Phút cuối cũng đến thật nhanh.
Nó đến vào lúc mười một giờ năm mươi phút đêm.
Ba tiếng gõ cửa nhọn và sắc. Chàng trai đứng bật lên, vẻ mặt ngơ ngác. Ông già đứng lên, hít vào một hơi dài, ông nắm tay anh cháu.
– Nghe ông. Đi với ông đến cửa, nhưng không được ở lại.
– Vâng.
Anh cháu ôm chầm lấy ông.
– Nói với cô Lee ông thương cô lắm. Nhé… Nói với cô ông nhớ, ông nghĩ đến cô thật nhiều trong những phút cuối đời ông. Ông không buồn vì cô không đến. Ông cũng chẳng đến nếu ông không bị bắt buộc.
Anh cháu úp mặt lên vai ông. Anh không nói nhưng anh tưởng là anh nói:
– Vâng.. vâng.. Con sẽ nói..
– Nói với mẹ con ông có lời hỏi thăm nhé. Ông vẫn mến mẹ con. Nói với Carmen ông yêu thương nó lắm. Ông xin lỗi các con. Ông để lại cho các con một di sản quá nặng.
Chàng trai gượng nói lên thành tiếng:
– Ông ơi… Chúng con sống được…
– Ông biết các con sẽ sống đàng hoàng. Ông chết với tư cách là người đàn ông kiêu hãnh vì ông có các con.
Nước mắt ràn rụa Adam nói:
– Ông ơi… Con thương ông… Con nhớ ông…
Cửa mở. Phó Tổng giám thị Nugent xuất hiện:
– Tới giờ rồi.
Ông già từ từ quay lại với nụ cười can đảm trên môi:
– Làm cho xong đi.
Ông nói, giọng bình thản như người sắp làm một chuyến đi chơi xa.
Người giám thị đi trước, người tử tù đi thứ hai, người luật sư đi thứ ba. Chỉ vài chục bước là họ tới phòng hơi độc.
Mọi người trong phòng đứng nhìn ngây nhìn người tử tù. “Họ xấu hổ,” Adam nghĩ. “Họ xấu hổ vì họ tham dự vào một việc làm độc ác.”
Không khí nóng như trong lò nướng hành. Hai người gác đi hai bên nắm hai cánh tay già Sam, đưa ông vào phòng hơi độc. Già Sam đếm xem từ cửa vào ông đi được mấy bước.
Đột nhiên ông thấy ông ngồi trong lòng ghế. Ông nhìn ra cửa phòng tìm anh cháu.
Hai chân Adam mềm nhũn như không còn gân xương. Trong cơn ác mộng chàng nhìn thấy ông nội chàng bị người ta cột hai tay, hai chân, rồi cột cả đầu, vào chân ghế, tay ghế, thành ghế. Mắt hai ông cháu gặp nhau. Rồi ông già nhắm mắt lại.
Luật sư Lucas Mann bước đến bên ghế với tờ giấy trên tay:
– Ông Samuel Cayhall! Đây là lệnh hành quyết. Theo luật tôi phải đọc lệnh này với ông.
Không mở mắt và gần như không mở miệng người tử tù thốt lên sau tiếng hừ:
– Lẹ lên.
Lucas Mann run giọng:
– Thi hành án tử hình được tuyên ngày…
Đứng bên ngoài Adam chỉ nghe rõ mấy tiếng sau cùng:
– Xin thượng đế đón nhận linh hồn ông…
Đọc xong Luật sư Mann lùi lại. Ông nhấc ống điện thoại trên tường, gọi về văn phòng ông xem có lệnh hoãn hành quyết vào phút cuối cùng không. Không có. Ông gọi điện thoại về văn phòng Chưởng lý ở thủ phủ Jackson để hỏi về lệnh hoãn hành quyết.
Lúc này là ba mươi giây đồng hồ sau mười hai giờ đêm.
Thời gian đã sang một ngày mới.
Người luật sư nói với người giám thị:
– Không có lệnh hoãn.
Người giám thị hỏi lại theo luật:
– Thưa luật sư! Có lý do gì để không tiến hành cuộc hành quyết này không?
Người luật sư trả lời:
– Không!
