Người Mẹ Tốt Hơn Là Người Thầy Tốt

CHƯƠNG 45: KHÔNG VÀO LỚP TIỀN TIỂU HỌC



Lớp học tiền tiểu học phát triển đến ngày hôm nay, sự tồn tại của nó đã biến thành chứng “tăng sinh xương” trong chương trình giáo dục bình thường. Nhưng cái thừa này hiện tại lại được nhiều người cho là đôi cánh trên lưng thiên thần, cho rằng cái “nhiều” này tốt hơn là “ít”, đây thực sự là một sai lầm!
Một người bà con gọi điện thoại cho tôi, chị đang phải đối mặt với sự lựa chọn có nên cho con học lớp tiền tiểu học hay không.
Con chị chỉ còn thiếu một tháng tuổi nữa là có thể vào lớp một1), nhà trường gợi ý rằng, nếu nộp một khoản tiền thì con chị có thể vào lớp một, nếu không sẽ phải học lớp tiền tiểu học. Mọi người xung quanh chị nói nên học lớp một, có người lại nói nếu phải nộp tiền thì thà đi học lớp tiền tiểu học còn hơn, con trẻ còn được học thêm một năm. Chị không biết quyết định như thế nào. Tôi biết con chị rất thông minh, với trình độ như cháu, học lớp một hoàn toàn không có vấn đề gì. Tôi liền nói với chị, học được lớp một là tốt nhất, nếu không được thì tiếp tục ở lại trường mầm non, đừng đi học lớp tiền tiểu học.
Tôi luôn phản đối cho trẻ đi học lớp tiền tiểu học.
Hầu hết phụ huynh đều không biết được nguồn gốc của lớp tiền tiểu học, thực ra chỉ cần tìm hiểu một chút nguyên nhân ra đời của nó, sẽ phát hiện ra rằng sự tồn tại của nó trong xã hội hiện nay là bất hợp lý.
Lớp tiền tiểu học là một sản phẩm của thời bao cấp ở Trung Quốc.
Nó xuất hiện sớm nhất vào thập niên 1980. Lúc đó tỉ lệ trẻ em trong độ tuổi đi mẫu giáo ở thành phố đang bùng nổ, nhưng lúc đó trường mầm non tư thục rất ít, nhu cầu đi học mầm non của trẻ không được giải quyết, vì thế đã áp dụng biện pháp để trường tiểu học mở ra một số lớp tiền tiểu học để giải quyết vấn đề giáo dục tiền tiểu học cho một số học sinh – có thể thấy sự xuất hiện của lớp tiền tiểu học chủ yếu là xuất phát từ nhu cầu giải quyết vấn đề học hành cho học sinh ở độ tuổi mầm non, không phải là sự kế tiếp mang ý nghĩa giáo dục.
Những năm qua kinh tế Trung Quốc đã phát triển khá mạnh, tỉ lệ sinh thấp, hàng loạt trường mầm non tư thục xuất hiện. Vấn đề học sinh đi học trường mầm non không còn gì khó khăn, nhưng lớp tiền tiểu học đã tồn tại hơn hai mươi năm, và từ thành phố lan rộng ra nông thôn, ngày càng danh chính ngôn thuận, dường như là một sự thiết kế hợp lý căn cứ vào nhu cầu học tập của trẻ em. Cá biệt còn có một số địa phương thậm chí là do cơ quan chủ quản giáo dục quy định, tất cả học sinh trước khi vào trường tiểu học đều phải học lớp tiền tiểu học.
Tại sao lại xuất hiện hiện tượng đáng lẽ phải biến mất nhưng lại không biến mất này? Điều này cho thấy nó có nền tảng để tồn tại. Nền tảng này chính là: Nhà trường muốn mở lớp tiền tiểu học, phụ huynh muốn cho con vào học các lớp kiểu này.
Nhà trường mở lớp là do có mục đích rất rõ ràng. Lớp tiền tiểu học không nằm trong chương trình giáo dục bắt buộc của quốc gia, có thể tự chủ trong việc thu tiền học phí, sinh hoạt phí. Năm 1985, mức giá quy định của thành phố Bắc Kinh là mỗi em ba mươi tệ một tháng, thời kỳ đó mức giá này không hề rẻ. Mấy năm nay giá cả leo thang, đã lên tới vài trăm tệ thậm chí hàng nghìn tệ, cộng với các loại tiền khác, nguồn thu rất khả quan. Cũng có nghĩa là nó là một nguồn thu nhập của trường, là một “miếng thịt béo”. Mặc dù vài năm gần đây một số chính quyền địa phương đã ý thức được sự không cần thiết của lớp tiền tiểu học, ra công văn yêu cầu không được mở mô hình lớp học này, nhưng vì không mạnh tay, các trường tiểu học vẫn được lén lút mở.
Đứng trên góc độ của phụ huynh, phụ huynh muốn cho con vào học lớp tiền tiểu học, phần lớn là do a dua theo phong trào. Một là lầm tưởng rằng lớp tiền tiểu học là bước đệm nối liền trường mầm non và trường tiểu học, như muốn vào lớp ba thì phải học lớp hai vậy; hai là xuất phát từ sự lo lắng về thành tích học tập sau này của con, cho rằng học lớp tiền tiểu học là được “đặt nền móng trước”, là đi trước một bước trong việc học. Điều này giống như việc mà người bà con này của tôi băn khoăn, chị nói, mọi người xung quanh đều cho con học lớp tiền tiểu học, đến khi vào lớp một, đã học hết phiên âm và phép cộng, trừ trong phạm vi một trăm rồi. Nếu con chị không vào lớp tiền tiểu học, nền tảng sẽ không vững bằng các bạn, như thế không phải là tụt hậu một bước so với người ta hay sao.
Suy nghĩ “đặt nền móng” này của người bà con của tôi là khá tiêu biểu, nhưng đây là một sự ngộ nhận của bố mẹ. Một là không hiểu rõ con trẻ cần phải đặt “nền móng” gì, hai là không nắm được tình hình chung về lớp tiền tiểu học.
Tôi nói với chị rằng, nếu bố mẹ bỏ tiền, nhà trường thu tiền, và kết quả là con trẻ tạo được nền móng tốt sau khi học lớp tiền tiểu học, vượt được bạn bè thì cũng rất đáng để làm. Nhưng qua thực tế của mấy năm gần đây thì thấy rằng, kết quả hoàn toàn ngược lại, đúng là giáo dục tiền tiểu học đã tạo được một “nền móng” cho trẻ, nhưng thường là nền móng xấu.
