú bằng da bằng thịt đánh nhau với con vật bằng đồng. Một bên là sức mạnh, một bên là linh hồn.
Cảnh đó diễn ra trong tranh tối tranh sáng. Giống như một cảnh tượng siêu phàm, huyền ảo.
Một điều kỳ lạ là người ta tưởng như khẩu pháo cũng có một linh hồn, nhưng là một linh hồn căm thù và điên dại. Cái vật đui mù đó như có mắt. Con quái vật có vẻ đang rình con người. Ít nhất người ta cũng có thể ngờ rằng cái khối đó có mưu trí. Nó cũng biết chọn thời cơ. Nó như một loại côn trùng khổng lồ bằng sắt, hoặc ra vẻ có cái quyết tâm của loài ma quỷ. Thỉnh thoảng con châu chấu khổng lồ ấy nhảy lên đụng vào cái trần thấp của hầm pháo rồi nó lại rơi xuống đứng trên bốn bánh xe như một con hổ đứng trên bốn vuốt, sau đó nó lao đi đuổi theo con người. Còn con người thì mềm mại, nhẹ nhàng, khéo léo, luồn, lách như một con rắn qua những cử động sấm sét kia. Anh ta tránh cuộc chạm trán, nhưng những đòn anh ta tránh được lại nện vào con tàu, làm cho con tàu hư hại thêm.
Một khúc dây xích đứt còn đeo vào khẩu pháo. Không biết vì sao đoạn xích đó lại quấn vào cái vít ở nắp đáy súng. Một đầu xích bị mắc vào giá súng. Đầu kia, tự do quay tít chung quanh nòng pháo khiến cho nòng pháo càng vung vẩy mạnh. Cái vít như một bàn tay nắm chắc lấy dây xích và dây xích mỗi lúc càng quật mạnh và làm tăng thêm sức phá của chân súng tiếp tục húc vào thành tàu; đoạn dây xích ấy quay chung quanh nòng súng như một cơn lốc kinh hồn; một nắm đấm bằng đồng quay tít một cái roi sắt. Dây xích ấy làm cho cuộc chiến đấu thêm phức tạp.
Tuy thế, người pháo thủ vẫn chiến đấu. Đôi khi lại chính anh ta tấn công khẩu pháo; anh ta trườn theo dọc mạn tàu, gậy sắt và dây chắc trong tay; còn khẩu pháo có vẻ am hiểu, và như đoán được người ta đang rình bẫy nó nên nó lẩn tránh. Con người dữ tợn vẫn rượt theo.
Những việc như thế không thể kéo dài mãi. Khẩu pháo bỗng như tự bảo: phải thôi đi! Và nó dừng lại. Mọi người cảm thấy sắp tới lúc kết thúc. Khẩu pháo hình như có hoặc có hẳn hoi, một ý đồ hung bạo; thực thế, vì ai cũng coi nó như một sinh vật. Đột nhiên, nó nhảy xổ lên anh pháo thủ. Anh pháo thủ né sang một bên, cho nó vụt qua, rồi anh ta cười, quát theo: “Làm lại!” Khẩu pháo như giận dữ, lại đập vỡ một khẩu pháo khác ở bên mạn trái; rồi như bị một cái ná vô hình bật đi, nó vùng lao sang bên phải, chồm lên anh pháo thủ, anh pháo thủ tránh thoát. Ba khẩu pháo khác lại bị đập vỡ tung ra; rồi như mù quáng và không còn biết gì nữa, khẩu pháo quay lưng về phía người pháo thủ từ phía sau lao lên phá vỡ khung gỗ bọc tàu, rồi đến chọc thủng một lỗ ở bức thành phía mũi tàu. Anh pháo thủ lúc đó đã lẩn kịp vào chân cầu thang, cách ông già đang đứng chứng kiến mấy bước. Anh ta cầm cây gậy sắt đứng thủ thế. Khẩu pháo hình như đã trông thấy và không cần quay lại nữa, nó nhảy lùi về phía anh pháo thủ nhanh như một nhát rìu bổ xuống. Anh này bị dồn sát mạn tàu, không hy vọng thoát khỏi. Tất cả thủy thủ trên tàu cùng kêu lên một tiếng.
Nhưng lão hành khách từ trước vẫn đứng im, bỗng vụt lên nhanh hơn tất cả những tốc độ ghê rợn vừa diễn ra.
Lão vớ một bọc tín phiếu giả, và không kể đến thân mình có thể bị nghiền nát, lão đã vứt được cái bọc vào bánh xe của khẩu pháo.
Một người được luyện tập theo đúng phương pháp đã mô tả trong sách của De Durosel về cách sử dụng pháo trên mặt biển cũng không thể hành động cương quyết, bất chấp nguy hiểm và chính xác như thế.
Cái bọc có tác dụng như một cái đệm. Một viên cuội kìm được một khối đá, một cành cây đổi được hướng đi của một trận tuyết băng. Khẩu pháo lảo đảo. Đến lượt anh pháo thủ lợi dụng được giây phút đáng sợ ấy, thọc gậy sắt vào giữa những đũa bánh xe đằng sau. Khẩu pháo dừng lại.
Nó nghiêng về một bên. Anh pháo thủ sử dụng thanh sắt như một đòn bẩy làm cho khẩu pháo chao đi. Rồi cả cái khối nặng nề ấy lật nhào, tiếng kêu vang như một quả chuông đổ xuống, và anh pháo thủ, người mướt mồ hôi, lăn xả vào, chòng nút thòng lọng vào cái cổ bằng đồng đen của con quái vật đã bị quật ngã.
Thế là xong. Con người đã thắng. Con kiến đánh gục con voi cổ đại: người chim chích đã tóm được ông sấm.
Binh sĩ và thủy thủ vỗ tay hoan hô.
Mọi người xô vào mang theo dây cáp, xích sắt và trong chốc lát, khẩu pháo đã bị buộc chặt lại.
Anh pháo thủ chào vị hành khách già.
— Thưa ngài, ngài đã cứu sống tôi.
Lão già trở lại vẻ lạnh lùng và lão không trả lời.