Sông Đông êm đềm

Chương 222 phần 2



Acxinhia lặng lẽ làm dấu phép, trong lòng rất ngạc nhiên trước cái vẻ bình tĩnh của bà già khi bà cho biết tin chồng chết.

Bà Ilinhitna chống tay xuống bàn, nặng nề đứng dậy.

– Tôi ngồi bên nhà chị lâu quá rồi, ngoài sân chắc đã tối đen.

– Mời cụ ngồi chơi đã.

– Bên ấy chỉ có một mình con Dunhiaska ở nhà, tôi phải về thôi.

Bà sửa lại chiếc khăn trên đầu, đưa mắt nhìn quanh căn bếp rồi cau mày nói:

– Khói lùa cả trong bếp lò ra. Lúc chị ra đi, đáng là phải cho một người nào đến ở. Thôi, tạm biệt chị.

Rồi khi đã cầm lấy nắm đấm trên cánh cửa, bà còn nói thêm nhưng không nhìn lại:

– Chị thu dọn xong được nơi ăn chốn ở thì sang chơi bên tôi nhé. Nếu có nghe được tin tức gì về thằng Grigori thì cũng cho tôi biết với.

Từ hôm ấy, mối quan hệ giữa nhà Melekhov và Acxinhia thay đổi hẳn. Sự lo lắng chung cho tính mạng của Grigori tựa như làm hai bên trở nên gần gũi thân thiết. Sáng hôm sau Dunhiaska trông thấy Acxinhia ở ngoài sân bèn gọi nàng rồi bước tới bên hàng rào. Cô ôm lấy cặp vai gầy của Acxinhia, mỉm nụ cười âu yếm và hồn nhiên:

– Chao ôi, chị Acxinhia, chị gầy đi nhiều quá! Chỉ còn da bọc xương thôi.

– Sống như thế nầy thì không gầy làm sao được. – Acxinhia mỉm cười trả lời. Trong lòng nàng không khỏi cảm thấy ghen tị khi nàng ngắm khuôn mặt hồng hào của cô gái đang nở hoa với cái sắc đẹp vừa đến thì.

– Hôm qua mẹ em sang bên chị đấy à? – Dunhiaska hỏi, giọng cô gái không hiểu sao trở nên thầm thì.

– Cụ có sang đấy.

– Cả em cũng đoán rằng cụ sang bên chị. Cụ hỏi về tin tức anh Griska có phải không?

– Đúng đấy.

– Nhưng cụ có khóc không?

– Không, cụ là một bà lão rất cứng cỏi.

Dunhiaska nhìn Acxinhia một cách tin cậy rồi nói:

– Nhưng nếu mẹ em khóc được thì vẫn hơn, dù sao khóc được thì trong lòng cũng nhẹ nhàng một đôi chút. Chị có biết không, chị Acxiutka, từ mùa đông năm nay mẹ em lạ lắm cơ, chẳng còn như trước kia nữa đâu. Khi cụ nghe tin về cha em, em cứ tưởng mẹ em sẽ đau khổ vật vã, em đã hoảng lên, nhưng chẳng thấy cụ nhỏ một giọt nước mắt nào. Cụ chỉ nói: “Cầu cho ông ấy được hưởng phúc nơi thiên đường, ông già yêu quí của tôi phải chịu khổ đến thế là hết rồi…” Và từ lúc ấy đến tối cụ chẳng nói với ai câu nào. Em xán đến nói với mẹ em chuyện nọ chuyện kia, nhưng cụ chỉ xua tay, nhất định không chịu hé răng. Hôm ấy em sợ sợ là…! Nhưng đến tối em thu dọn cho gia súc xong ở ngoài sân bước vào hỏi mẹ em: “Mẹ ơi, ta nấu gì để ăn bữa tối bây giờ?” thì lúc ấy trong lòng cụ đã nguôi nguôi, và cụ bắt đầu nói…

Dunhiaska thở dài rồi mơ màng nhìn ra không biết nơi nào qua vai Acxinhia và hỏi thêm:

– Anh Grigori nhà em chết rồi hay sao? Người ta đồn như thế liệu có đúng không?

– Tôi không biết đâu, cô em yêu quí ạ.

Dunhiaska nhìn Acxinhia như thăm dò rồi thở dài càng não ruột hơn.

