Càng điều tra, hành tung của Kirihara Yosuke hôm gặp nạn càng rõ dần. Hai giờ rưỡi chiều ngày thứ Sáu, sau khi rời khỏi tư gia, ông ta đến chi nhánh ngân hàng Sankyo rút ra một triệu yên tiền mặt, đến tiệm Saganoya ở gần đấy ăn mì soba cá trích khoảng hơn bốn giờ thì đi khỏi. Vấn đề là ở sau thời điểm đó. Lời khai của nhân viên trong tiệm cho thấy, Kirihara Yosuke hình như đi theo hướng ngược với ga tàu điện. Nếu đây là sự thực, vậy thì nhiều khả năng Kirihara không lên tàu điện và ông ta đến ga Kintetsu Fuse, hoàn toàn chỉ để rút tiền mặt. Các thành viên tổ chuyên án tiếp tục tập trung điều tra khu vực xung quanh ga Fuse và hiện trường tìm thấy xác chết. Kết quả phát hiện ra hành tung của Kirihara Yosuke ở một nơi không thể ngờ đến. Có một người đàn ông được mô tả khá giống với Kirihara Yosuke từng đến hàng bánh ngọt Harmony, trong chuỗi cửa hàng Chord ở phố buôn bán phía trước cửa ga Fuse. Ông ta hỏi nhân viên cửa hàng “Có loại pudding bên trên có rất nhiều hoa quả không?” Chắc là ông ta muốn chỉ loại pudding hoa quả thập cẩm, đó chính là sản phẩm làm nên thương hiệu của chuỗi cửa hàng Chord. Nhưng thật không may, khi đó bánh pudding hoa quả thập cẩm đã bán hết. Ông ta bèn hỏi nhân viên cửa hàng xem có thể mua thứ ấy ở đâu khác. Cô nhân viên trẻ nói với ông ta, trên phố lớn cũng có một cửa hàng Chord, khuyên ông ta đến đó thử xem sao, cô còn lấy cả bản đồ, chỉ rõ địa điểm nữa. Lúc ông ta xem xong vị trí của cửa hàng ấy, liền nói một câu thế này “Ồ, thì ra ở đây cũng có một cửa hàng giống thế! Cũng gần chỗ tôi muốn đến lắm, hỏi sớm một chút có phải tốt không.”
Cửa hàng mà cô nhân viên kia chỉ nằm ở tiểu khu số 6 Tây Oe. Nhân viên điều tra ngay lập tức đến cửa hàng đó xác nhận chiều tối ngày thứ Sáu quả có một người đàn ông giống với Kirihara Yosuke từng ghé đến. Ông ta mua bốn cái bánh pudding hoa quả thập cẩm, nhưng sau đó đi đâu không biết. Ông ta không thể nào mua bốn cái bánh pudding mang đi gặp mặt đàn ông được, các nhân viên điều tra đều nhất trí, người Kirihara muốn gặp nhất định là phụ nữ. Không lâu sau, tên một người phụ nữ xuất hiện. Đó là Nishimoto Fuiniyo, tên của cô ta có trong danh sách của tiệm cầm đồ Kirihara, và cô ta sống ở tiểu khu số 7 Tây Oe.
Sasagaki và Koga được cử đến gặp Nishimoto Fumiyo. Trong cả khu vực san sát những ngôi nhà chắp vá bởi các tấm sắt và ván gỗ, có một khu nhà đề biển “Chung cư Yoshida”. Bức tường ngoài xam xám như bị hun khói, dính đầy những vết bẩn đen sẫm, những vết xi măng chạy ngoằn ngoèo như rắn bò khắp mặt tường, chắc hắn là những chỗ nứt nẻ nghiêm trọng. Nishimoto Fumiyo trú ở phòng 103, vì ở sát ngay tòa nhà bên cạnh, nên tầng một gần như không lấy được chút ánh sáng nào. Trên hành lang tối tăm ẩm thấp, có dựng một chiếc xe đạp gỉ hoen gỉ hoét. Sasagaki vòng qua những chiếc máy giặt đặt phía trước mỗi cánh cửa tìm kiếm. Trên cánh cửa thứ ba, có dán một tờ giấy, bên trên dùng bút đánh dấu viết “Nishimoto”. Sasagaki gõ cửa.
