Người ta không gọi ông là NSA, vì sẽ nhầm lẫn với Cơ quan An ninh Quốc gia (8). Trên lí thuyết, ông là trợ lí của Tổng thống về các vấn đề an ninh quốc gia, hay còn gọi là cố vấn an ninh quốc gia. Ông được bầu lên không phải qua sự phê chuẩn của thượng viện mà được Tổng thống trực tiếp lựa chọn. Văn phòng cuả ông ở cánh Tây gần Phòng Bầu Dục của Tổng thống. Không như bộ trưởng Nội an, hay bộ trưởng Quốc phòng, Cố vấn An ninh Quốc gia không quản lí cơ quan nhà nước nào.
Nơi Nhà Trắng tọa lạc.
Nếu dựa vào những giới hạn đó, có thể dễ dàng kết luận rằng Cố vấn An ninh Quốc gia không nắm trong tay nhiều quyền lực và ảnh hưởng. Kết luận đó sẽ là hoàn toàn sai lầm.
Bất kì ai có thể rỉ tai nói chuyện với Tổng thống cũng nắm trong tay một quyền lực to lớn và tầm ảnh hưởng đáng kinh ngạc. mỗi khi có khủng hoảng quốc gia, cố vấn an ninh sẽ xử lí trực tiếp từ Phòng Tình huống của Nhà Trắng, trong khi Tổng thống ngồi kế bên.
Robie đã biết tất cả những điều đó trước khi được đưa tới số 1600 đại lộ Pennsylvania (Nhà Trắng – là nơi ở chính thức và là nơi làm việc chính của Tổng thống Hoa Kỳ). Cánh cổng có khả năng chặn xe tăng được mở ra và đoàn xe SUV lướt vào bên trong địa chỉ được cho là nổi tiếng nhất thế giới.
Họ chỉ phải đi bộ một quãng ngắn sau khi rời đoàn xe. Robie không được dẫn tới Phòng Tình huống. Nó chỉ được dành cho những cuộc khủng hoảng có tính quốc gia. À, nhưng nếu chuyện cứ tiếp tục diễn ra theo chiều hướng này, căn phòng đó sẽ trở nên rất bận rộn, Robie nghĩ thầm.
Anh được đưa tới một phòng họp nhỏ rồi được lệnh ngồi chờ. Và anh chờ. Anh biết có nhiều vệ sĩ được vũ trang đang ở ngay ngoài cửa.
Anh tự hỏi liệu Tổng thống có ở thành phố hay không. Anh biết ông đã được báo cáo mọi chuyện. Nhưng ông tính làm gì với báo cáo đó thì không ai có thể chắc chắn.
Robie ngồi một mình trong năm phút, đủ lâu để biết người anh đang đợi là một người rất quan trọng và vấn đề của Robie, mặc dù bức bách, cũng chỉ là một trong nhiều vấn đề mà ông Cố vấn đang phải giải quyết.
Sau cùng thì thế giới cũng là một nơi rất phức tạp. Và nước Mỹ, suy cường quốc duy nhất còn lại, đang ở ngay giữa những phức tạp đó. Bất kể nước Mỹ làm gì, nửa thế giới cũng sẽ ghét nó và nửa còn lại sẽ phàn nàn rằng nước Mỹ làm thế là chưa đủ.
Robie lấy lại tập trung khi cửa mở ra. Người đang bước vào không được công chúng – những người không thể nhớ nổi tên bất kì thành viên nào của Nội các và đôi khi còn nhầm tên phó Tổng thống – biết đến rộng rãi.
Robie nghĩ ông muốn được vô danh như vậy.
Tên của ông là Gus Whitcomb. Ông đã sáu mươi tám tuổi, bụng có hơi nhão, nhưng hai vai vẫn rắn chắc như trong thời huy hoàng của ông ở vị trí hậu vệ trong đội bóng của Học viện Hải quân Hoa Kì. Chắc hẳn khi ấy ông không hay bị tấn công vào đầu, vì não bộ của ông có vẻ vẫn có thể hoạt động hết công suất. Ông nổi danh vì cách hành xử vừa bao dung vừa tàn độc với những kẻ thù của nước Mỹ. Và ông hoàn toàn được Tổng thống tin cậy.