– Mẹ em nhớ anh ấy đúng là nhớ ngày nhớ đêm! Cụ chỉ gọi anh ấy là: “thằng hai yêu quí của mẹ”, và cụ nhất định không tin rằng anh ấy đã chết. Nhưng chị có biết không, chị Acxinhia, nếu mẹ em được biết rằng đích xác anh ấy đã mất rồi thì chính cụ cũng sẽ buồn nhớ đến chết mất. Mẹ em đã sắp đến lúc về chầu Chúa rồi, nên chỉ còn có một chỗ bấu víu để mà sống là anh Grigori thôi. Đối với hai đứa cháu, bây giờ mẹ em không hiểu sao cũng không thích chúng nó lắm nữa. Còn công việc thì cầm đến cái gì là rơi vãi cái ấy… Chị thử nghĩ mà xem, có một năm mà trong gia đình nhà em bốn người…

Acxinhia bỗng cảm thấy thương hại, nàng vươn tay qua hàng rào, ôm lấy Dunhiaska và hôn rất mạnh vào má cô gái.

– Chị láng giềng tốt bụng của em, chị cố làm cái gì cho mẹ em khuây khoả một chút, đừng để cụ phải đau khổ quá nhiều.

– Nhưng làm thế nào cho cụ khuây khoả bây giờ?

Dunhiaska đưa góc chiếc khăn tay Iên lau mắt rồi nói:

– Chị cứ sang bên nhà em, chuyện trò với mẹ em, cụ sẽ được nhẹ nhõm trong lòng. Chị đừng lảng tránh nhà em làm gì!

– Sẽ có lúc tôi sang, thế nào cũng sang!

– Ngày mai có lẽ em sẽ ra đồng. Thắng bò cùng cày với chị Anikey. Nhà em định gieo, dù chỉ hai đê-xi-a-chin lúa mì. Còn chị thì chị có định gieo gì cho bên nhà không?

– Tay tôi thì gieo với giếc gì? – Acxinhia mỉm một nụ cười không có gì là vui vẻ. – Chẳng có gì để mà gieo, mà cũng chẳng gieo làm gì. Một thân một mình thì chỉ cần ít thôi, thế nầy cũng sống qua quít được.

– Chị có được tin gì về anh Stepan nhà chị không?

– Chẳng có tin tức gì cả. – Acxinhia trả lời lạnh nhạt rồi bỗng nói một câu mà chính nàng cũng thấy bất ngờ: -Tôi cũng không khô héo vì hắn đâu – Lời thú nhận bất giác nói ra làm nàng luống cuống.

Nàng cố giấu vẻ bối rối, vội nói thêm:

– Thôi chào cô bé nhá, tôi còn phải vào thu dọn trong nhà đây.

Dunhiaska làm như không nhận thấy vẻ lúng túng của Acxinhia, cô đưa mắt nhìn ra chỗ khác và nói:

– Chị hãy hượm một lát đã, em còn muốn nói với chị chuyện nầy nữa, chị có thể làm giúp cho bên em được không? Ruộng đất khô nẻ cả, em chỉ lo nhà em làm không thể nào hết việc, cả thôn chỉ còn có hai tay Cô-dắc thì lại tàn phế cả hai.

Acxinhia vui vẻ nhận lời ngay, còn Dunhiaska thì sung sướng vì đã được mãn nguyện, vội đi sửa soạn các thứ.

Suốt ngày hôm ấy, Dunhiaska cố hết sức sửa soạn để ra đồng: được mụ vợ goá của Anikey giúp thêm, cô gái sàng lại hạt giống, sửa qua quít cái bừa, bôi dầu vào bánh xe, chỉnh lại cái máy gieo hạt. Rồi đến khi trời hoàng hôn, cô đùm vào khăn tay một ít lúa mì thật sạch đem ra nghĩa địa rắc lên mộ của Petro, Natalia và Daria, để đến sáng mai sẽ có những con chim bay tới mộ những người thân thuộc. Với tấm lòng ngây thơ mà cô vẫn còn giữ từ thời thơ ấu, Dunhiaska tin rằng tiếng chim líu lo vui tai sẽ được người chết nghe thấy và sẽ làm họ sung sướng.