Qua điện thoại tôi có thể cảm nhận được sự kinh ngạc của người bà con, có thể đây là lần đầu tiên chị nghe thấy cách nói “nền móng xấu”. Chị không thể ngờ rằng, cho con theo học lớp tiền tiểu học lại đem lại kết quả xấu. Thực tế những điều mà chị không nghĩ tới cũng là điều mà hầu hết các bậc phụ huynh đều không nghĩ tới, vì thông thường họ không nắm được tình hình sau:
Hiện nay Bộ giáo dục Trung Quốc chỉ đưa ra ý kiến mang tính chỉ đạo đối với lớp tiền tiểu học, không thống nhất khung chương trình và giáo trình giảng dạy đối với các lớp này. Chính vì thế, lớp tiền tiểu học dạy thế nào, hoàn toàn là do trường tiểu học tự quyết định, hoặc là dựa vào cảm nhận của giáo viên. Mặc dù lớp tiền tiểu học đem lại lợi ích kinh tế cho trường tiểu học, nhưng do tính chất không phải là giáo dục bắt buộc của nó, thành tích dạy học của lớp tiền tiểu học không cần phải tính vào thành tích dạy học chung của cả trường, thông thường nhà trường không coi trọng mảng giáo dục này.
Trong quá trình quảng cáo tuyển sinh, gần như tất cả các lớp tiền tiểu học đều nói, nhà trường sẽ bố trí một đội ngũ giáo viên giỏi, giàu kinh nghiệm cho lớp tiền tiểu học. Nhưng trên thực tế, lớp tiền tiểu học “ăn nhờ ở đậu” trong trường tiểu học thường bị gạt ra rìa. Ngoài việc thiết bị dạy học khá đơn giản, điều quan trọng hơn là, nhà trường sẽ không bố trí giáo viên giỏi cho các lớp này. Theo những gì mà tôi đã từng chứng kiến, từng được nghe nói, những giáo viên mà nhà trường cử ra để dạy lớp tiền tiểu học thường là những người dạy không tốt, hoặc quan hệ với lãnh đạo không ra gì. Hiệu trưởng không thể cho họ nghỉ việc, thế là liền giao cho họ dạy lớp tiền tiểu học.
Cũng có trường thiếu giáo viên, liền thuê một số giáo viên đã nghỉ hưu ở ngoài. Thông thường người ta cho rằng, giáo viên nghỉ hưu “giàu kinh nghiệm”. Nhưng trên thực tế, họ không có nghiên cứu gì nhiều về phương pháp giáo dục dành cho trẻ em trước độ tuổi đi học. Cái gọi là “kinh nghiệm” chỉ là một số phương pháp dạy học sinh tiểu học năm xưa. Hơn nữa mấy chục năm qua, do yêu cầu của Bộ giáo dục đối với giáo viên tiểu học không cao, rất nhiều giáo viên có tố chất văn hóa hoặc tố chất giáo dục khá thấp. Tuổi nghề của họ có thể là bốn mươi năm, nhưng không có nghĩa là có “bốn mươi năm kinh nghiệm dạy học”. Những kinh nghiệm đó vốn không thích hợp lắm với học sinh tiểu học, càng không thích hợp với các em trước độ tuổi đi học.
Chính vì thế “lớp tiền tiểu học” hiện nay không phải là “giáo dục tiền tiểu học” theo ý nghĩa của giáo dục học, về cơ bản nó chính là bản thu nhỏ của lớp một. Mặc dù số giờ học của lớp tiền tiểu học ít hơn lớp một một chút, thời gian trẻ chơi đùa chiếm nhiều hơn, thời gian đi học và tan học cũng tự do hơn các em lớp một, nhưng mô hình giáo dục tổng thể và khuynh hướng lựa chọn giá trị lại giống như lớp một.
Xét về hình thức lên lớp, mỗi em học sinh đều có một bàn học cố định của mình, có bài tập; xét về nội dung, chủ yếu là học phiên âm, viết chữ, từ tiếng Anh, phép cộng trừ trong phạm vi một trăm… Giáo viên luôn yêu cầu học sinh phải ngoan ngoãn ngồi đúng vị trí, nghiêm túc nghe giảng, hàng ngày yêu cầu học sinh phải viết chữ mới và phiên âm vào vở, đồng thời chấm điểm cho học sinh, thậm chí còn bố trí bài tập về nhà. Mục tiêu của giáo viên là rèn cho trẻ biết nghe lời, nhận được một số mặt chữ, viết bài tập thẳng hàng. Điều này khiến giáo viên cảm thấy mình đã đạt được một số thành tích, những “thành tích” này thường cũng được lãnh đạo nhà trường và phụ huynh công nhận. Đặc biệt là phụ huynh, cảm thấy trước khi vào lớp một con mình đã nhận được mặt chữ và biết làm bài tập, cho rằng con mình không “thua trên vạch xuất phát”.
Nhưng tất cả những điều này là “thắng” hay sao?
Cách học máy móc, không hề có tính sáng tạo và phát hiện niềm hứng thú của lớp học tiền tiểu học, kể cả áp dụng vào các lớp cao của khối tiểu học, cũng rất cứng nhắc, huống chi là áp dụng vào các em chưa đi học. Lớp học tiền tiểu học có lên lớp, có kỷ luật, có bài tập, nhưng lại không có hoạt động trí tuệ. Hoạt động dạy học của lớp tiền tiểu học chủ yếu bắt học sinh phải lao động trí óc một cách biến dạng, tiêu cực. Nhà giáo dục người Liên Xô Vasyl Olexandrovych Sukhomlynsky nói: “Phàm là những nơi không để trẻ em hàng ngày phát hiện ra mối liên hệ nhân quả giữa các hiện tượng trong thế giới xung quanh, tính hiếu kỳ và lòng ham hiểu biết của trẻ sẽ bị dập tắt”(1) – mất đi tính hiếu kỳ và lòng ham hiểu biết là điều cực kỳ nguy hiểm đối với việc học tập của trẻ.
__________________
(1) Theo quy định, tuổi đi học lớp một của học sinh Trung Quốc là tròn sáu tuổi (tính đến ngày 1-9 của năm em đó đi học). Cũng có nghĩa là, những em sinh trước 1- 9 mới được vào lớp một của năm đó, những em sinh sau 1-9 phải lùi lại một năm (ND).