Adam nhìn ông nội chàng lần cuối. Ông nội chàng ngồi thẳng người trong lòng ghế, mắt nhắm lại, môi mấp máy như đang cầu nguyện.
Người giám thị hỏi người tử tù:
– Samuel Cayhall, ông có nói lời gì cuối cùng không?
Không mở mắt người tử tù trả lời:
– Có. Nhưng không nói với anh.
Vẫn nhắm mắt ông già cao giọng:
– Adam… Đi đi con…
Chàng trai loạng choạng đi ra hành lang. Rồi không biết bằng cách nào và vào lúc nào chàng ra được đến bên ngoài. Khi nghe tiếng người hỏi vang lên sau lưng chàng thấy mình đang gục đầu lên cửa chiếc xe hơi.
– Adam! Anh không sao chứ?
Người hỏi là luật sư Lucas Mann.
– Không.
– Choáng váng thôi. Rồi sẽ hết.
Adam ngửng đầu lên:
– Ông không ở lại trong đó à?
Lucas Mann lắc đầu:
– Không. Tôi đã thấy bốn vụ. Vụ này nặng nhất.
Adam ngơ ngác nhìn quanh như chàng không biết phải đi lối nào:
– Tôi muốn ra cổng.
– Tôi đưa anh đi.
Nắm cánh tay Adam, Lucas Mann đưa Adam đến xe hơi của ông. Vừa ngồi vào xe đột nhiên Adam cảm thấy rõ ràng ông nội chàng đang đau đớn ghê gớm, hơi độc đang xé nát phổi ông. Chàng nấc lên khóc.
Chàng khóc vì ông nội chàng bị người ta trói lại để giết như một con vật. Chàng khóc cho lịch sử dòng họ Cayhall đầy những thảm kịch, chàng khóc vì tự thương thân, vì cảm giác đau nhói như tim chàng bị đóng đinh. Chàng khóc vì chàng vừa mất một người chàng yêu thương…
Ra đến xa lộ cao tốc Adam lái xe chạy về hướng Bắc như chàng đã có chủ ý từ trước là ra đấy chàng sẽ đi về hướng Bắc. Chàng không muốn trở về Memphis. Những thị trấn nhỏ theo nhau chạy thụt lùi hai bên xe. Chàng đi mà không biết là đi đâu. Chưa bao giờ chàng tính đến chuyện chàng sẽ đi đâu sau khi ông nội chàng vào phòng hơi độc. Chàng không tính trước đến việc ấy vì chàng không tin là ông nội chàng sẽ bị người ta giết. Giờ đây lẽ ra chàng phải ở trong một khung cảnh sáng choang, trong không khí tưng bừng của cuộc liên hoan, mở nút champagne lốp bốp mừng chiến thắng.
Chàng không có can đảm trở về nhà gặp cô Lee ngay đêm nay. Có thể bà cô của chàng đang ở nhà theo dõi cuộc hành quyết trên màn ảnh tivi, khóc và mong chàng về. Hoãn lại cuộc gặp này đã. Chàng sẽ về với cô nhưng ngay đêm nay thì không thể. Lát nữa chàng sẽ vào một phòng trọ bên đường, ngủ vùi cho đến trưa mai, chiều mai. Ngày mai sẽ tính. Rồi mặt trời cũng mọc. Xe chàng vun vút chạy qua cả chục thị trấn. Chàng chẳng biết chàng đang ở đâu, đi đâu. Chàng chỉ biết chàng không thể lạc đường được vì chàng có định đến nơi nào nhất định đâu.
Ánh đèn một tiệm bách hóa bên đường làm chàng ngừng xe lại. Nửa đêm về sáng, không có người khách nào trong tiệm. Người thiếu phụ bán hàng có mái tóc hung đỏ ngồi sau quầy, nhai kẹo cao su, hút thuốc lá, nói chuyện cà kê dê ngỗng qua điện thoại. Adam đi thẳng đến tủ lạnh, lấy ra một bịch sáu lon bia.
– Xin lỗi. – Người thiếu phụ nói – Không được mua bia sau 12 giờ đêm.
Đứng trước quầy, tay đã cho vào túi lấy tiền ra trả, Adam hất hàm:
– Chị nói cái gì?