Mãi đến khi trời sắp rạng, vùng ven sông Đông mới trở lại yên tĩnh. Nước chạy lóc óc trầm trầm trong khu rừng ngập nước, rửa sạch những thân cây tiêu huyền màu xanh nhợt, lay động đều đều ngọn của những đám sồi và hoàn diệp liễu non ngập nước. Trong các hồ đầy ắp những bông lau ngả theo làn nước kêu xào xạc. Ở những chỗ nước lũ tràn ra, trong những khuỷu sông hẻo lánh, tức là những nơi mà làn nước hoàn toàn nằm chết lặng như bị ma làm phản chiếu ánh sáng lờ mờ của những đêm lắm sao, có thể thoáng nghe thấy tiếng những con ngỗng trời gọi nhau rất khẽ, tiếng những con vịt đực vùng sông Tria kêu như mơ ngủ và thỉnh thoảng mới thấy vang lên những tiếng lanh lảnh như kèn bạc của những con thiên nga di cư qua dừng lại nghỉ đêm. Đôi khi trong bóng tối có con cá quẫy mạnh lao ra chỗ rộng kiếm mồi làm nước bắn tung, những làn sóng uyển chuyển lan ra rất xa trên mặt nước lấm tấm những ánh vàng óng, rồi vẳng có tiếng một con chim bị kinh động kêu quang quác, kêu lên như để báo trước một điều gì. Sau đó bầu không khí lặng trở lại bao phủ khắp vùng ven sông Đông. Nhưng đến khi trời bình minh, khi những nhánh núl đá phấn mới điểm chút màu hồng, gió đã ập tới từ miền hạ du. Những làn gió vừa quánh vừa mạnh thổi ngược dòng. Những đợt sóng cao hàng xa-gien chồm lên trên mặt sông, nước trong rừng réo ầm ầm như điên, cây cối ngả nghiêng rên xiết. Từ lúc đó gió tiếp tục gào rú suốt ngày và mãi đến đêm khuya mới lặng đi. Thời tiết kéo dài như thế vài ngày liền.

Một làn khói màu tím ngắt nằm lơ lửng trên đồng cỏ. Đất khô nẻ cả Cỏ chỉ mọc đến nửa chừng rồi không lên thêm được nữa, từng dải cát dài nằm lại trên các mảnh đất đã cày. Chậm thêm một giờ là đất càng bị gió thổi khô, nhưng trên các cánh đồng của thôn Tatarsky vẫn gần như không trông thấy vía một người nào. Cả thôn chỉ còn vài ông già lụ khụ ở lại. Đi rút lui đến nửa đường trở về chỉ có những gã Cô-dắc bị lạnh đến hỏng người hoặc bị bệnh tật, đến nay không còn làm ăn gì được nữa. Vì thế làm việc ngoài đồng chỉ có những người đàn bà và những thằng con trai chưa thành niên.

Trong cái thôn không một bóng người, gió lùa bụi mù mịt, đập sầm sầm cửa chớp các ngôi nhà, giũ rơm trên mái các nhà kho. Các cụ già nói: “Năm nay chúng ta sẽ chẳng có lúa má gì đâu. Toàn bọn đàn bà ra làm việc ngoài đồng, mà ba nhà mới có một nhà gieo hạt. Ruộng đất đã hết sức sống rồi thì còn sinh sôi nảy nở thế nào được nữa…”

Ra đồng làm việc hôm trước thì hôm sau, lúc mặt trời sắp lặn, Acxinhia xua mấy con bò mộng ra đầm uống nước. Thằng bé mười tuổi nhà Obnizov đang đứng bên bờ đê, tay dắt con ngựa yên cương sẵn sàng. Con ngựa nhay nhay môi, nước nhỏ giọt xuống từ cái mõm xám mượt như nhung của nó, song chú kỵ sĩ vừa xuống ngựa còn mải đùa: chú ném từng miếng đất sét khô xuống nước để ngắm những vòng tròn lan dần trên mặt nước.

– Cháu sắp sửa đi đâu đấy, cháu Vanhiatca? – Acxinhia hỏi.

– Cháu mang thức ăn cho mẹ cháu.

– Thế trong thôn có chuyện gì không?