Cũng có nghĩa là, xét về tình hình chung của “lớp tiền tiểu học” của Trung Quốc hiện nay, không những không căn cứ vào tình hình phát triển tâm sinh lý của trẻ để chúng tiến thêm một bước về trí tuệ, thói quen, tính sáng tạo, mà còn gây trở ngại cho các vấn đề này. Chính vì vậy, lớp tiền tiểu học phát triển đến ngày hôm nay, sự tồn tại của nó đã biến thành chứng “tăng sinh xương” trong chương trình giáo dục bình thường. Nhưng cái thừa này hiện tại lại được nhiều người cho là đôi cánh trên lưng thiên thần, cho rằng cái “nhiều” này tốt hơn là “ít”, đây thực sự là một sai lầm!
Mong con trẻ thắng trên vạch xuất phát, thực tế là trói chặt đôi chân của trẻ đến mức tê liệt trên vạch xuất phát.
Tôi nói sơ qua với người bà con những điều trên, chị có phần hiểu, nhưng vẫn hơi lo lắng. Chị nói: Chị cũng đã từng đọc một số sách, nói giáo dục trẻ em giai đoạn sớm rất quan trọng, nói là nếu không làm tốt giáo dục vỡ lòng, sau này con trẻ học hành sẽ rất chật vật.
Tôi hiểu ý chị, bèn nói, chị nói đúng, giáo dục trẻ em giai đoạn sớm rất quan trọng, một người được giáo dục vỡ lòng ngay từ sớm hay không, trình độ trí tuệ của anh ta sẽ có sự khác biệt rất lớn. Giáo dục vỡ lòng bắt đầu càng sớm càng tốt, thậm chí có người từng nói rằng, nếu bạn bắt đầu giáo dục trẻ từ ngày thứ ba sau khi trẻ chào đời thì bạn cũng đã chậm hai ngày rồi. Vasyl Olexandrovych Sukhomlynsky nói, “Huấn luyện trí tuệ bắt đầu từ thời điểm càng xa với thời gian chào đời của trẻ, thì đứa trẻ này càng khó giáo dục”(1). “Huấn luyện trí tuệ” mà ông nói tới ở đây đồng nghĩa với “giáo dục vỡ lòng”.
________________
(1) Vasyl Olexandrovych Sukhomlynsky, Lời kiến nghị với các nhà giáo, Đỗ Điện Khôn dịch, NXB Khoa học giáo dục, tái bản lần thứ nhất tháng 6-1984, tr.323.
Hiện giờ điều mà chúng ta cần phải thảo luận là, học ở lớp tiền tiểu học là “giáo dục vỡ lòng” ư?
Về mặt hình thức, giáo dục vỡ lòng tốt phải mang tính trò chơi, không có gì trói buộc, phong phú, liên quan với cuộc sống. Trong nội hàm cần có hàng loạt chức năng khai sáng trí tuệ như huấn luyện kỹ năng, phát triển ngôn ngữ, gợi mở trí tưởng tượng… Nhưng công tác dạy học ở lớp tiền tiểu học hiện nay nóng vội trong việc muốn trẻ nắm được các kiến thức trong sách vở và kiến thức thi cử. Bàn học đã hạn chế sự tự do của trẻ, nội dung học mang tính khép kín đã trói buộc trí tưởng tượng của trẻ, phương thức dạy học đã đi ngược lại với bản tính của trẻ, những bài tập vô vị đã làm trẻ mất đi lòng nhiệt tình đối với việc học – đó là một cách học mang tính vụ lợi, mang tính nô dịch, nó khiến trẻ cách xa huấn luyện trí tuệ, đi về mặt trái của “giáo dục trí tuệ”, là hành vi phản giáo dục trí tuệ, cùng lắm nó chỉ được gọi là “học trước”, chứ không thể gọi là “giáo dục vỡ lòng”.
Người họ hàng của tôi im lặng ở đầu bên kia điện thoại, có lẽ chị đang suy nghĩ điều gì. Một lát sau, chị nói, lần đầu tiên chị được nghe thấy cách phân tích như thế này, chị cần phải được tiêu hóa từ từ. Chỉ có điều vẫn còn một vấn đề – chị ngập ngừng một lát, sau đó nói: Không chỉ là nghe người khác nói, bản thân chị cũng được tận mắt nhìn thấy một số em đã từng học lớp tiền tiểu học, sau khi vào học, các em vẫn giỏi hơn những em không đi học.
Đúng là có chuyện như vậy, đây chính là điều mà tôi chuẩn bị nói với chị.
Tôi nói, em hiểu cái “giỏi” mà chị nói ở đây là nhận biết mặt chữ, tính toán và thi, nhưng sự phán đoán này rất phiến diện. Hiện nay vấn đề lớn nhất tồn tại trong giáo dục tiểu học là mô hình dạy học và khuynh hướng lựa chọn giá trị. Từ nhà trường đến giáo viên và cuối cùng là phụ huynh, mọi người đều không hiểu rõ phương pháp và mục đích, lý giải một cách bề mặt các vấn đề giáo dục, hình thành nên một số cách phán đoán giá trị dị dạng và nông cạn trong giáo dục trẻ em. Và công tác dạy học ở lớp tiền tiểu học đã hùa theo khuynh hướng lựa chọn giá trị sai lầm này, để trẻ sớm tỏ ra “thành thạo” trong việc làm bài tập, thi cử hoặc giữ kỷ luật. Nhưng đó là “giỏi” ư?
Tạm thời không nói trong sự “thành thạo” này bao hàm bao nhiêu hành vi phản giáo dục, để lại bao nhiêu hậu họa, chỉ riêng những cái gọi là “thế mạnh trong học hành” mà trẻ biểu hiện ra cũng ngắn ngủi, trạng trái không duy trì được bao lâu. Chiến lược bồi dưỡng cả đời một con người cũng như chiến lược chạy dài, người lúc đầu chạy trước không có nghĩa sẽ mãi mãi dẫn đầu. Nếu không tin có thể vào các lớp ba, lớp bốn để điều tra, sự khác biệt về thành tích học tập của các em có mối quan hệ nhân quả với vấn đề có tham gia lớp học tiền tiểu học hay không.
Những lời phân tích của tôi có thể đã làm chị động lòng, chị nói, ừ, hình như đúng là như vậy, tại sao lại như thế nhỉ?
Tôi nói, trong giáo dục đã có phát hiện như thế này từ lâu, nếu trong quá trình học, trẻ em không thông qua sự nỗ lực của mình để giải quyết một số vấn đề, không cảm nhận được niềm vui của việc khắc phục khó khăn, mà chỉ nhai đi nhai lại những cái đã biết, sẽ khiến chúng trở nên lãnh đạm và có thái độ khinh miệt đối với tri thức. Những em đã từng học “lớp tiền tiểu học” sẽ nắm trước được một số kiến thức so với các em khác; vậy thì các em sẽ không có cảm giác mới mẻ, hứng thú phát hiện cái mới, khắc phục khó khăn. Các em rất dễ trở nên nông nổi, không chăm chỉ trong học tập. Người lớn tưởng rằng học lại một lần những cái đã học, cái gốc của con trẻ sẽ chắc hơn, thực tế lại thường không như vậy.