Người thiếu phụ không ưa cái hất hàm và giọng nói bất lịch sự của Adam, chị ta đặt ống điện thoại xuống và đứng lên:
– Không được bán bia, không được mua bia sau 12 giờ đêm. Đó là luật.
– Luật?
– Phải. Đó là luật.
– Luật của bang Mississippi?
Người thiếu phụ gật đầu:
– Phải.
– Chị có biết tôi nghĩ gì về cái gọi là luật của bang này không?
– Không. – Người thiếu phụ lắc đầu – Tôi không biết anh nghĩ gì mà tôi cũng cóc cần biết…
Adam quăng tờ 10 đô-la lên quầy rồi xách bịch bia lon đi ra. Người thiếu phụ nhìn theo, lượm tờ giấy bạc cho vào két, rồi nhấc ống điện thoại lên tiếp tục cuộc nói chuyện cà kê. Lẽ ra chị ta phải gọi cho cảnh sát khi gặp trường hợp như thế này nhưng chị không gọi vì nghĩ chẳng nên làm phiền cảnh sát chỉ vì sáu lon bia lẻ tẻ.
Trở vào xe Adam mở lon bia ngửa cổ uống cạn. Rồi chàng lại cho xe chạy đi. Đi đâu chàng không biết.
Làn mây hồng đầu tiên ửng lên trên những ngọn núi phía đông thành phố. Màu hồng chuyển sang màu cam. Bình minh đến. Mặt trời rồi cũng mọc, mặt trời đang mọc.
Có hai lon bia chưa mở nằm trên phiến đá bên mộ, ba lon bia được uống rồi nằm trên lối đi. Lon bia thứ nhất còn nằm trong xe hay đã được quăng xuống đường. Ánh nắng xuyên qua vòm cây chiếu xuống làm ấm ngực chàng. Chàng không biết chàng đến nghĩa trang này từ lúc nào. Những sự việc vừa xảy ra lúc nửa đêm nay xa xôi như cách cả trăm năm. Chàng đã định vào một khách sạn nào đó nhưng rồi quên và cứ lái xe đi. Đi mãi cho đến lúc chàng bỗng thấy chàng đang luẩn quẩn trong những vùng ngoại ô thành phố và thế là chàng tìm đến nghĩa trang này. Giờ đây chàng nửa nằm, nửa ngồi dựa lưng lên tấm bia trên mộ bà Anna Gates Cayhall, bà nội của chàng. Chàng uống bia và quăng lon bia ra lung tung. Nếu cảnh sát bắt được chàng say rượu, lái xe, và đưa chàng vào phòng giam, chàng chẳng cần. Chàng sẽ kể cho mấy anh tù nghe chuyện khu tử tù khám đường Parchman, mấy anh này sẽ trố mắt, dỏng tai nghe, nhìn với sự kính phục đàn anh “vừa từ khu Tử hình Parchman ra đây.”
Nhưng cảnh sát chẳng mò đến nghĩa trang làm gì. Nghĩa trang thật vắng, yên tĩnh và thật an bình. Khi mặt trời lên cao, Adam nhìn thấy có bốn lá cờ đỏ nhỏ xíu cắm đánh dấu bốn góc trên miếng đất bên mộ bà nội chàng. Dường như đó là cờ đánh dấu để người ta đào một huyệt mới.
Có tiếng xe chạy đến rồi dừng lại trên con đường phi lao xanh rì dưới kia. Tiếng cửa xe mở đóng. Adam không nghe thấy những tiếng ấy. Chàng lại nhắm mắt và chàng lại nhìn thấy ông già trong bộ quần áo mới, đi đôi giầy mới, ngồi trong lòng ghế, đôi mắt mở lớn nhìn chàng.
Có người đi đến. Adam không nghe, không biết. Người đi đến bước nhẹ tới gần chàng. Một nhánh cây khô gãy dưới gót giày làm Adam mở mắt nhìn lên.
Cô Lee đứng bên chàng. Chàng nhìn cô rồi quay mặt đi.
Lee duyên dáng hạ đầu gối xuống rồi ngồi sát bên anh cháu, tay nắm cánh tay anh cháu, ngả đầu vào vai anh cháu.