Đằng sau cánh cửa vẳng ra tiếng “Cháu ra đây.” Giọng của con gái. Nhưng cửa không mở ngay, mà người bên trong lại cất tiếng “Ai đấy ạ?”
Phỏng chừng là trẻ con đang trông nhà rồi.
“Mẹ cháu có nhà không?” Sasagaki hỏi với qua cánh cửa.
Người bên trong không trả lời, mà hỏi lại lần nữa “Ai đấy ạ?”
Sasagaki nhìn Koga cười thiểu não. Chắc đứa nhỏ đã được người lớn dặn dò, nếu là người lạ thì tuyệt đối không mở cửa. Đương nhiên, đây không phải là chuyện gì xấu. Sasagaki điều chỉnh giọng vừa đủ để cô bé sau cánh cửa nghe thấy, nhưng cũng không vang quá để hàng xóm hóng được. “Bác là cảnh sát, có chút việc muốn hỏi thăm mẹ cháu.”
Cô bé im lặng, Sasagaki giải thích động thái đó là do cô bé không biết phải làm sao. Nghe tiếng đoán tuổi cô bé này nếu không phải học sinh cấp I thì cũng là cấp II. Trẻ con tuổi này nghe thấy có cảnh sát đến nhà, dĩ nhiên sẽ cảm thấy căng thẳng. Tiếng mở khóa lách cách vang lên, cửa hé ra, nhưng vẫn mắc dây xích chống trộm. Sau khe cửa rộng khoảng mười xen ti mét lộ ra gương mặt một bé gái có đôi mắt to, làn da trắng mịn màng như đồ sứ.
“Mẹ cháu vẫn chưa về.” Giọng cô bé hết sức kiên định.
“Đi mua đồ à?”
“Không ạ, mẹ cháu đi làm.”
“Bình thường khoảng mấy giờ mẹ cháu về?” Sasagaki nhìn đồng hồ, hơn năm giờ.
“Chắc là sắp rồi ạ.”
“Ừm vậy bác đợi ở đây một lát nhé.”
Nghe Sasagaki nói vậy, cô bé khẽ gật gật đầu, rồi đóng cửa lại. Sasagaki đưa tay lấy bao thuốc lá để bên trong túi ngầm của áo khoác ngoài, thấp giọng nói với Koga “Một đứa trẻ chững chạc nhỉ!”
“Vâng.” Koga trả lời “Với lại…”
Viên cảnh sát trẻ mới nói được một nửa, cánh cửa lại mở ra. Lần này sợi xích chống trộm đã được gỡ xuống.
“Cho cháu xem cái đó được không?” Cô bé hỏi.
“Cái gì?”
“Thẻ cảnh sát.”
“À,” sau khi biết mục đích của cô bé, Sasagaki không khỏi mỉm cười. “Được, đây cháu xem đi.” Ông lấy giấy tờ ra, lật trang có dán ảnh cho cô bé xem.
Cô bé đối chiếu gương mặt trong ảnh với Sasagaki, rồi nói “Mời bác vào”, đoạn mở cửa rộng hơn.
Sasagaki hơi ngạc nhiên. “Không cần, bác đứng đây đợi cũng được rồi.”
Cô bé lại lắc đầu. “Đợi bên ngoài, người xung quanh sẽ thấy tò mò đấy ạ.”
Sasagaki đưa mắt nhìn Koga, rất muốn gượng cười, nhưng nén lại được.