Hơn nữa, do trình độ của đội ngũ giáo viên ở các lớp tiền tiểu học khá kém, hầu hết giáo viên có tố chất không cao, phương pháp dạy học không phù hợp, dễ gây ảnh hưởng tiêu cực cho con trẻ, khiến trẻ chán học, dễ khiến trẻ mất hứng thú đối với chuyện học, thậm chí nảy sinh tâm lý sợ hãi. “Hứng thú chính là thiên tài”, trong học tập có sự “thông minh” hoặc “chạy trước” nào địch được với hai chữ “hứng thú” này? Chính vì vậy, “thái độ học tập” và “hứng thú học tập” mới là những thứ quý giá nhất, mới là “nền móng” quan trọng nhất, tiềm năng và trí tuệ mà trẻ thể hiện trong tương lai cũng bắt nguồn từ hai phương diện này; và cách giáo dục muốn mau chóng thành công lại biến trẻ thành một quả pháo hoa, chỉ có thể rực rỡ trong thời gian rất ngắn.
Xem ra những gì tôi nói đã ảnh hưởng thực sự đến người bà con, chị nói, lúc đầu suy nghĩ của chị cũng rất đơn giản, không có ý định để cho con học được bao nhiêu kiến thức trong lớp tiền tiểu học, chỉ có điều học ở trường mầm non là chơi, ở lớp tiền tiểu học cũng là chơi, lớp tiền tiểu học ít nhiều gì thì cũng còn học được một số thứ, học được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Hiện giờ xem ra, kể cả là nghĩ như vậy, cũng không cần thiết phải cho con theo học ở lớp tiền tiểu học nữa ư?
Suy nghĩ ban đầu này của chị quả thực rất phổ biến. Có lẽ rất nhiều phụ huynh cũng nghĩ như vậy. Cho rằng lớp tiền tiểu học “ít nhiều cũng học được một số thứ”. Suy nghĩ này bao hàm một sự ngộ nhận rất điển hình trong giáo dục hiện nay, đó chính là coi nhẹ quyền chơi đùa của trẻ. Coi chơi đùa là cái vô giá trị, cho rằng chơi đùa có thể ít có thể nhiều, có thể có có thể không, cho rằng “học kiến thức” là có giá trị, học bao giờ cũng tốt hơn là không học. Những bậc phụ huynh có quan điểm này không biết rằng, đối với những đứa trẻ đang còn non nớt, sự trưởng thành về trí tuệ không phải được tiến hành trước bàn học, mà nằm trong quá trình chơi.
Trong cuốn sách Emile của mình, Jean-Jacques Rousseau đã đề ra một nguyên tắc giáo dục “táo bạo nhất, quan trọng nhất và hữu dụng nhất”, tức trong việc học tập của trẻ giai đoạn đầu, “Không những không nên tranh thủ thời gian, mà còn buộc phải để thời gian trôi qua một cách thoải mái”(1). Điều mà ông nhấn mạnh là, cần phải để con trẻ được chơi trò chơi một cách thoải mái, phản đối việc dùng thời gian học để lấp kín thời gian chơi trò chơi của trẻ. Đối với việc dạy học ở lớp tiền tiểu học hiện nay, cho dù bạn có đặt ra yêu cầu học tập đối với trẻ hay không, chỉ cần đưa trẻ vào lớp tiền tiểu học, môi trường này sẽ tước đoạt quyền chơi đùa của trẻ.
__________________
(1) Vasyl Olexandrovych Sukhomlynsky, Lời kiến nghị với các nhà giáo, Đỗ Điện Khôn dịch, NXB Khoa học giáo dục, tái bản lần thứ nhất tháng 6-1984, tr.323.
Trẻ em tuổi càng nhỏ, tính cấp bách của giáo dục vỡ lòng càng lớn, càng cần phải có một môi trường phát triển trí tuệ tốt. Thời gian vàng phát triển trí tuệ của trẻ bị cướp đi một năm, sau này không biết sẽ có bao nhiêu tổn thất. Tâm lý học cho rằng thời kỳ tốt nhất để phát triển trí tuệ của trẻ em là trước sáu tuổi, xét về ý nghĩa này “thời gian thực sự là vàng là bạc”, làm sao chúng ta có thể biến quãng thời gian quý như vàng này thành một thanh sắt rỉ. Cho dù chỉ là chơi đùa thuần túy không phải học gì hết, cũng tốt hơn là việc “học trước” đi ngược lại với bản tính của trẻ.
Trên thực tế, vấn đề tồn tại ở các lớp tiền tiểu học hiện nay đã bắt đầu được mọi người chú ý, vài năm gần đây các địa phương thi nhau xóa bỏ lớp tiền tiểu học. Thành phố Bắc Kinh đã ra công văn, quyết định sẽ từng bước xóa bỏ lớp tiền tiểu học trước năm 2010. Quyết định này rất tốt, nhưng không hiểu sao phải tiến hành chậm như vậy, có lẽ là do có quá nhiều vấn đề lợi ích dính dáng vào chăng.
Đầu năm 2008, một tờ báo ở Bắc Kinh đã phối hợp với một kênh giáo dục Internet nổi tiếng tiến hành một cuộc điều tra, kết qua cho thấy, trong vấn đề có nên học lớp tiền tiểu học hay không, chỉ có mười tám phần trăm phụ huynh cho rằng “không cần thiết phải học”, và trên năm mươi phần trăm phụ huynh cho rằng nên cho con theo học lớp tiền tiểu học – con số này quả là rất lớn, có thể tưởng tượng, đằng sau nó, là một thị trường béo bở biết bao.
Hiện tại không chỉ mỗi trường tiểu học mới mở lớp tiền tiểu học, một số nơi khác như cung thiếu nhi, cơ sở dạy thêm tư thục cũng tổ chức. Tiểu học hóa trường mầm non, đây thậm chí đã trở thành “nét đặc sắc” của rất nhiều trường mầm non, những trường mầm non này, khi nói đến thế mạnh của trường mình, sẽ lấy các nội dung như “dạy học song ngữ”, dạy nhận biết mặt chữ, toán học… làm trọng điểm để tuyên truyền.
