Bạch Dạ Hành

CHƯƠNG XIII – PHẦN 5



Xuống tàu điện ngầm thuộc tuyến Tozai ở ga Urayasu, qua cầu Kasai đi ngược hướng với Tokyo thêm một đoạn ngắn nữa, rẽ trái ở sông Edo cũ, một toà nhà màu trắng có hình gần như khối lập phương sừng sững trên con đường nhỏ, trên cột ở cổng đề tên công ty “Dầu mỡ SH”. Không thấy có bảo vệ, Sasagaki đi thẳng vào trong.
Băng qua bãi đỗ xe tải xếp thành hàng, ông vào trong toà nhà. Ngay bên phải là một quầy lễ tân nhỏ. Một phụ nữ chừng bốn chục tuổi đang ngồi viết gì đó. Chị ta ngẩng đầu lên, trông thấy Sasagaki liền kinh ngạc nhíu mày.
Sasagaki chìa danh thiếp ra, tỏ ý muốn gặp Shinozuka Kazunari. Nhìn tấm danh thiếp, nét mặt người phụ nữ kia không hề dịu đi chút nào. Danh thiếp không có chức danh gần như không thể khiến người ta hạ hàng rào cảnh giác xuống.
“Ông có hẹn với giám đốc không?” Chị ta hỏi.
“Giám đốc?”
“Đúng, anh Shinozuka Kazunari là giám đốc của chúng tôi.”
“Ồ… có, trước khi tới đây tôi có gọi điện cho anh ta rồi.”
“Xin đợi cho một lát.”
Người phụ nữ cầm điện thoại bên cạnh lên, bấm số nội bộ gọi tới văn phòng làm việc của Kazunari. Sau vài câu nói, chị ta vừa đặt ống nghe xuống, vừa nhìn Sasagaki.
“Giám đốc bảo ông đi thẳng vào phòng làm việc của anh ấy.”
“À. Cho hỏi, phòng làm việc ở đâu vậy?”
“Tầng ba.” Dứt lời, chị ta lại cúi đầu viết tiếp. Chị ta đang viết địa chỉ người nhận vào thiệp chúc mừng năm mới. Nhìn quyển sổ ghi địa chỉ liên lạc trải ra bên cạnh, là đồ cá nhân của chị ta, thiệp chúc mừng rõ ràng không phải gửi đi với danh nghĩa công ty.
“Cho hỏi, ở chỗ nào trên tầng ba?”
Nghe Sasagaki hỏi vậy, chị ta bực mình ra mặt, giơ cái bút ký tên chỉ ra sau lưng ông.
“Vào thang máy bên trong đó lên tầng ba, đi dọc theo hành lang, trên cửa có treo biển phòng làm việc của giám đốc.”
“Vâng, cảm ơn cô.” Sasagaki cúi đầu cảm ơn nhưng người phụ nữ đã cắm mặt vào làm tiếp việc của mình.
Sasagaki theo lời chỉ dẫn lên đến tầng ba, liền hiểu ra tại sao chị ta lại tỏ vẻ khó chịu khi chỉ dẫn như vậy. Không gian ở đây được bố trí hết sức đơn giản, chỉ là một hành lang hình vuông, tất cả các phòng đều hướng mặt ra ngoài hành lang. Sasagaki vừa đi vừa nhìn biển hiệu trên cửa, sau chỗ rẽ đầu tiên, tấm biển đề “Phòng Giám đốc” đã xuất hiện. Sasagaki đẩy cửa.
Bên trong vẳng ra tiếng “Mời vào”, Sasagaki đẩy cửa.
Shinozuka Kazunari đứng dậy khỏi chỗ ngồi trước cửa sổ. Anh ta mặc bộ vest hai hàng cúc màu nâu.
“Chào ông, lâu lắm không gặp.” Kazunari tươi cười chào hỏi Sasagaki.
“Lâu lắm không gặp anh, tình hình dạo này ổn chứ?”
“Tốt xấu gì thì vẫn còn sống.”
Giữa phòng làm việc là một bộ sô-pha. Kazunari mời Sasagaki ngồi xuống chiếc ghế dài dành cho hai người, còn mình ngồi xuống chiếc ghế bành đơn có tay vịn.
“Lần trước gặp nhau là lúc nào ấy nhỉ?” Kazunari hỏi.
“Tháng Chín năm ngoái, trong phòng tiếp khách của Dược phẩm Shinozuka.”