– Chẳng có gì đâu. Đêm hôm qua cụ Gerasin quăng lưới đánh được một con cá chép to đến là to. Lại có bác Fedor Mennhikov đi rút lui đã về. Thằng bé kiễng chân, buộc gọn đoạn dây hàm thiếc, nắm chặt lấy một đám bờm ngựa rồi nhảy phắt lên yên, nhanh như một thằng quỉ con. Như một người chủ ngựa thận trọng, lúc mới rời khỏi bờ đầm nó còn cho con ngựa đi bước một, nhưng chỉ lát sau, nó đã quay nhìn Acxinhia một cái rồi thúc con ngựa phóng nhanh đến nỗi cái áo sơ-mi xanh da trời đã bạc màu phồng to trên lưng nó như một bọt nước khổng lồ.

Trong khi cặp bò mộng uống nước, Acxinhia ngả lưng xống con đê một lát rồi lập tức quyết dịnh về thôn ngay. Melnikov là một gã Cô-dắc đi lính, vì thế tất nhiên hắn phải biết ít nhiều về số phận của Grigori. Sau khi đánh bò về chỗ để xe, Acxinhia bảo Dunhiaska:

– Tôi phải tạt qua về thôn đây, nhưng sáng sớm mai sẽ lại ra.

– Chị có việc cần à.

– Có chút việc.

Sáng hôm sau Acxinhia lại ra đồng. Nàng bước tới chỗ Dunhiaska vừa thắng xong hai con bò, ngọn roi vung vẩy trong tay nom rất vô tư lự, nhưng lông mày nàng cau cau, hai bên mép nhăn lại thành những nếp đầy cay đắng.

– Mennhikov vừa về. Tôi đã đến hỏi hắn về anh Grigori. Nhưng hắn chẳng biết gì cả. – Nàng nói gọn lỏn vài câu rồi quay phắt đi, bước ra chỗ máy gieo hạt.

Gieo hạt xong, Acxinhia bắt tay vào làm công việc nhà; nàng ra vườn trồng ít dưa hấu, trát và quét vôi lại căn nhà, tự tay lợp lại mái nhà kho bằng chỗ rơm còn lại, biết làm bao nhiêu thì cứ làm. Hết ngày nọ đến ngày kia cứ trôi qua trong công việc lao động, nhưng nỗi lo lắng cho tính mệnh của Grigori không buông tha Acxinhia giờ phút nào. Stepan thì Acxinhia chỉ nghĩ tới anh ta một cách miễn cưỡng, và không hiểu sao nàng cứ có cảm tưởng là anh ta sẽ không trở về nữa. Tuy vậy mỗi khi trong thôn có gã Cô-dắc nào trở về, câu hỏi đầu tiên của nàng vẫn là: “Bác có gặp anh Stepan nhà tôi không?” rồi sau đó mới lân la cố dò hỏi rất dè dặt về Grigori. Trong thôn ai cũng đã biết chuyện hai người đi lại với nhau. Ngay đến những mụ đàn bà thích đơm đặt nói xấu người khác cũng đã thôi không còn đem chuyện hai người ra nói nữa, song Acxinhia ngượng không muốn nói ra tình cảm của mình. Chỉ năm thì mười hoạ, khi tên lính quá ít lời không đả động gì đến Grigori, nàng mới nheo nheo mắt hỏi với vẻ lúng túng ra mặt: “Thế bác có dịp nào gặp bác Grigori Pantelevich, láng giềng nhà chúng tôi không? Bà cụ bác ấy buồn nhớ bác ấy khô héo cả người…”

Sau khi quân đội sông Đông đầu hàng ở Novorossisk, không một gã Cô-dắc nào trong thôn được gặp Grigori hay Stepan. Mãi đến cuối tháng Sáu mới có một gã đồng đội của Stepan, người thôn Kôlundaevsky chạy sang bên kia sông Đông, ghé qua gặp Acxinhia và báo tin cho nàng biết:

– Stepan đã bỏ đi Krym rồi, tôi nói thật với chị đấy. Chính mắt tôi đã trông thấy hắn lên tàu đấy! Hai đứa chẳng nói với nhau câu nào cả. Chen chúc thật là ghê gớm, cứ phải đạp lên đầu nhau mà qua. – Thấy hỏi về Grigori, hắn chỉ trả lời qua quít – Tôi có nhìn thấy trên bến tàu, vẫn đeo lon nhưng sau không được gặp nữa. Nhiều sĩ quan đã bị giải lên Moskva, nhưng ai mà biết được bây giờ hắn ở đâu.