Mệnh lệnh hành chính có thể khiến lớp tiền tiểu học hiện nay biến mất, nhưng có thị trường như thế này, chắc chắn nó sẽ xuất hiện những biến chủng mới, diện mạo mới. Trong lúc chính quyền thành phố Bắc Kinh quyết định từng bước xóa bỏ lớp tiền tiểu học, trường dạy thêm nổi tiếng của thành phố “Trường học Vĩ Nhân” lại bắt đầu quảng cáo tuyển sinh “lớp tiền tiểu học bán trú”, qua danh mục các môn học mà họ cung cấp có thể thấy, cũng là lấy việc học văn hóa làm nội dung chính. Kế hoạch PR của trường học này thực hiện rất tốt, họ luôn nắm bắt được trái tim của phụ huynh.
Giáo dục vỡ lòng có thể khiến con trẻ trở thành thiên tài, trong khi việc “học trước” không thích hợp chỉ có thể biến trẻ thành kẻ bất tài. Mục đích của việc phản đối “lớp tiền tiểu học”, là muốn trả lại cho trẻ chương trình giáo dục tốt trước khi đi học.
Sau cuộc nói chuyện dài qua điện thoại với người họ hàng, cuối cùng đã khiến chị tin rằng không nên cho con theo học lớp tiền tiểu học, tôi cảm nhận được sự hài lòng của chị, tâm trạng rất vui, điều này cũng khiến tôi rất vui.
Vừa cúp máy, tôi lại nhận được một cú điện thoại của một người bà con khác.
Người bà con này gọi điện đến để trách tôi.
Hồi đầu tôi cũng tư vấn cho chị vấn đề không nên cho con theo học lớp tiền tiểu học, tôi nói với chị rằng không nên học, đồng thời khuyên chị nên mua nhiều sách, bồi dưỡng cho con niềm say mê đọc sách. Hiện giờ con chị đã lên lớp ba. Nghe chị nói cậu bé này chữ viết không đẹp, làm bài tập cẩu thả; suốt ngày chỉ thích đọc sách. Giọng chị tỏ ý phàn nàn vì không cho con theo học lớp tiền tiểu học, không học viết chữ trước; nói con hàng xóm nhà chị học lớp tiền tiểu học, tạo được nền móng tốt, chữ viết đẹp hơn chữ con chữ, học giỏi hơn con chị.
Tôi hỏi kỹ lưỡng tình hình của con chị và hỏi cả vấn đề chị gần gũi, chuyện trò với con như thế nào, trong lòng về cơ bản đã hiểu ra vấn đề.
Phụ huynh hễ sốt ruột là liền quy kết không đúng, giống như một người không may giẫm chân xuống một rãnh nước, nhưng lại trách tất đi không đúng màu. Tôi rất hiểu sự sốt ruột của chị, cũng muốn giúp chị thật lòng, chính vì thế buộc phải phê bình chị.
Tôi nói, hiện giờ con trẻ không thích học, làm bài tập không cẩn thận, đây không phải là vì không theo học lớp tiền tiểu học, mà vì kể từ khi cháu vào lớp một, chị đã quá coi trọng chuyện làm bài tập, thi cử. Chị quá căng thẳng trong những vấn đề này, luôn nghiêm khắc phê bình con, khiến con cảm thấy gánh nặng về tinh thần quá lớn, nảy sinh tâm lý phản kháng. Điểm này chị cần phải thay đổi.
Người họ hàng này vẫn nói với giọng đầy trách móc rằng, tôi cảm thấy nó không được đặt nền móng tốt, không hào hứng với việc học, từ sáng đến tối chỉ thích đọc sách linh tinh, kiếm được một tờ báo cũng đọc cả nửa ngày. Trước đây chị nói với tôi rằng, những đứa trẻ thích đọc sách sẽ làm văn hay; nhưng nó không thích làm văn, cũng không thích viết nhật ký, nói chung là không thích viết chữ.
Tôi nói, con trẻ có niềm say mê đọc sách và cái gốc như vậy, đáng lẽ phải thích làm văn, biết cách làm văn, hiện giờ chỉ là quá sợ vì những lời chỉ trích thường xuyên của chị. Hơn nữa chị không hiểu được giá trị của việc đọc sách, khi nói đến chuyện con thích đọc sách, giọng chị tỏ ra chán chường và bất lực. Trên thực tế, con trẻ thích đọc sách, sẽ tốt hơn rất nhiều so với việc học ba lớp tiền tiểu học, đáng lẽ chị phải thấy may mắn vì điều đó mới phải.
Người bà con nói, thành tích học tập của nó không bằng những đứa đã từng theo học lớp tiền tiểu học, đây là thực tế rất rõ ràng.
Tôi hỏi, chị đã bao giờ điều tra chưa, trong lớp cháu có bao nhiêu em đã từng học lớp tiền tiểu học, có bao nhiêu em không học; có phải là tất cả những em đã từng học đều có thành tích tốt hơn những em không học không? Những em đi học lớp tiền tiểu học mà thành tích tụt hậu là vì sao? Những em không đi học mà học vẫn giỏi là vì sao?
Chị không trả lời được.
Tôi nói, thành tích cao hay thấp là một vấn đề khá phức tạp, không thể do một nhân tố đơn lẻ nào đó gây ra. Hiện nay con chị đã học lớp ba, tôi có thể khẳng định, nếu con chị trước đó có đi học lớp tiền tiểu học, trong khi các nhân tố giáo dục khác xung quanh trẻ không thay đổi, thì tình hình của cháu cũng sẽ vẫn như hiện nay thôi. Cũng còn may là cháu thích đọc sách, có được nền móng như vậy, chỉ cần bố mẹ và giáo viên không làm cháu mất tự tin, không ngăn cản việc đọc sách của cháu, thế mạnh của cháu dần dần sẽ bộc lộ ra.
Tôi lại phân tích thêm rằng, vấn đề hiện nay của con trẻ rõ ràng là thiếu hứng thú học tập và thiếu sự tự tin. Chính vì thế, muốn thay đổi tình hình này chỉ có thể bắt tay từ việc tạo cho trẻ niềm hứng thú và sự tự tin, phương pháp quan trọng nhất là, bố mẹ không nên suốt ngày chỉ phê bình, càu nhàu và can thiệp vào việc học của con trẻ, cần khích lệ và khen ngợi trẻ.