“Đúng rồi.” Kazunari gật đầu. “Đã hơn một năm rồi. Thời gian trôi nhanh thật đấy.”
Khoảng thời gian này, Sasagaki có liên lạc với Kazunari bằng điện thoại, nhưng không hề gặp mặt.
“Lần này tôi cũng gọi điện tới Dược phẩm Shinozuka trước, họ nói với tôi, anh đã được chuyển tới đây rồi.”
“À, vâng, từ tháng Chín năm nay.” Kazunari hơi cụp mắt xuống, tựa như muốn nói gì đó rồi lại thôi.
“Không ngờ anh lại làm giám đốc. Thăng tiến nhanh thật đấy! Còn trẻ như vậy mà, giỏi thật!” Sasagaki kinh ngạc thốt lên.
Kazunari ngẩng đầu, khẽ cười thiểu não. “Ông nghĩ thế sao?”
“Đúng vậy, chẳng lẽ không phải sao?”
Kazunari chẳng nói chẳng rằng đứng dậy, cầm điện thoại trên bàn làm việc lên.
“Mang cho tôi hai cốc cà phê vào đây. Ừm, ngay lập tức.” Anh ta đặt ống nghe xuống, đứng nguyên đó nói.
“Tôi nghĩ lần trước tôi đã nói với ông qua điện thoại rồi, anh họ Yasuharu của tôi cuối cùng đã kết hôn.”
“Mùng 10 tháng Mười, ngày lễ Thể thao.” Sasagaki gật đầu “Hôn lễ hẳn là xa hoa hoành tráng lắm đúng không?
“Không, rất khiêm tốn. Họ cử hành hôn lễ trong nhà thờ xong, thì mời khách trong một khách sạn ở Tokyo, chỉ có người rất thân tham dự. Dường như vì hai bên đều tái hôn nên không muốn làm khoa trương quá. Huống hồ anh họ tôi còn có con nữa.”
“Anh Shinozuka cũng tham dự chứ?”
“Đúng vậy, họ hàng mà. Nhưng…” Anh ta lại ngồi xuống ghế, thở dài một tiếng rồi tiếp lời “Hai người bọn họ chắc không muốn mời tôi lắm.”
“Anh nói cho đến trước khi hôn lễ diễn ra, anh vẫn kiên trì phản đối nhỉ.”
“Đúng vậy.” Kazunari gật đầu, nhìn chăm chăm vào Sasagaki. Ánh mắt vô cùng nghiêm túc và bức thiết.
Cho đến mùa xuân năm nay, Sasagaki vẫn giữ liên hệ chặt chẽ với Shinozuka Kazunari. Kazunari cần tìm ra đầu mối về bộ mặt thật của Karasawa Yukiho, còn Sasagaki thì muốn kiếm cách lần ra Kirihara Ryoji. Thế nhưng, đôi bên đều không tìm được đầu mối nào mang tính then chốt. Trong khi đó, Shinozuka Yasuharu và Karasawa Yukiho đã kết hôn.
“Được quen biết với ông Sasagaki quả là may mắn, tiếc rằng đến cuối cùng vẫn không thể tra ra được gốc rễ của cô ta, cũng không thể khiến anh họ tôi mở mắt.”
“Cũng khó trách, cô ta đã dùng cách đó lừa gạt vô số đàn ông rồi.” Sasagaki tiếp lời “Tôi cũng là một trong số đó.”
“Mười chín năm rồi… đúng không?”
“Đúng vậy, mười chín năm rồi.” Sasagaki lấy thuốc lá ra. “Tôi hút được không?”
“Được chứ, được chứ, mời ông.” Kazunari đặt chiếc gạt tàn thuỷ tinh trước mặt Sasagaki. “Ông Sasagaki này, lúc trước trong điện thoại tôi cũng đã nài nỉ ông mấy lần rồi, hôm nay ông có sẵn lòng kể tất cả câu chuyện kéo dài đến mười chín năm ấy cho tôi không?”
“À, đương nhiên. Có thể nói, hôm nay tôi đến đây cũng là vì chuyện này.” Sasagaki châm thuốc. Lúc này, tiếng gõ cửa vang lên.
“Vừa khéo, cà phê mang đến rồi.” Kazunari đứng lên.