– Cô đến đây làm gì?
Adam hỏi. Lee không trả lời.
– Nửa tháng rồi cô đi đâu?
– Cô ở bệnh viện.
– Ở đâu cô cũng phải gọi điện về chứ? Tại sao lại không?
– Đừng giận cô mà. Cô đang cần con yêu thương cô…
Lee áp áp má vào cánh tay anh cháu.
Vẫn còn hờn giận Adam nói:
– Con không biết phải nghĩ sao về cô. Việc cô làm không thể nào tha thứ được.
– Ông có muốn gặp cô không? Ông có nói gì đến cô không?
– Ông con muốn gặp cô lắm. Ông bảo con nói với cô là ông yêu thương cô, ông nhớ, ông nghĩ đến cô thật nhiều trong những phút chót. Nhưng cô có nghĩ gì đến ai đâu, cô chỉ biết có cô thôi.
– Tội nghiệp cô mà, Adam. Cô sống dở, chết dở trong bệnh viện. Cô muốn chết, con ơi… Cô yếu đuối lắm. Cô cần được yêu thương, được nâng đỡ…
Thấy Lee nhìn hai lon bia chưa mở, Adam vội quăng hai lon bia đó ra xa.
– Cô không uống nữa đâu!
Lee nói như van xin, như năn nỉ. Giọng nói của bà nghe thật đáng thương. Khuôn mặt đẹp của bà có vẻ mệt mỏi.
– Cô có tới để gặp ông. – Lee nói.
– Hồi nào?
– Tối qua. Nhưng muộn quá, người ta không cho cô vào.
Trái tim Adam dịu lại. Chàng chẳng nên làm cho bà cô thân yêu của chàng phải khổ sở. Bà là người đáng thương, cô đơn, chồng con không ra làm sao cả, bà nghiện rượu, bà yếu đuối nhưng bà vẫn phải đến để bỏ tật xấu và để sống đường hoàng. Và bà là bà cô ruột của chàng, cô Lee yêu dấu. Giọng nói của chàng dịu lại:
– Đến phút cuối cùng ông con còn nói đến cô. Ông dặn con nói với cô là ông yêu thương cô lắm…
Lần trước chàng nói với cô câu này bằng giọng nói giận hờn, trách móc. Lần này chàng nói bằng giọng nói trìu mến pha lẫn kiêu hãnh: trong dòng họ Cayhall vẫn có tình yêu thương, tình huyết thống, vẫn có những người Cayhall yêu thương nhau:
– Ông con không trách gì cô vì cô không đến.
Lee khóc. Bà khóc êm, khóc sạch và bà khóc thật lâu.
– Ông con can đảm và đường hoàng lắm. – Adam nói – Ông con nói trái tim ông đã bình yên ở trong Thiên Chúa. Ông con không còn thù hận gì nữa. Ông con rất hối hận vì những việc ông đã làm. Con phục ông lắm. Ông thật là một dũng sĩ dũng cảm trước cái chết.
– Con có biết đêm qua cô làm gì không?
Lee đột ngột hỏi giữa hai tiếng thút thít.
– Cô làm gì đêm qua?
– Cô về nhà của ông nội. Toà nhà bỏ hoang cô đã đưa con đến ấy.
– Cô về đó làm gì?
– Cô về đốt nó. Cô tưới cho nó thùng xăng, cho nó mồi lửa. Thế là nó bốc cháy phừng phừng. Đám cháy đẹp kinh khủng. Nó cháy tiêu rồi, cháy rụi luôn. Bao nhiêu dây leo, hoa dại sống bám vào nó cũng ra tro hết.
– Cô nói thật ư?
– Thật mà. Con muốn xem lát nữa mình đến xem. Tí xíu nữa thì cô bị người ta bắt quả tang về tội đốt nhà. Nhung có bị bắt cô cũng chẳng sợ. Cô mua tòa nhà đó rồi. Trả cho ngân hàng mười ba ngàn đô. Nếu mình là chủ căn nhà, mình có quyền đốt nó, phải không, ông luật sư?
Adam hỏi lại:
– Cô đốt nhà thật ư?