Sasagaki nói “Làm phiền cháu”, rồi bước vào nhà. Đúng như những gì ông nghĩ khi quan sát từ bên ngoài, bên trong quá chật hẹp cho một gia đình sinh sống. Vừa vào cửa là khoảng sàn gỗ rộng chừng năm chiếu có một bồn rửa tay nhỏ. Bên trong là căn phòng kiểu Nhật, cùng lắm cũng chỉ rộng khoảng sáu chiếu. Trên khoảng sàn gỗ bày một bộ ghế và bàn ăn xù xì thô ráp. Theo lời mời của cô bé, hai người ngồi xuống ghế. Cả nhà chỉ có hai chiếc ghế, dường như chỉ có hai mẹ con cô bé sống với nhau ở đây. Trên bàn trải khăn kẻ ca rô màu hồng phấn và trắng bằng nhựa dẻo, phía mép có vệt cháy tàn thuốc lá. Cô bé ngồi trong căn phòng kiểu Nhật, dựa vào chiếc tủ âm tường, bắt đầu đọc sách. Gáy cuốn sách có dán nhãn, xem ra là sách mượn ở thư viện.
“Cháu đang đọc gì vậy?” Koga bắt chuyện với cô bé.
Cô bé lặng lẽ giơ bìa cuốn sách ra, Koga ghé lại nhìn rồi ồ lên đầy khâm phục “Đọc sách khó vậy cơ à!”
“Sách gì thế?” Sasagaki hỏi Koga.
“Cuốn theo chiều gió.”
“Chà!” Lần này đến lượt Sasagaki kinh ngạc “Tôi xem phim ấy rồi.”
“Tôi cũng xem rồi, phim đó hay thật đấy. Có điều, tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ đọc nguyên tác cả.”
“Dạo này tôi không đọc sách mấy.”
“Tôi cũng thế. Từ khi bộ Ashita no Joe ra hết, đến cả truyện tranh tôi cũng rất ít xem.”
“Gì hả? Ashita no Joe cuối cùng cũng ra hết rồi à?”
“Kết thúc từ tháng Năm năm nay rồi. Sau Kyojin no Hoshi và Ashita no Joe thì chẳng còn gì để xem cả.”
“Thế chẳng phải rất tốt sao? Người lớn lại đi đọc truyện tranh, thật chẳng ra làm sao cả.”
“Vậy cũng phải ạ.”
Trong lúc Sasagaki và Koga đối thoại, cô bé cũng không ngẩng đầu lên, tiếp tục đọc sách. Có thể cô nghĩ rằng mấy người lớn ngớ ngẩn kia đang nói chuyện phiếm cho qua thời gian. Dường như Koga cũng cảm nhận được điều này, bèn lặng thinh. Hai tay anh rỗi việc quá chẳng biết làm gì, cứ lấy đầu ngón tay gõ lên bàn ăn, phát ra những tiếng cóc cóc. Cô bé ngẩng đầu lên, nét mặt khó chịu, khiến anh đành phải dừng động tác ấy lại. Sasagaki hờ hững đảo mắt nhìn quanh gian phòng. Chỉ có những đồ đạc cần thiết tối thiểu và các nhu yếu phẩm cho cuộc sống, hoàn toàn không có thứ gì có thể gọi là đồ xa xỉ cả. Không có bàn học, cũng không có giá sách. Tuy bên cạnh cửa sổ có kê một chiếc ti vi, nhưng là loại cực kỳ cũ kỹ, phải lắp ăng ten râu mới xem được. Ông hình dung, ti vi này chắc là loại đen trắng, bật lên rồi còn phải đợi một lúc hình ảnh mới xuất hiện, và quá nửa là trên hình có mấy vệt ngang rất chướng mắt. Không chỉ ít đồ đạc, nơi này rõ ràng là nhà của phụ nữ, vậy mà hoàn toàn không hề có cảm giác sáng sủa sạch sẽ. Căn phòng khiến người ta cảm thấy tối tăm, rõ ràng không chỉ vì bóng đèn tuýp trên trần đã quá cũ. Bên cạnh Sasagaki, có hai hộp giày chồng lên nhau, ông gảy nắp hộp ra, nghiêng đầu nhìn vào. Bên trong nhét đầy ếch đồ chơi bằng cao su, loại ấn xuống tức khắc sẽ nhảy bật lên, thường hay bán ở các chợ đêm mỗi khi có lễ hội. Xem ra, là đồ Nishimoto Fumiyo nhận về gia công tại nhà.