Vừa uống cà phê, Sasagaki bắt đầu kể chuyện. Ông kể lúc thì tỉ mỉ đến từng chi tiết, lúc lại qua loa rồi giải thích thêm toàn bộ quá trình từ khi phát hiện ra cái xác trong toà nhà xây được nửa chừng rồi bỏ hoang, nghi can lần lượt đổi từ người này sang người khác, cho đến khi Terasaki Tadao, người cuối cùng của tổ chuyên án coi là nhân vật trọng điểm chết vì tai nạn giao thông, khiến cuộc điều tra buộc phải kết thúc. Mới đầu Shinozuka Kazunari còn cầm cốc cà phê, nhưng nghe được nửa chừng, anh ta đặt cốc xuống bàn, khoanh tay trước ngực, chăm chú lắng nghe. Khi cái tên Nishimoto Yukiho xuất hiện, anh ta mới đổi chân gác, hít một hơi thật sâu.
“… Đây chính là khái quát về vụ án mạng của tay chủ tiệm cầm đồ.” Sasagaki uống một ngụm cà phê, chỉ còn hơi âm ấm.
“Cứ vậy mà trở thành án hết thời hiệu truy cứu sao?”
“Không phải vèo một cái đã trở thành án thối, nhưng lời khai và đầu mối mới càng lúc càng ít, vì vậy đã có dấu hiệu sớm muộn gì cũng sẽ trở thành án thối.”
“Nhưng mà, ông Sasagaki không bỏ cuộc.”
“Không, nói thực lòng, tôi cũng đã bỏ cuộc một nửa.”
Đặt cốc cà phê xuống. Sasagaki lại tiếp tục kể.
Sau khi Terasaki Tadao chết vì tai nạn khoảng một tháng, Sasagaki mới phát hiện ra phần ghi chép ấy. Tình trạng không tìm ra được vật chứng chứng minh Terasaki là hung thủ, cũng không phát hiện ra nghi can nào khác kéo dài khiến nội bộ tổ chuyên án mệt mỏi chán chường. Nghe nói bản thân tổ này cũng sắp bị giải tán. Khủng hoảng dầu mỏ khiến cả xã hội chìm trong bầu không khí nặng nề, những vụ bạo lực như cướp bóc, phóng hoả, bắt cóc liên tiếp diễn ra. Có lẽ quan điểm thật sự của tầng lớp lãnh đạo cảnh sát tỉnh Osaka là không thể chia sẻ nhiều nhân lực vào một vụ án mạng vô thời hạn. Chẳng những thế, hung thủ có thể đã chết rồi.
Bản thân Sasagaki cũng bắt đầu có ý nghĩ có lẽ chỉ đến đây là thôi. Trước đó, ông từng trải qua ba vụ án thối. Những vụ sẽ trở thành án thối này, bao giờ cũng có tính chất đặc thù. Những vụ thoạt nhìn cứ ngỡ rằng sẽ nhanh chóng bắt được hung thủ, nhưng cuối cùng lại kết thúc mà chẳng tìm ra được gì còn nhiều hơn những vụ tất cả đều như giữa màn sương mù, khiến người ta không biết bắt tay từ đâu. Vụ án mạng chủ tiệm cầm đồ khi ấy, có thứ mùi chẳng lành này.
Vì vậy, thực tình việc Sasagaki đang xem lại tất cả báo cáo điều tra từ trước chỉ là nhất thời nổi hứng mà thôi. Ngoài chuyện đó ra, ông đã chẳng thể làm gì trong vụ án này nữa.
Ông gần như xem lướt cả đống báo cáo điều tra dày cộm. Tài liệu nhiều không có nghĩa là nhiều manh mối, ngược lại còn có thể nói là do điều tra không có trọng điểm, khiến những bản báo cáo vô nghĩa cứ không ngừng tăng lên.
Bàn tay đang lật giở tài liệu của Sasagaki dừng lại khi trông thấy bản báo cáo điều tra ghi lời kể của cậu bé phát hiện ra cái xác. Cậu bé ấy tên là Kikuchi Michihiro, chín tuổi. Cậu bé nói với anh trai học lớp năm đầu tiên, anh trai cậu xác nhận là xác chết, liền về báo với mẹ. Người báo cảnh sát thực tế là Tomoko, mẹ của hai anh em, vì vậy bản báo cáo này là bản tóm tắt dựa theo lời của mẹ Kikuchi.