– Thật mà. Cô tưới xăng, châm lửa, rồi chạy ra xe lái đến đầu dốc gần nhà thờ cô dừng xe lại xem đám cháy. Không có xe chữa lửa đến. Cháy đến hết mới thôi. Đây này… Tay cô vẫn còn mùi xăng.
– Tại sao cô lại đốt nhà chứ?
– Lẽ ra cô phải đốt nó từ lâu rồi.
– Cô không trả lời con tại sao cô lại đốt nhà?
– Đốt nó đi chứ để làm gì? Nhà đó đầy những hồn ma, bóng quỉ. Bao nhiêu tội ác, bao nhiều thảm kịch từ đấy mà ra. Đốt cho nó tiêu đi. Đốt nó là phải quá chứ.
Bà nhắc lại:
– Lẽ ra phải đốt nó từ lâu rồi.
Adam thấy mọi tranh luận với bà về việc bà đốt nhà đều vô ích. Toà nhà đã thành tro than.
Dưới kia một chiếc xe vận tải lịch kịch chạy vào nghĩa trang. Xe dừng lại dưới chân đồi. Hai cô cháu nhìn xuống. Ba anh lao công da đen từ trong xe nhảy ra, đứng vươn vai.
– Người áo đỏ là Herman. – Cô Lee nói.
– Herman là ai? – Anh cháu hỏi.
– Trưởng đội đào huyệt ở nghĩa trang này. Anh ấy đào huyệt ông bà nội của cô, đào huyệt bà nội của con và huyệt của tất cả những người nằm trong nghĩa trang này.
Lee ngừng khóc. Mặt trời vượt lên trên những lùm cây. Nắng bắt đầu làm cho hai cô cháu thấy nóng.
– Cô rất vui vì con đã về cứu ông. – Lee nói – Không hỏi cô cũng biết việc con về làm ông vui lắm.
– Con thất bại, cô ơi. Con về hay không ông vẫn thế.
– Con đã làm hết sức của con. Con đừng ân hận. Đêm đầu tiên khi con về, con có nói với cô là việc cứu ông sẽ rất khó. Con đã đi đến cùng với ông. Thế là đủ rồi. Ở đời không phải cứ đấu tranh là nhất định phải thắng. Xong rồi. Con hãy bình yên trở về Chicago sống cuộc đời của con.
– Con không về Chicago đâu.
Đến lượt cô Lee ngạc nhiên:
– Con đi đâu?
– Con ở lại đây.
– Con ở lại đây làm gì?
– Con vẫn hành nghề luật sư nhưng con không làm công cho những công ty lớn. Con mở văn phòng riêng của con, chuyên lo việc đại diện cho những người tù án tử hình.
Lee mở lớn đôi mắt đen còn ướt nước mắt nhìn anh cháu. Bà mừng vì Adam ở gần bà nhưng cùng một lúc bà lại nghi ngại:
– Con suy nghĩ kỹ đã rồi hãy quyết định. Cô sợ con sống không nổi.
Adam không biết chàng cũng bướng và cứng đầu như ông nội chàng khi chàng nói:
– Không nổi cũng phải nổi.
Herman hạ cái xe đào đất trên xe vận tải xuống. Mấy anh lao công cho xe lên đồi.
– Đi uống cà phê và tìm cái gì ăn chứ. – Lee nói – Cô nhớ gần đây có tiệm cà phê Ralph được lắm.
– Ralph hả cô? – Anh cháu hỏi – Tên ông giáo sĩ của ông con cũng là Ralph. Ông ấy cũng ở với ông con đến phút cuối.
Lee đưa tay cho anh cháu kéo bà đứng lên:
– Ngày xưa bố con và cô hay đến tiệm Ralph uống ca cao nóng, ăn bánh qui. Giờ này chắc họ mở cửa rồi.
Hai cô cháu dắt nhau đi xuống. Có tiếng máy xe nổ. Họ nhìn xuống. Chiếc xe đào huyệt lạch xạch chạy lên. Herman lái xe, hai lao công bạn ngồi trên thành xe.
Chiếc xe đào huyệt chầm chậm leo dốc để đi lên phía hai cô cháu đang đi xuống…