“Cô bé, cháu tên gì?” Sasagaki hỏi cô bé. Thông thường, ông hay gọi là “em bé”, nhưng đối với cô bé này, ông cảm thấy gọi vậy không thích hợp cho lắm.
Đôi mắt cô bé vẫn không rời khỏi cuốn sách, miệng đáp “Nishimoto Yukiho.”
“Yukiho. Ừm, viết thế nào nhỉ?”
“ ‘Yuki’ là bông tuyết, ‘ho’ là bông lúa.”
“À, Yukiho, tên hay thật, phải không?” Ông quay sang hỏi Koga.
Koga gật đầu tán thành, cô bé cũng không có phản ứng gì.
“Yukiho, cháu có biết một tiệm cầm đồ tên là Kirihara không?” Sasagaki hỏi.
Yukiho không trả lời ngay, cô bé liếm liếm môi, rồi khẽ gật đầu “Có lúc mẹ cháu đến đó.”
“Ừm, hình như là thế. Cháu đã gặp ông chủ tiệm đó bao giờ chưa?”
“Gặp rồi.”
“Ông ấy đến nhà cháu bao giờ chưa?”
Nghe câu hỏi này, Yukiho nghiêng nghiêng đầu, trả lời “Hình như là có.”
“Lúc cháu có nhà, ông ấy có đến không?”
“Chắc là có. Nhưng mà, cháu không nhớ.”
“Ông ấy đến làm gì?”
“Cháu không biết.”
Chất vấn một cô bé ở nơi thế này có lẽ không phải cách hay. Sasagaki cảm thấy, sau này vẫn còn khá nhiều cơ hội để hỏi cô.
Ông lại đưa mắt nhìn quanh nhà, cũng không có mục đích gì cụ thể. Nhưng, khi liếc thấy thùng rác bên cạnh tủ lạnh, cặp mắt ông bất giác mở to. Phía trên thùng rác đã đầy ngập đó, là gói giấy có in logo của chuỗi cửa hàng Chord. Sasagaki đưa mắt nhìn Yukiho, ánh mắt ông chạm phải ánh mắt cô bé. Yukiho lập tức nhìn ra chỗ khác, lại tiếp tục tư thế cúi đầu đọc sách. Trực giác của Sasagaki nói cho ông biết, cô bé cũng đang nhìn cùng một thứ với ông. Lát sau, cô bé đột nhiên ngẩng đầu lên, gấp sách lại, nhìn về phía lối ra vào. Sasagaki dỏng tai lên, nghe thấy tiếng lê dép xăng đan. Koga hình như cũng chú ý đến, hơi hé miệng. Tiếng bước chân mỗi lúc một gần, rồi dừng lại trước cửa. Ngoài cửa vang lên tiếng kim loại leng keng, hình như đang lấy chìa khóa. Yukiho bước đến cạnh cửa nói “Cửa không khóa.”
“Sao lại không khóa? Nguy hiểm quá.” Tiếng nói vừa cất lên, cánh cửa cũng bật mở. Một phụ nữ mặc áo sơ mi xanh nhạt bước vào. Cô ta áng chừng khoảng ba mươi lăm tuổi, tóc buộc sau đầu. Nishimoto Fumiyo lập tức chú ý đến Sasagaki và Koga. Cô ta lộ vẻ kinh hoảng, tròn mắt nhìn con gái, rồi lại nhìn hai người đàn ông lạ mặt.