Thấy tôi nói như vậy, người bà con này cuối cùng đã nói từ nay sẽ phải chú ý phương pháp giáo dục con, không nên thô bạo như vậy nữa. Nhưng tôi cũng cảm nhận được rằng chị không tự tin vào mình và con. Nghĩ đến việc muốn cải thiện phương pháp giáo dục, bố mẹ phải bắt đầu từ những việc cụ thể và các chi tiết nhỏ, tôi dặn đi dặn lại người bà con này rằng, gặp vấn đề cụ thể nếu không biết phải làm thế nào, chị cứ gọi điện thoại cho em để bàn bạc. Tôi nghĩ đây là biện pháp trực tiếp nhất mà mình có thể giúp chị.
Tôi rất muốn đưa ra những lời kiến nghị cho các bậc phụ huynh khác, tuy nhiên, có rất nhiều cái, buộc phải để bố mẹ tự mình suy nghĩ, lý giải. Ví dụ chuyện có nên theo học lớp tiền tiểu học hay không.
Lưu ý đặc biệt
Bàn học đã hạn chế sự tự do của trẻ, nội dung học mang tính khép kín đã trói buộc trí tưởng tượng của trẻ, phương thức dạy học đã đi ngược lại với bản tính của trẻ, những bài tập vô vị đã làm trẻ mất đi lòng nhiệt tình đối với việc học – đó là một cách học mang tính vụ lợi, mang tính nô dịch, nó khiến trẻ cách xa huấn luyện trí tuệ, đi về mặt trái của “giáo dục trí tuệ”, là hành vi phản giáo dục trí tuệ, cùng lắm nó chỉ được gọi là “học trước”, chứ không thể gọi là “giáo dục vỡ lòng”.
Cho rằng lớp tiền tiểu học “ít nhiều cũng học được một số thứ”. Suy nghĩ này bao hàm một sự ngộ nhận rất điển hình trong giáo dục hiện nay, đó chính là coi nhẹ quyền chơi đùa của trẻ. Coi chơi đùa là cái vô giá trị, cho rằng chơi đùa có thể ít có thể nhiều, có thể có có thể không, cho rằng “học kiến thức” là có giá trị, học bao giờ cũng tốt hơn là không học. Những bậc phụ huynh có quan điểm này không biết rằng, đối với những đứa trẻ đang còn non nớt, sự trưởng thành về trí tuệ không phải được tiến hành trước bàn học, mà nằm trong quá trình chơi.
Giáo dục vỡ lòng có thể khiến con trẻ trở thành thiên tài, trong khi việc “học trước” không thích hợp chỉ có thể biến trẻ thành kẻ bất tài. Mục đích của việc phản đối “lớp tiền tiểu học” là muốn trả lại cho trẻ chương trình giáo dục tốt trước khi đi học.
Bài tập bạo lực chính là “tai nạn giáo dục”
Bài tập bạo lực có ảnh hưởng tiêu cực đến lòng tự tin, ý chí, phẩm chất đạo đức của trẻ em. Tác dụng xấu của nó không đơn giản như mặc thừa một chiếc áo thì hơi nóng, ăn thêm một cái bánh thì quá no. Nó có thể làm thay đổi trạng thái của sự việc, khiến con trẻ mắc một căn bệnh mãn tính gọi là “chán học”, làm chúng mất đi chí tiến thủ, nuốt chửng tính sáng tạo, xóa đi cảm giác hạnh phúc của chúng, trong đó “tính bạo lực” thậm chí còn có thể phá hoại đạo đức của trẻ.
Người ta luôn cho rằng, bài tập mà giáo viên bố trí đều là đúng đắn, đều cần thiết cho việc học, học sinh đều phải hoàn thành nghiêm túc. Thực tế là, hiện nay con trẻ phải làm quá nhiều bài tập không hiệu quả. Đâu chỉ mỗi không hiệu quả, mà còn phản tác dụng. Những bài tập này thật sự vô vị, nó làm trẻ mất hứng thú trong việc học, gây trở ngại cho sự phát triển trí tuệ của trẻ, trở thành những thứ phản giáo dục. Tôi gọi loại bài tập này là “bài tập bạo lực”.
Bài tập bạo lực chủ yếu gồm ba loại sau.
Loại thứ nhất là số lượng lớn.
Xin hãy nhìn một lần bài tập ngữ văn rất bình thường của một em học sinh lớp một. Năm chữ mới cộng với phiên âm, mỗi chữ viết hai mươi lần, vở A, B mỗi cuốn viết một lần, tổng cộng phải viết hai trăm phiên âm, hai trăm chữ Hán. Ngoài ra còn đặt ba câu. Nếu ngày đầu tiên trong vở viết chữ mới có chữ viết sai, lại phải viết ba dòng chữ viết sai đó nữa, tức là viết sai một chữ sẽ phải viết thêm ba mươi phiên âm, ba mươi chữ Hán, ngày đầu tiên sai hai chữ, thì phải viết sáu mươi phiên âm, sáu mươi chữ Hán – đây chỉ là bài tập môn ngữ văn. Bài tập môn toán, tiếng Anh cũng không ít, về số lượng không hề kém chút nào. Thử nghĩ xem một buổi tối trẻ phải viết bao nhiêu thời gian trong khi trẻ mới học lớp một.
Loại thứ hai là mang tính trừng phạt.
Tôi đã từng nhìn thấy bài kiểm tra môn ngữ văn của một em học sinh lớp tám, trên đó có một số chỗ sai, bài tập của ngày hôm đó là sửa lại cho đúng tất cả những chỗ sai trong bài kiểm tra, mỗi đáp án đúng phải viết hai mươi lần. Ví dụ một chữ viết không đúng, phải viết lại hai mươi lần chữ này, thế vẫn còn là tốt, nếu giải thích sai một thành ngữ, thì phải viết lại thành ngữ này hai mươi lần. Ví dụ trong một đoạn văn mà giáo viên đọc cho học sinh chép có hai câu trở lên không viết đúng, hoặc viết sai năm chữ trở lên, thì bị coi là sai toàn bộ, phải chép lại đoạn văn này hai mươi lần.
Lượng bài tập của những học sinh có điểm cao và học sinh có điểm thấp cách biệt nhau rất lớn. Rõ ràng, dụng ý của giáo viên là để học sinh biết, làm bài không tốt, sẽ không được yên thân.
Thứ ba là sự đánh giá ác ý.