Nhưng một tuần sau bỗng thấy Prokho Zykov mò về thôn Tatarsky. Hắn bị thương nên được đưa từ nhà ga Minlerovo về bằng xe ngựa của dân công. Vừa nghe tin ấy, Acxinhia bỏ không vắt sữa con bò cái nữa. Nàng đẩy con bò con tới bên con bò mẹ, vội vã vừa đi vừa chít cái khăn lên đầu và gần như chạy tế sang sân nhà Zykov.

“Prokho thì hắn biết đấy, thế nào hắn cũng phải biết? Nhưng nếu hắn bảo Griska không còn sống nữa thì sao? Nếu vậy thì mình sẽ như thế nào?” – Nàng vừa đi vừa nghĩ thầm, chân đi mỗi lúc một chậm lại, một tay áp lên chỗ tim đập, chỉ sợ phải nghe một tin chẳng lành Prokho đón nàng ở phòng trong. Hắn cười toe toét cố giấu ra sau lưng cánh tay cụt chỉ còn một mẩu ngắn cũn.

– Chào cô bạn đồng sự! Cô có khoẻ không? Vẫn được trông thấy cô còn sống cơ à? Thế mà chúng tôi cứ tưởng cô đã nằm trong sáu tấm gỗ sồi ở cái xóm ấy rồi. Chao ôi, cô ốm nặng quả là ghê gớm… Nhưng lạ thật, tại sao cái chứng thương hàn ấy nó còn có thể làm cô đẹp ra như thế nầy được? Còn tôi thì cô xem, cái bọn Trắng Ba Lan đã làm người ngợm tôi như thế nầy đây, sao không tọng cho chúng nó cái gọng xe vào mồm? – Prokho giơ bên tay áo rỗng buộc thành nút của chiếc áo quân phục cổ chui màu cứt ngựa. – Vợ tôi nó trông thấy cái nầy cứ chảy nước mắt ra khóc, nhưng tôi bảo nó: “Chớ có gào lên, đồ ngu, những đứa khác bị chặt béng mất đầu còn chẳng oán thán, đằng nầy chỉ bị một cái tay thì có gì là quan trọng. Bây giờ thì người ta lắp những cái tay gỗ đấy. Cái của ấy ít nhất cũng không sợ rét và cắt không chảy máu đâu”. Nhưng cô nàng ạ, chỉ tai vạ một điều là tôi chưa học được cách làm mọi việc bằng một tay. Quần cũng chẳng cài được cúc, mẹ khỉ? Từ Kiev về đến nhà cúc quần cứ để hở. Thật là nhục nhã! Vì thế nếu cô thấy tôi có chỗ nào mất trật tự thì cũng lượng thứ cho nhé… Nhưng nào, cô vào đi chứ, ngồi xuống đi, cô sẽ là khách của tôi. Chúng ta hãy nói chuyện với nhau một lát trong khi con mụ nhà tôi còn đi vắng. Con mụ phản Chúa ấy, tôi đã phái nó đi kiếm rượu đấy. Chồng về bị chặt béng mất một tay và nó cũng chẳng có gì đề mừng đón. Cái bọn quỉ cái ướt đuôi tất cả những đứa vắng chồng các cô, thằng nầy thì đi guốc trong bụng!