“Họ là cảnh sát.” Cô bé giải thích.
“Cảnh sát…” Gương mặt Fumiyo hiện lên vẻ sợ hãi.
“Tôi là Sasagaki ở Cục Cảnh sát Osaka. Còn đây là Koga.” Sasagaki đứng dậy chào hỏi, Koga cũng đứng lên theo.
Fumiyo rõ ràng khá lo lắng, sắc mặt tái mét, bộ dạng như thể không biết phải làm sao, cứ cầm cái túi giấy đứng đờ ra đó, quên cả đóng cửa lại.
“Chúng tôi đang điều tra một vụ án, có một số việc muốn hỏi chị Nishimoto, nên mới đến quấy rầy. Rất xin lỗi, đã tự tiện vào nhà lúc chị đi vắng.”
“Điều tra vụ án.”
“Hình như là chuyện của bác ở tiệm cầm đồ.” Yukiho ở bên cạnh nói.
Trong khoảnh khắc, Fumiyo dường như hít sâu vào một hơi. Nhìn thái độ hai mẹ con, Sasagaki tin rằng họ đã biết tin về cái chết của Kirihara Yosuke, và còn trao đổi với nhau về cái chết đó nữa.
Koga đứng dậy nói “Mời chị ngồi.” vẻ hoảng hốt bất an trên gương mặt Fumiyo hoàn toàn không bớt đi chút nào. Chị ta đờ đẫn ngồi xuống đối diện với Sasagaki.
Một người phụ nữ ngũ quan cân đối, đây là ấn tượng đầu tiên của Sasagaki. Khóe mắt đã lờ mờ xuất hiện nếp nhăn, nhưng nếu trang điểm kỹ càng, nhất định vẫn có thể coi là người đẹp. Lại là một người đẹp lạnh lùng nữa. Yukiho rõ ràng rất giống mẹ. Chắc có không ít đàn ông trung niên phải điên đảo vì cô ta, Sasagaki nghĩ. Kirihara Yosuke năm mươi hai tuổi, cho dù động lòng với người phụ nữ này thì cũng không có gì lạ.
“Vô phép, xin hỏi chồng chị…”
“Anh ấy qua đời từ bảy năm trước rồi. Gặp tai nạn khi làm việc ở công trường…”
“Ồ, tội quá, tội quá. Vậy giờ chị đang làm việc ở đâu?”
“Tôi làm việc trong một quán mì udon ở Imazato.”
Cô ta nói quán mì ấy tên là Kikuya, thời gian làm việc từ mười một giờ trưa đến bốn giờ chiều các ngày từ thứ Hai đến thứ Bảy.
“Mì udon ở đấy ăn có ngon không?” Có lẽ để đối phương bớt phần căng thẳng, Koga cười cười hỏi. Fumiyo vẫn chỉ đờ đẫn nghiêng nghiêng đầu, buông một tiếng “Không biết”.
“Ừm, chị biết chuyện ông Kirihara Yosuke bị hại phải không?” Sasagaki đi thẳng vào chủ đề chính.
“Biết,” cô ta lí nhí đáp “Tôi thật sự rất bất ngờ.”
Yukiho vòng qua sau lưng mẹ, đi vào gian phòng kiểu Nhật, rồi dựa lưng vào tủ âm tường ngồi xuống giống lúc nãy. Sasagaki quan sát động tác của cô bé, rồi ánh mắt lại quay trở về phía Fumiyo.
“Rất có thể ông Kirihara có dính dáng đến sự việc gì đó, chúng tôi đang điều tra hành tung của ông ấy sau khi rời khỏi nhà vào buổi chiều ngày thứ Sáu. Kết quả cho thấy, hình như ông ấy có ghé qua nhà chị, vậy nên…”
“Không, chuyện ấy, chỗ tôi…”
“Bác ở tiệm cầm đồ có đến mà,” Yukiho ngắt lời Fumiyo đang lắp ba lắp bắp, xen vào “còn mang cả bánh pudding của Chord nữa, chính là cái bác ấy mà.”