Ông ngồi xuống đối diện Robie, đeo vào cặp kính có dây và nhìn xuống chiếc máy tính bảng mang theo bên mình. Nhà Trắng, cũng như phần còn lại của thế giới, đã bỏ thời đại của giấy tờ sau lưng. Ông đọc đến cuối màn hình, tháo kính, nhét chúng vào túi áo khoác, rồi ngẩng lên nhìn Robie.
“Tổng thống gửi lời chào.”
“Tôi rất cảm kích trước điều đó.”
“Ông ấy đánh giá cao cậu.”
Màn chào hỏi đã qua, Whitcomb đổi giọng. “Một đêm khó khăn cho cậu nhỉ.”
“Phải, một đêm khó mà lường trước.”
“DiCarlo đã ổn định hơn. Họ nghĩ bà ấy sẽ qua khỏi.”
“Tôi rất mừng khi nghe điều đó.”
“Tôi đã đọc báo cáo của cậu nhiều lần. Nhưng không có gì cho thấy ai là kẻ đã ra tay.”
“Tôi không nhìn rõ bất kì ai trong số chúng. Chúng ra tay từ khoảng cách xa. Điều tra hiện trường có phát hiện được gì không?”
“Rất nhiều vỏ đạn.”
Robie gật đầu. “Có thi thể nào không?”
Whitcomb nhìn anh sắc lẹm. “Vì sao lại có? Cậu không thể hạ chúng từ khoảng cách đó với khẩu súng ngắn của mình.”
Robie đã mắc bẫy. Đáng lẽ anh không nên nói thêm gì ngoài những điều đã ghi trong báo cáo chính thức. Hẳn anh đang mệt mỏi hơn mình tưởng.
“Chúng đã áp đảo khi tôi tìm cách thoát ra khỏi đó. Nhưng tôi đã bắn vài phát trực diện vào chúng. Nhỡ đâu lại gặp may.”
Whitcomb có vẻ không thèm nghe anh giải thích, điều đó khiến anh cảm thấy bất an. Vì có nghĩa ông đã luận ra điều gì đấy. Rồi những gì Whitcomb nói lại vang lên trong đầu anh, và anh cố hết sức để khỏi bộc lộ những gì vừa nhận ra.
Vỏ đạn. Rất nhiều.
Như thể đọc được tâm trí Robie, Whitcomb nói, “Hơn bốn mươi vỏ đạn được tìm thấy ở gốc cây bên trái nhà DiCarlo. Hướng vỏ đạn nằm trên mặt đất khi chúng được tìm thấy cho biết kẻ nổ súng đã bắn về phía mà cậu báo cáo là nơi những tên sát thủ đang trú ẩn, cũng là nơi máu và nhiều vỏ đạn khác tìm thấy. Chúng tôi cũng tìm thấy mảnh kính vỡ được nhận dạng là từ ống ngắm của súng trường và đèn pin. Vậy câu hỏi là, còn ai ở đó nữa?”
Ông nhìn chằm chằm vào Robie.
Thấy Robie không nói gì, ông tiếp tục, “Cậu không thể không nhìn thấy một người bắn hơn bốn mươi phát súng tầm xa có khả năng sát thương cao vào những kẻ đang nã súng vào cậu. Vậy ai là thiên thần hộ mệnh của cậu? Đó là câu hỏi thứ nhất. Và câu hỏi thứ hai, tại sao thông tin đó không nằm trong báo cáo của cậu?”
“Đó là vấn đề lòng tin, thưa ông.”
Qua vẻ mặt chùng xuống của Whitcomb, Robie biết đây không phải câu trả lời ông đang mong đợi. “Cậu nói gì?” ông hỏi.