Sasagaki cũng biết rõ quá trình phát hiện ra cái xác được ghi trong báo cáo. Khi bọn con trai đang di chuyển trong hệ thống thông gió của toà nhà, chơi trò chơi mà chúng gọi là “đường hầm thời gian”, Kikuchi Michihiro bị lạc mất lũ bạn, cắm đầu cắm cổ bò lung tung trong ống thông gió mới đến căn phòng ấy. Và cậu phát hiện ra một người đàn ông ngã ở đó. Cậu bé lấy làm lạ, nhìn kỹ lại thì người ông ta còn chảy máu, lúc đó, cậu mới nhận ra dường như ông ta đã chết. Cậu biết phải báo cho những người khác, liền vội vã rời khỏi hiện trường.
Vấn đề ở phần tiếp theo. Báo cáo được viết như sau.
“Cậu bé cực kỳ sợ hãi, muốn nhanh chóng rời khỏi đó, nhưng cửa đã bị phế thải, gạch vụn chặn mất, khó mà mở ra được. Cậu bé kiếm cách mở cửa ra bên ngoài tìm lũ bạn, nhưng không tìm được, liền vội vã chạy về nhà.”
Xem tới đây, Sasagaki cảm thấy kì lạ. Ông băn khoăn phần “bị phế thải, gạch vụn chặn mất”.
Ông nhớ lại cánh cửa hiện trường lúc đó, đó là cửa mở vào bên trong. Lời khai của Kikichi Michihiro chỉ ra nói rõ “khó mở ra được”, như vậy là những thứ phế thải, gạch vụn” kia hẳn phải đặt ở vị trí ngăn cản cánh cửa đóng vào mở ra.
Là hung thủ cố ý sắp đặt ư? Để kéo dài thời gian cái xác bị phát hiện, nên cố ý đặt chướng ngại vật ở bên trong cửa hay sao?
Không thể nào. Đã mở cửa bên ngoài rồi, làm sao có thể đặt chướng ngại vật ở phía sau cánh cửa được nữa? Vậy thì, lời kể của cậu bé nên giải thích thế nào đây?
Sasagaki lập tức tiến hành xác nhận. Phần “người thẩm vấn” trong bản báo cáo được điền tên Kosaka ở đồn cảnh sát Tây Fuse.
Kosaka vẫn còn nhớ như in chuyện này, nhưng giải thích cũng không được rõ lắm.
“À, chuyện ấy ạ, đúng là hơi mơ hồ.” Kosaka chau mày nói. “Nó nhớ không rõ lắm, lúc nó toan mở cửa, có rất nhiều thứ chắn dưới chân, nhưng nó không xác định được là cửa hoàn toàn không thể mở ra, hay có thể hé đủ để người chui lọt. Cũng khó trách, lúc đó nó hẳn là kinh hoàng lắm.
“Hung thủ đã có thể đi qua được, nên cửa ít nhất cũng phải mở đủ để người qua lọt chứ nhỉ.” Kosaka bổ sung thêm.
Sasagaki cũng tìm bản báo cáo giám định hiện trường ra xem, tiếc rằng tương quan vị trí giữa cửa và “phế thải, gạch vụn” lại không được ghi chép tỉ mỉ. Nguyên nhân là do Kikuchi Michihiro đã di chuyển những thứ ấy, làm mất dấu vết.
Vậy là, Sasagaki từ bỏ hướng điều tra này. Vì ông cũng như Kosaka, tin rằng hung thủ có thể đã thoát ra từ cánh cửa ấy. Mà ngoài ông ra, không có nhân viên điều tra nào băn khoăn về chuyện này.
Khoảng một năm sau Sasagaki mới nhớ ra điểm nghi vấn nhỏ này, chính là lúc cái chết của Nishimoto Fumiyo khiến ông hướng sự nghi ngờ sang Yukiho. Sasagaki nghĩ thế này: giả sử bên trong cánh cửa có đặt chướng ngại vật, vậy thì, mức độ có thể hé ra của cánh cửa sẽ trở thành điều kiện hạn chế, từ đó có thể lọc ra các nghi can. Lúc đó, trong đầu ông nghĩ đến Yukiho. Ông cho rằng, nếu là Yukiho, thì dẫu khe hở tương đối hẹp, hẳn cũng có thể chui qua được.
Tuy rằng không biết trẻ con có thể nhớ được mấy phần những chuyện xảy ra từ hơn một năm trước, Sasagaki vẫn đi tìm gặp Kikuchi Michihiro, bấy giờ đã lên lớp bốn.