Sasagaki biết rõ Fumiyo đang bối rối. Môi cô ta khẽ run lên một chập, cuối cùng cũng cất được tiếng “À, đúng thế. Hôm thứ Sáu ông Kirihara đã ghé qua đây.”
“Khoảng mấy giờ?”
“Tôi nhớ hình như là…” Fumiyo đưa mắt sang phía phải Sasagaki, bên đó có một tủ lạnh hai buồng, trên nóc tủ bày một chiếc đồng hồ nhỏ. “Tôi nghĩ… là khoảng gần năm giờ. Vì tôi vừa về đến nhà, thì ông ấy đến.”
“Ông Kirihara đến tìm chị có việc gì vậy?”
“Tôi nghĩ là chẳng có việc gì cả. Ông ấy nói có việc ở gần đây, tiện thể ghé qua. Kirihara biết rõ tình hình tài chính của hai mẹ con chúng tôi rất khó khăn, thi thoảng ông ấy cũng ghé đến, có rất nhiều chuyện tôi hỏi ý kiến ông ấy.”
“Ông ấy có việc ở gần đây à? Thế thì lạ thật.” Sasagaki chỉ vào gói giấy của tiệm bánh Chord trong thùng rác “Đây là của ông Kirihara mang đến đúng không? Ông ấy vốn định mua bánh ở phố buôn bán trước cửa ga Fuse. Cũng có nghĩa là, từ lúc ở gần ga Fuse, ông ấy đã chuẩn bị đến đây rồi. Từ chỗ này đến Fuse cũng cách một quãng đường tương đối, theo lẽ thường, suy luận hợp lý là ngay từ đầu ông ấy đã định đến nhà chị rồi.”
“Ông nói vậy, nhưng ông Kirihara bảo như thế, tôi cũng chẳng có cách gì, ông ấy nói có việc ở gần đây, tiện thể ghé qua…” Fumiyo cúi đầu nói.
“Tôi hiểu. Chúng ta cứ coi là vậy đi, ông Kirihara ở đây đến mấy giờ?”
“Sáu giờ… tôi nghĩ chắc khoảng gần sáu giờ thì ông ấy về.”
“Gần sáu giờ, chị chắc chứ?”
“Có lẽ không sai.”
“Nói vậy, thì ông Kirihara ở đây khoảng tầm một tiếng đồng hồ. Hai người nói chuyện gì vậy?”
“Nói chuyện gì à… thì chuyện phiếm bình thường thôi.”
“Chuyện phiếm bình thường cũng có nhiều loại lắm, chẳng hạn như thời tiết, tiền nong gì đó.”
“À, ông ấy nhắc đến chiến tranh…”
“Chiến tranh? Chiến tranh Thái Bình Dương?”
Kirihara Yosuke từng ở trong quân ngũ thời Thế chiến thứ hai. Sasagaki tưởng ông ta kể chuyện thời đó, nhưng Fumiyo lại lắc đầu.
“Là chiến tranh ở nước ngoài. Ông Kirihara nói, lần này giá dầu nhất định sẽ tăng cao.”
“À, chiến tranh Trung Đông.” Có vẻ, Kirihara nói đến cuộc chiến tranh Trung Đông lần thứ tư vừa nổ ra đầu tháng này.
“Ông ấy nói, vì thế mà kinh tế Nhật Bản sẽ lại bất ổn. Không chỉ vậy, các sản phẩm liên quan đến dầu mỏ cũng sẽ tăng giá, cuối cùng còn có khả năng khan hiếm nữa. Thế giới sau này, phải xem ai có tiền có thế hơn.”
“Ừm.”