“Bà DiCarlo đã cho tôi biết, có những chuyện không hợp lí đang xảy ra ở tổ chức và một số cơ quan khác. Những điều khiến bà ấy lo ngại. DiCarlo đã nói rằng cơn khủng hoảng đang đến gần. Bà ấy chỉ có hai vệ sĩ bên mình vì bà ấy chỉ có thể tin tưởng ở họ.”
Whitcomb đeo kính trở lại, như thể làm vậy sẽ giúp ông hiểu rõ hơn những điều Robie vừa nói.
“Cậu đang muốn nói rằng nhân vật số hai đã không tin tưởng tổ chức của mình? Không tin tưởng CIA?” Ông chậm rãi lắc đầu. “Đó là một việc rất, rất khó mà hiểu được, cậu Robie.”
“Tôi chỉ đang thuật lại những gì mình được nghe.”
“Vậy mà phát ngôn động trời đó cũng không ghi trong báo cáo của cậu. Và không may bà DiCarlo lại không thể đối chứng cho phát ngôn của cậu.”
“Bà ấy đã mời tôi đến nhà, thưa ông. Để nói với tôi những điều đó.”
“Một lần nữa, đó cũng chỉ là lời nói của cậu.”
“Ông không tin tôi?” Robie nói.
“Cậu có vẻ cũng không tin bất kì điều gì.”
Robie lắc đầu không trả lời.
Whitcomb sấn tới. “Các báo cáo tôi nhận được cho biết chúng ta có một điệp viên tạo phản đã sát hại người của tổ chức. Cậu được chỉ thị truy tìm và loại bỏ điệp viên ấy. Nhưng tôi thấy cậu không những không có bất kì tiến triển gì trong việc truy bắt cô ta, mà cậu còn bắt đầu tin rằng kẻ thù thực sự nằm ở bên trong tổ chức thay vì bên ngoài.”
“Khi người của chính mình che giấu thông tin với mình thì tôi nghĩ niềm tin của tôi đi xuống cũng là lẽ thường tình. Chưa kể họ còn cản trở tôi làm nhiệm vụ.”
“Che giấu thông tin?”
“Các tài liệu bị cắt bỏ, hiện trường bị che đậy, các cuộc gặp khó hiểu mà những điều bỏ ngỏ còn nhiều hơn cả những điều được nói. Mục tiêu không ngừng thay đổi. Đó không phải một điều kiện tốt để thành công, thưa ông.”
Whitcomb nhìn đăm đăm xuống hai tay trong giây lát. Đoạn ngước lên và nói, “Hãy trả lời câu hỏi đơn giản này của tôi. Cậu có nhìn thấy người đã bắn những phát súng đó không?”
Robie biết nếu ngập ngừng anh sẽ chỉ gây thêm tai họa. “Đó là một phụ nữ. Tôi không nhìn rõ mặt. nhưng đó chắc chắn là một phụ nữ.”
“Và cậu không bận tâm xác nhận đó là ai?”
Robie có sẵn câu trả lời mà đến một người tinh quái như Whitcomb cũng không thể phản biện. “Có một người bị thương nặng có thể chết bất cứ lúc nào nằm trên ghế sau trong xe của tôi. Và đạn không ngừng bắn tới. Tôi không có thời gian để làm gì khác ngoài việc rời khỏi đó nhanh hết mức có thể. Ưu tiên hàng đầu của tôi là sự sống còn của bà DiCarlo.”
Whitcomb gật đầu trước cả khi Robie kịp nói hết câu. “Dĩ nhiên, cậu Robie. Dĩ nhiên. Tôi hoàn toàn hiểu và hi vọng hành động kịp thời của cậu đã cứu sống DiCarlo, việc mà cậu được phó thác.”
Ông ngừng nói, có vẻ như đang sắp xếp lại suy nghĩ của mình trong lúc Robie đợi câu chất vấn tiếp theo.
“Theo cậu nghĩ người phụ nữ này là ai?”
“Tạm thời chỉ là suy đoán.”
“Tạm thời tôi sẽ cân nhắc suy đoán ấy,” Whitcomb đáp trả.
“Tôi nghĩ đó là Jessica Reel, điệp viên đào ngũ mà tôi được lệnh phải truy bắt.”