Và cậu bé lớp bốn đó kể ra một chuyện khiến Sasagaki hết sức kinh ngạc,
Kikuchi Michihiro, cậu không hề quên chuyện xảy ra một năm trước. Thậm chí còn nói, hiện giờ có thể kể lại mạch lạc rõ ràng hơn nữa. Sasagaki cho rằng chuyện này là có khả năng. Muốn cậu bé chín tuổi kinh hãi tột độ vì phát hiện ra xác chết kể lại kỹ càng tình huống lúc đó, hẳn là một việc vô cùng khắc nghiệt. Nhưng trong một năm, cậu cũng đã lớn lên rất nhiều rồi.
Sasagaki hỏi cậu có nhớ chuyện cánh cửa hay không, cậu bé không hề do dự gật đầu.
Ông bèn yêu cầu cậu kể lại tình huống lúc đó một cách tỉ mỉ nhất có thể. Cậu bé im lặng giây lát, rồi thong thả nói.
“Cửa hoàn toàn không thể mở ra được.”
“Gì hả?” Sasagaki kinh ngạc hỏi. “Hoàn toàn… Cháu nói thế là sao?”
“Lúc ấy cháu muốn mau chóng thông báo cho người khác, liền chạy ra mở cửa tức thì. Nhưng mà, cánh cửa không nhúc nhích gì hết. Nhìn xuống dưới, thấy chất đầy gạch là gạch.”
Sasagaki giật mình. “Thật sao?”
Cậu bé gật mạnh đầu.
“Lúc đó sao cháu không nói vậy? Là vì sau này mới nhớ ra à?”
“Cháu nói vậy ngay từ đầu rồi mà. Nhưng chú cảnh sát nghe cháu nói xong, liền bảo vậy thì rất kỳ lạ, hỏi cháu có phải đã nhớ lầm hay không làm cháu thấy không tự tin, chính mình cũng không dám chắc nữa. Nhưng mà, sau này cháu nghĩ kỹ lại, cánh cửa thực sự không thể mở ra được.”
Sasagaki bất giác bóp cổ tay mình. Lời khai quý báu đã có từ một năm trước, nhưng lại bị bẻ cong vì sự ngộ nhận của điều tra viên.
Sasagaki lập tức báo cáo chuyện này lên cấp trên, nhưng phản ứng của cấp trên rất lãnh đạm, cho rằng không thể căn cứ vào trí nhớ của trẻ con. Thậm chí còn nói rằng, tin vào lời chúng cả năm sau mới sửa chữa lại, liệu có phải là đầu óc có vấn đề hay không?
Khi ấy, cấp trên của Sasagaki không còn là tổ trưởng Nakatsuka hồi án mạng xảy ra nữa. Nakatsuka đã được điều đi nơi khác trước đó không lâu, cấp trên kế nhiệm là người rất háo danh, cho rằng điều tra vụ án mạng chẳng hề nổi bật lại sắp trở thành án thối như thế, thà rằng đi phá những vụ chấn động còn hơn, hòng nâng cao danh tiếng.
Tuy Sasagaki mang danh điều tra viên vụ án mạng tay chủ tiệm cầm đồ đó, nhưng cũng chỉ là kiêm nhiệm. Cấp trên của ông không tán thành thuộc hạ của mình truy tra một vụ án chẳng được tính mấy thành tích.
Bất đắc dĩ, Sasagaki đành một mình tiến hành điều tra. Ông đã nhìn thấy hướng điều tra.
Theo lời khai của Kikuchi Michihiro thì chắc chắn hung thủ sát hại Kirihara Yosuke không thể nào mở cửa rời khỏi đó. Hơn nữa tất cả cửa sổ ở hiện trường đều được cài then bên trong. Toà nhà này tuy chưa hoàn công đã bị bỏ hoang, nhưng cửa kính không bị vỡ, trên tường cũng không có chỗ hổng nào. Như vậy, thì chỉ có một khả năng xảy ra…
Hung thủ ngược lại với Kikuchi Michihiro, đã rời khỏi hiện trường qua lỗ thông gió.
Nếu hung thủ là người trưởng thành thì không thể nghĩ ra cách này được. Chỉ có bọn trẻ con từng nghịch trong hệ thống ống thông gió mới nghĩ ra ý tưởng này.