Khi Viên Viên học cấp hai, một cô giáo tiếng Anh của cô bé, mỗi lần kiểm tra từ mới, chỉ cần học sinh viết sai một từ, liền cho “0” điểm. Viên Viên cũng không ít lần bị điểm 0. Có thể cô giáo muốn thông qua cách này để học sinh biết rằng, nếu không muốn ăn điểm 0 thì chỉ có thể giành 100 điểm. Đây lẽ nào không phải là một lối tư duy rất nực cười hay sao? Nhà giáo dục người Liên Xô Vasyl Olexandrovych Sukhomlynsky nói: “Chỉ khi mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh được xây dựng trên nền tảng tin tưởng lẫn nhau và có ý tốt, việc cho điểm mới có thể trở thành yếu tố kích thích, thúc đẩy học sinh tích cực lao động trí óc”(1). Kiểu đánh giá ác ý này chỉ khiến cho học sinh càng không nghiêm túc trong bài kiểm tra. Học sinh phát hiện ra rằng, bài kiểm tra kiểu này, viết sai một từ mới và chỉ viết đúng một từ mới có số điểm như nhau, mọi người cũng không còn quan tâm đến việc đúng mấy từ hoặc sai mấy từ nữa.
_________________
(1) Jean-Jacques Rousseau, Emile, Lý Bình Âu dịch, NXB Giáo dục nhân dân, tái bản lần thứ nhất tháng 5-2001, tr.93 (Bản dịch tiếng Việt Jean-Jacques Rousseau, Emile hay là về giáo dục Lê Hồng Sâm, Trần Quốc Dương dịch, Bùi Văn Nam Sơn giới thiệu, NXB Tri thức, xuất bản tháng 7 -2008, 692 trang).
Ba kiểu bài tập bạo lực này thường đi liền với nhau, giống như ba thói tham lam, ích kỷ, đố kỵ thường song hành với nhau vậy. Nó không những khiến trẻ đau khổ trong cuộc sống hiện tại, mà còn phá hoại niềm hứng thú và ý chí học tập của trẻ, ảnh hưởng tiêu cực đến tình cảm, thái độ học tập của trẻ trong suốt cuộc đời.
Mỗi đứa trẻ trong giai đoạn mới đi học đều vô cùng mong đợi cuộc sống nhà trường, đầy sự hiếu kỳ và khát vọng đối với việc học, bạn hãy nhìn xem, giai đoạn đầu, khi mới tiếp xúc với từ “bài tập”, chúng tỏ ra phấn chấn và tự hào biết bao, người lớn không cho chúng viết cũng không được. Tuy nhiên, chẳng mấy chốc, chúng bắt đầu tỏ ra chán ghét – một số chữ đã biết cách viết từ lâu, nhưng vẫn phải viết hết lần này đến lần khác, vừa không có thời gian chơi, cũng không được đi ngủ sớm. Dù viết cẩn thận đến đâu, cũng vẫn phải có chỗ sai, sai rồi thì bị cô giáo phạt viết nhiều hơn, một chữ thậm chí phải viết một trăm lần… Cái gọi là “học tập” dường như lúc nào cũng cố tình gây khó dễ cho chúng. Trái tim nhỏ bé của chúng bắt đầu oán hận học tập, chúng bắt đầu chán ghét học hành.
Chán ghét là kẻ thù hung ác nhất, đáng sợ nhất gặp phải trong quá trình học tập, bài tập bạo lực chính là phương tiện giao thông nhanh nhất đưa kẻ thù này đến với con trẻ. Một thực tế khiến người ta phải đau lòng là, rất nhiều giáo viên đã vận dụng rất thành thạo “phương tiện giao thông” này, họ tưởng rằng mình đang vận chuyển tri thức đến với con trẻ mà không biết trên cỗ xe đó đang chở “kẻ thù”. Và lúc này lại có không ít phụ huynh đứng ở bên để giúp đỡ, bắt ép con trẻ tiếp nhận các loại bài tập bạo lực này, khiến con trẻ càng thêm chán học.
Có hai nguyên nhân trực tiếp khiến một số giáo viên và phụ huynh yêu thích bài tập bạo lực.
Một là trong đầu óc họ có một kiểu logic, ở đây tôi không hề khách khí mà gọi kiểu logic này là “logic ngớ ngẩn” – cho rằng viết nhiều sẽ học được nhiều kiến thức. Họ cho rằng một chữ nếu viết hai mươi lần sẽ tốt hơn là viết hai lần, một câu làm năm lần sẽ tốt hơn là làm một lần. Đây thật sự là coi học tập – một hoạt động trí tuệ phức tạp như việc mài kim vậy. Họ không biết rằng, nhận thức của đại não là một quá trình kỳ diệu, có quy luật riêng của nó, trong đó sự tham gia của tình cảm có một vai trò vô cùng quan trọng. Chính vì thế làm bài tập không phải càng nhiều càng tốt, mà là phù hợp mới tốt. Chắc chắn chúng ta từng có có trải nghiệm rằng, một chữ viết ba lần vẫn chưa nhớ, viết đến ba mươi lần có thể sẽ cảm thấy càng viết càng không đúng.
Những giáo viên và phụ huynh mang theo kiểu logic ngớ ngẩn đó đều không hiểu rằng phải dùng các phương pháp khác nhau để kích thích niềm hứng thú học tập của trẻ, chỉ biết dùng một khối lượng bài tập nặng nhọc để cố định cơ thể trẻ vào bàn ghế; họ không biết hậu quả của việc làm này là trong lòng trẻ sẽ xảy ra một phản ứng hóa học, sẽ sinh ra một chất gọi là “chán học”.
Nguyên nhân thứ hai là tâm lý muốn nhanh chóng gặt hái được thành công của giáo viên. Tôi đã từng được tiếp xúc với một số giáo viên dạy ngữ văn ở trường tiểu học nọ. Một cô giáo khi bố trí bài tập viết chữ mới cho học sinh, luôn bắt học sinh phải tách một chữ hoàn chỉnh ra thành mấy phần để viết, ví dụ chữ “语” (ngữ), trước hết là viết một dòng “讠” (ngôn), sau đó là viết một dòng “五” (ngũ), cuối cùng là viết một dòng “口” (khẩu), cuối cùng ghép thành một chữ “语”, viết hai dòng. Phiên âm cũng tách thành ba phần thanh mẫu, vận mẫu, thanh điệu, sau đó lại gộp lại để viết – chỉ một chữ này mà tổng cộng viết thành chín dòng. Cô làm như vậy, thực sự trong thời gian ngắn có thể khiến cho học sinh nhớ được những chữ mà mình viết, trong bài kiểm tra sẽ đạt thành tích tốt, khiến phụ huynh rất phấn khởi. Trong khi một cô giáo khác lại tổ chức hoạt động đọc sách trong lớp, hàng ngày giao rất ít bài tập, để học sinh về nhà đọc sách, trong quá trình đọc, học sinh vừa nâng cao được trình độ ngữ văn, đồng thời lại cảm thấy vui vẻ. Cách làm của cô cho dù là bảo vệ niềm hứng thú của học sinh, hay nâng cao lực học, đều có ảnh hưởng tốt và lâu dài.