Nhìn Fumiyo đang cúi đầu cụp mắt, Sasagaki thầm nghĩ, những lời này có thể là thật. Vấn đề là tại sao Kirihara lại nói những điều này với cô ta? Sasagaki tưởng tượng, có lẽ Kirihara muốn ngầm ám chỉ, tôi có tiền có thế, cô em hãy nghĩ cho bản thân mình, tốt nhất là theo tôi đi. Theo ghi chép của tiệm cầm đồ Kirihara, Nishimoto Fumiyo chưa bao giờ chuộc lại các món đồ đem cầm. Rất có thể, Kirihara định lợi dụng tình trạng khó khăn của cô ta. Sasagaki liếc nhanh sang Yukiho. “Lúc đó con gái chị đang ở đâu?”
“À, nó ở thư viện… phải không?” Cô ta xác nhận với Yukiho.
Yukiho “ừm” một tiếng.
“Ồ, cuốn sách kia chính là mượn về lúc ấy à? Cháu có thường hay đến thư viện không?” Ông trực tiếp hỏi Yukiho.
“Mỗi tuần một, hai lần.” Cô bé trả lời.
“Sau khi tan học à?”
“Vâng.”
“Có ngày cố định không? Như là thứ Hai, thứ Sáu hoặc thứ Ba, thứ Sáu chẳng hạn.”
“Không ạ.”
“Như vậy mẹ cháu không lo lắng à? Con gái chưa về, cũng không biết có phải đến thư viện hay không?”
“À, nhưng khoảng hơn sáu giờ thì nhất định nó sẽ về nhà.” Fumiyo nói.
“Hôm thứ Sáu cháu cũng về vào khoảng giờ đó à?” Ông lại hỏi Yukiho.
Cô bé không nói gì, khẽ gật đầu.
“Sau khi ông Kirihara đi, chị vẫn ở nhà chứ?”
“Không, sau đó, tôi ra ngoài mua đồ. Đến Marukaneya.”
Siêu thị Marukaneya cách nơi này chỉ khoảng mấy phút đi bộ.
“Ở siêu thị, chị có gặp người quen nào không?”
Fumiyo ngẫm nghĩ giây lát, rồi trả lời “Gặp chị Kinoshita, mẹ bạn cùng lớp của Yukiho.”
“Chị có cách gì liên lạc với chị ấy không?”
“Có.” Fumiyo lấy cuốn sổ địa chỉ bên cạnh điện thoại, đặt lên bàn mở ra, chỉ tay vào chỗ đề Kinoshita “Người này.”
Nhìn Koga chép lại số điện thoại, Sasagaki lại tiếp tục hỏi “Lúc chị đi mua đồ, con gái chị đã về chưa?”
“Chưa, lúc đó nó vẫn chưa về.”
“Chị mua đồ xong trở về là khoảng mấy giờ?”
“Chắc khoảng bảy rưỡi gì đó.”
“Lúc ấy con gái chị về chưa?”
“Vâng, đã về rồi.”
“Sau đó chị không ra ngoài nữa à?”
“Đúng vậy.” Fumiyo gật đầu.
Sasagaki nhìn Koga, hỏi bằng ánh mắt, tạm thời dừng ở đây thôi nhỉ? Koga khẽ gật đầu.
“Chúng tôi xin lỗi đã làm phiền chị lâu như vậy. Sau này có thể chúng tôi vẫn có chuyện cần hỏi chị, lúc ấy mong chị giúp cho.” Sasagaki đứng dậy.
Fumiyo tiễn hai viên cảnh sát ra cửa. Nhân lúc Yukiho không có ở đó, Sasagaki lại hỏi thêm một câu:
“Chị Nishimoto, câu này chắc là hơi mạo muội, có điều, mong chị chớ để ý được không?”
“Chuyện gì vậy ạ?” Fumiyo lập tức lộ vẻ bất an.
“Ông Kirihara đã từng mời chị đi ăn, hoặc hẹn chị ra ngoài gặp mặt chưa?”