Vậy là, Sasagaki liền khoá chặt mối nghi ngờ vào Yukiho.
Thế nhưng, kết quả điều tra của ông lại không được như mong đợi. Đầu tiên, ông hy vọng có thể chứng minh Yukiho từng lăn lê bò toài trong ống thông gió, tức là từng tham gia trò chơi “đường hầm thời gian”. Song, ông lại đụng phải một bức tường. Ông đã hỏi những đứa trẻ thân với Yukiho, bọn chúng nói con bé chưa bao giờ chơi trò đó. Ông lại hỏi han mấy đứa trẻ từng chơi đùa trong toà nhà, cũng không đứa nào từng thấy có con gái tham gia. Một đứa trẻ nói với Sasagaki thế này.
“Bọn con gái không bao giờ chơi ở trong toà nhà bẩn thỉu thế này đâu ạ, bên trong có cả chuột chết, còn có nhiều sâu bọ kỳ quái lắm. Với cả, bò qua bò lại trong ống thông gió một lúc thôi, cả người sẽ bẩn hết.”
Sasagaki không thể không đồng tình với ý kiến này. Ngoài ra, một cậu bé từng bò trong ống thông gió mấy chục lần nói, con gái không thể chơi trò này được. Theo cậu, trong hệ thống ống thông gió có một số chỗ dốc, có lúc cần phải rạp người xuống để leo bám đến vài mét, nếu không tự tin vào thể lực và khả năng vận động của mình thì tuyệt đối không thể thoải mái hoạt động trong đó được.
Sasagaki dẫn cậu bé ấy đến hiện trường, thử xem có thể thoát ra khỏi gian phòng phát hiện thi thể qua đường ống thông gió hay không. Cậu bé mất khoảng mười lăm phút, rồi xuất hiện ở ống thông gió phía bên kia tiền sảnh toà nhà.
“Mệt chết đi được.” Đây là cảm nhận của cậu bé. “Ở giữa có một đoạn phải bò lên cao, nếu lực cánh tay không đủ, chắc chắn không bò lên được. Con gái không thể được đâu ạ!”
Sasagaki không thể coi nhẹ ý kiến của cậu bé. Dĩ nhiên, trong đám con gái học cấp I, cũng có một số đứa thể lực và khả năng vận động đều không thua kém lũ con trai, nhưng hễ nghĩ đến Nishimoto Yukiho, ông thực sự không thể nào tin con bé có thể bò trong hệ thống thông gió nhanh nhẹn như khỉ được. Theo ông điều tra, năng lực vận động của Nishimoto Yukiho không phải đặc biệt xuất sắc gì.
Sasagaki bắt đầu nghĩ lại, liệu mình hão huyền khi nghi ngờ một cô bé mười một tuổi là hung thủ giết người hay lời khai của Kikuchi Michihiro thực sự là ảo giác của trẻ con.
“Tôi không biết hệ thống thông gió mà ông nói như thế nào, nhưng đúng là khó thể tưởng tượng con gái lại chơi trò đó, đặc biệt là Karasawa Yukiho.” Shinozuka Kazunari trầm tư nói. Sasagaki không thể biết được anh ta gọi Yukiho bằng họ cũ, thuần tuý chỉ vì quen miệng, hay vì không muốn thừa nhận hiện giờ cô ta có chung họ với mình.
“Vậy tôi hoàn toàn đi vào ngõ cụt.”
“Không phải ông đã tìm được đáp án rồi sao?”
“Tôi không biết có thể khẳng định là đáp án được hay không nữa.” Sasagaki châm điếu thuốc thứ hai. “Tôi thử quay trở lại điểm xuất phát, gạt hết toàn bộ quan điểm trước đây sang một bên, và đã nhìn thấy những thứ trước đó không hề thấy.”
“Ý ông là…”
“Rất đơn giản.” Sasagaki nói. “Con gái không thể nào chui qua ống thông gió, vậy thì kẻ lợi dụng ống thông gió để rời khỏi hiện trường là một đứa con trai.”
“Con trai…” Shinozuka Kazunari im lặng một lúc như nghiền ngẫm ý tứ của hai chữ này, rồi cất tiếng hỏi “Ông muốn nói, Kirihara Ryoji… đã giết cha ruột của mình?”
“Đúng vậy.” Sasagaki gật đầu “Kết quả suy luận là như thế.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.