– Có lẽ anh hãy nói…

– Biết rồi, tôi sẽ nói đây. Hắn ra lệnh cho tôi chuyển lời hỏi thăm đấy! – Prokho cúi đầu chào một cách rất khôi hài, nhưng lúc ngẩng đầu lên hắn ngạc nhiên rung rung hai hàng lông mày; – Lại còn cô ả nầy nữa! Tại sao cô khóc hả, thật là ngu xuẩn? Tất cả bọn đàn bà các cô đến là lắm nước mắt. Người ta bị giết các cô cũng khóc, người ta còn sống các cô cũng khóc. Thôi lau đi, lau đi, làm gì mà chảy cả nước mắt nước mũi ra như thế? Tôi bảo cho cô biết rằng hắn còn sống, vẫn khoẻ mạnh, ăn lắm vào mặt bạnh ra thế nầy nầy! Ở Novorossisk tôi đã cùng hắn đi theo Tập đoàn Hồng quân của đồng chí Budionnyi, vào sư đoàn Mười bốn. Anh chàng Grigori Pantelevich của chúng ta đã được nhận cho chỉ huy một đại đội, một đại đội kỵ binh cơ đấy. Tất nhiên tôi cũng nằm trong đơn vị của hắn, và chúng tôi đã cưỡi ngựa tiến về phía Kiev. Chà, cô nàng ạ, chúng tôi đã cho cái bọn Trắng Ba Lan ấy trông thấy ông bà ông vải. Chúng tôi tiến đến đây thì anh chàng Grigori Pantelevich nói: “Mình đã từng chém bọn Đức, đã thử lưỡi gươm của mình trên mọi kiểu quần áo, chẳng nhẽ bọn Ba Lan nầy còn có những cái sọ rắn hơn hay sao? Mình cho rằng chém chúng nó còn dễ hơn chém người Nga mình đấy, cậu thấy thế nào hử?” Hắn nói thế rồi lại nhe răng nhe lợi, nháy mắt với tôi. Từ ngày tham gia Hồng quân, anh chàng thay đổi hẳn, hắn trở nên vui vẻ, trơn lông dỏ da cứ như con ngựa thiến ấy. Hừ, mà tôi với hắn ở với nhau cũng chẳng khỏi có những chuyện lủng củng trong anh em… Một lần tôi cho con ngựa tới gần hắn và nói đùa một câu: “Đã đến lúc anh em dừng lại nghỉ rồi đấy, bẩm quan lớn đồng chí Melekhov!” Hắn trợn mắt lên với tôi và bảo: “Cậu có bỏ cái kiểu nói đùa với tôi như thế đi, nếu không sẽ chẳng hay ho gì đâu”. Đến chiều không hiểu có việc gì hắn lại gọi tôi đến, và quỉ dữ lại xui tôi gọi hắn là “quan lớn”… Thế là hắn rút luôn khẩu Mauser ra? Mặt hắn tái nhợt, hắn nhe nanh ra cứ như con chó sói, đầy mõm những răng là răng, ít nhất cũng một trăm cái. Tôi đành phải tụt xuống dưới bụng con ngựa và chuồn ngay khỏi mắt hắn. Chỉ thiếu chút nữa là bị hắn cho đi đời nhà ma, cái thằng quỉ dữ ấy nó như thế đấy!

– Nhưng anh ấy như thế nào, liệu có được về phép không? – Acxinhia lắp bắp.

– Đừng hòng? – Prokho ngắt lời nàng. – Hắn nói rằng tôi sẽ phục vụ cho đến bao giờ đền hết các tội xưa kia mới thôi. Chuyện ấy hắn sẽ làm được cho mà xem, làm một việc ngu xuẩn thì cũng chẳng khó khăn gì đâu… Một lần hắn chỉ huy chúng tôi xông lên xung phong ở gần một cái trấn nhỏ. Ngay trước mắt tôi hắn đã chém chết liền bốn thằng thương kỵ binh của bọn kia. Cái thằng đáng nguyền rủa ấy, từ bé hắn đã quen dùng tay trái, vì thế, hắn có thể dùng cả hai tay để chém trúng bọn kia. Sau trận chiến đấu, Budionnyi đã đích thân ra trước hàng quân bắt tay hắn, khen toàn đại đội và khen riêng hắn. Cái anh chàng Pantelevich của cô, hắn đã giở những trò như thế đấy Acxinhia nghe kể như trong một giấc mộng… Mãi khi bước tới cái cổng xép của nhà Melekhov nàng mới trở lại với thực tế.

Dunhiaska đang chắt sữa ở phòng ngoài. Cô gái hỏi nhưng không ngẩng đầu lên:

– Chị sang lấy men ủ nước kvas có phải không? Em đã hứa mang sang mà quên khuấy đi mất. – Nhưng vừa nhìn thấy hai con mắt đầm đìa nước mát, long lanh vì sung sướng của Acxinhia, Dunhiaska đã hiểu hết, chưa cần phải nghe nói gì cả.

Acxinhia áp khuôn mặt nóng bừng bừng vào tai Dunhiaska, thở hổn hển vì sung sướng, khẽ nói:

– Còn sống, vẫn khoẻ mạnh… Có gửi lời hỏi thăm đấy… Vào ngay đi! Vào nói cho mẹ biết đi!


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.