Câu hỏi của Sasagaki khiến Fumiyo trợn tròn mắt lên, cô ta lắc đầu thật mạnh “Chưa bao giờ.”
“Ừm, tôi đang nghĩ, tại sao ông Kirihara lại đối tốt với mẹ con chị vậy nhỉ?”
“Tôi nghĩ có lẽ ông ấy thương hại mẹ con tôi. Dám hỏi ông cảnh sát, có phải các ông nghi ngờ tôi có liên quan đến vụ việc ông Kirihara bị hại hay không?”
“Không có, không có, làm gì có chuyện đó. Tôi chỉ muốn xác nhận một chút.”
Sasagaki tỏ ý xin lỗi, rồi cất bước rời khỏi. Khi qua chỗ ngoặt, không nhìn thấy khu nhà đó nữa, ông mới bảo Koga “Rất khả nghi.”
Viên cảnh sát trẻ tuổi cũng đồng ý “Đích xác là vậy.”
“Lúc tôi hỏi Fumiyo xem hôm thứ Sáu Kirihara có đến không, thoạt đầu hình như chị ta định trả lời là không. Nhưng vì Yukiho ở bên cạnh nhắc chuyện bánh pudding, chị ta đành phải nói thật. Yukiho cũng vậy, vốn định giấu giếm chuyện Kirihara từng ghé qua nhà, có điều, vì tôi chú ý đến cái túi giấy đựng bánh pudding, cô bé mới đoán ra, nói dối ngược lại còn phiền phức hơn.”
“Đúng thế, cô bé ấy rất tinh ý.”
“Fumiyo hết giờ làm từ tiệm mì udon về nhà, đại khái khoảng năm giờ chiều, Kirihara đến vào lúc đó. Mà khi ấy Yukiho vừa khéo lại tới thư viện, sau khi Kirihara đi mới về nhà. Tôi cứ có cảm giác thời gian dường như căn quá chuẩn thì phải.”
“Fumiyo có phải là tình nhân của Kirihara không nhỉ? Khi mẹ và người đàn ông đó ở với nhau, con gái phải ra ngoài giết thời gian.”
“Cũng có thể. Có điều, nếu là tình nhân, ít nhiều cũng có thể lấy được chút tiền, không cần thiết phải mang đồ về nhà gia công làm gì.”
“Có lẽ Kirihara đang theo đuổi chị ta?”
“Có khả năng.”
Hai người vội trở về tổ chuyên án đặt ở Phòng Cảnh sát Tây Fuse.
“Có thể là nhất thời bị kích động mà ra tay.” Báo cáo với Nakatsuka xong, Sasagaki nói “Hẳn là Kirihara đã cho Fumiyo xem một triệu yên vừa mới rút ở ngân hàng ra.”
“Vậy nên, cô ta mới giết người vì tiền à? Nhưng nếu ra tay ở nhà mình, cô ta không thể nào chuyển cái xác đến tòa nhà được.” Nakatsuka nói.
“Vì vậy cô ta có thể tìm một cái cớ nào đó, hẹn ông ấy đến tòa nhà kia. Tôi không nghĩ là họ đi cùng nhau.”
“Kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy, dù là phụ nữ, cũng có khả năng gây ra những vết thương trên xác chết.”
“Nếu là Fumiyo, Kirihara sẽ không đề phòng.”
“Xác nhận chứng cứ ngoại phạm của Fumiyo trước rồi hãy tính.” Nakatsuka thận trọng nói.
Lúc đó, ấn tượng về Fumiyo trong lòng Sasagaki đã đến mức gần như cực xấu. Ông cảm thấy nghi ngờ cả thái độ căng thẳng, sợ hãi của cô ta. Thế nhưng, kết quả điều tra lại mang đến cho tổ chuyên án những thông tin hoàn toàn bất ngờ, Nishimoto Fumiyo có chứng cứ ngoại phạm gần như hoàn hảo.