Nhưng vì đề thi mà nhà trường ra đều chỉ kiểm tra nội dung trong sách, về cơ bản đều là những kiến thức học thuộc lòng, điểm thi của học sinh lớp “cô giáo chú trọng đọc sách” thường kém hơn “cô giáo tách chữ”. Ngoài sức ép từ phía nhà trường, còn có sức ép từ phía phụ huynh.
Một số phụ huynh đã đóng góp ý kiến với “cô giáo chú trọng đọc sách” là giao bài tập quá ít và để học sinh về nhà đọc nhiều sách lãng phí thời gian. Cô giáo này vẫn cố gắng chịu sức ép và tiếp tục làm như vậy. Học sinh của cô ở giai đoạn đầu của bậc tiểu học không thấy được điểm gì nổi bật, đến những năm trên của tiểu học, đặc biệt là trong các bài kiểm tra kiến thức từ cấp một lên cấp hai, vượt trội hơn hẳn so với những học sinh chỉ chúi đầu vào học sách giáo khoa. Cô nói đã tiến hành cuộc điều tra với một số học sinh của mình, những học sinh mà cô dạy đều có lực học khá tốt trong giai đoạn học trung học cơ sở, gần như không có cái gọi là “học sinh cá biệt”. Trong khi thành tích của các học sinh do “cô giáo tách chữ” dạy lại rất mông lung, sau này gặp rất nhiều vấn đề, không ít học sinh lên đến khối lớp lớn của bậc tiểu học đã tỏ ra chán học, sau khi vào trung học cơ sở, các yếu tố như thành tích học tập, phẩm chất đạo đức, sự phát triển về tâm lý đều xuất hiện không ít vấn đề. Kết quả điều tra càng khiến cô vững tin hơn. Tuy nhiên cô cũng phải than thở rằng, sau khi bước vào trung học cơ sở, thành tích học tập của học sinh cao hay thấp, có hứng thú với việc học hay không, ai quy công cho cô giáo tiểu học? Người ta chỉ nói một đứa trẻ nào đó càng ngày càng hiểu biết hoặc càng ngày càng không hiểu biết. Người ta chỉ có thể nghĩ rằng, sau khi vào trung học cơ sở trẻ gặp được cô giáo tốt, hoặc gặp phải cô giáo kém.
Tôi cũng đã từng nói chuyện với “cô giáo tách chữ”, không phải cô giáo này không biết những mặt xấu khi cô làm như vậy. Cô nói, đằng nào thì tôi cũng chỉ dạy các em mấy năm mà thôi, những năm đó thành tích học tập của các em cao hơn lớp khác là được rồi, sau này thế nào, đó không phải là việc của tôi nữa. Cô giáo bắt học sinh uống thuốc độc giải khát trong quá trình giảng dạy này là “giáo viên giỏi” của trường, phụ huynh luôn thi nhau tìm đủ mọi cách để đưa con vào lớp cô. Cái mà mọi người nhìn thấy là, trong thời gian cô giảng dạy, số học sinh trong lớp đạt 100 điểm môn ngữ văn thường vượt quá nửa lớp.
Hai nguyên nhân gây ra bài tập bạo lực đã phản ánh lên hai vấn đề vĩ mô trong giáo dục hiện nay ở Trung Quốc, một là vấn đề định hướng đánh giá giảng dạy; hai là vấn đề tố chất giáo viên. Tôi cho rằng đây là hai vấn đề then chốt trong công tác cải cách giáo dục hiện nay ở Trung Quốc để giải quyết hàng loạt vấn đề. Nhưng hiện nay mọi trách nhiệm đều đổ cho “thi đại học”, thi đại học đã trở thành tội đồ gây ra mọi vấn đề trong giáo dục; và mọi cái gọi là “cải cách giáo dục” đều chỉ là bình mới rượu cũ, hoặc là đau đâu chữa đó – đây là một chủ đề rất lớn, không thể mang ra bàn luận ở đây.
Nếu con trẻ gặp phải bài tập bạo lực, nhưng lại không nói với phụ huynh, không tìm kiếm sự giúp đỡ từ phía phụ huynh, thì vẫn cần tìm nguyên nhân từ phía phụ huynh.
Có một học sinh lớp bảy vì nghịch ngợm trong giờ học, bị cô giáo phạt chép bài khóa mười lần, cậu bé này liền chép mười lần bài khóa trong một buổi tối. Con trẻ thà chịu phạt còn hơn là nói với bố mẹ, đây có thể là do trẻ linh cảm trước được thái độ của bố mẹ. Nếu bình thường gặp chuyện gì đó, bố mẹ không tỏ ra thông cảm, thấu hiểu con trẻ, phê bình trẻ một cách tùy ý, tôn sùng một cách mù quáng phương pháp giảng dạy của nhà trường, vậy thì dựa vào trực giác của mình, trẻ sẽ nghĩ rằng, nói với bố mẹ cũng bằng không, không những không giải quyết được vấn đề, mà có thể còn bị ăn mắng, chết trâu lại mẻ thêm rìu. Con trẻ phải chịu đựng bài tập bạo lực, một buổi tối trẻ phải chép xong mười lần bài khóa, ngày hôm sau vẫn đi học bình thường, dường như không có chuyện gì xảy ra, không bị thiếu cái gì cả. Thậm chí có bậc phụ huynh sau khi biết được chuyện này còn thấy mừng, tưởng rằng con mình chép nhiều bài khóa tức là được học nhiều hơn người khác. Họ không nhìn thấy con trẻ đã bị tổn thương ở bên trong, thậm chí suốt đời vết thương không bao giờ lành được.
Bài tập bạo lực có ảnh hưởng tiêu cực đến lòng tự tin, ý chí, phẩm chất đạo đức của trẻ em. Tác dụng xấu của nó không đơn giản như mặc thừa một chiếc áo thì hơi nóng, ăn thêm một cái bánh thì quá no. Nó có thể làm thay đổi cả trạng thái của sự việc, khiến con trẻ mắc một căn bệnh mãn tính gọi là “chán học”, làm chúng mất đi chí tiến thủ, nuốt chửng tính sáng tạo, xóa đi cảm giác hạnh phúc của chúng, trong đó “tính bạo lực” thậm chí còn có thể phá hoại đạo đức của chúng. Chính vì thế nó không phải là chuyện nhỏ, mà là “tai nạn giáo dục”.
Một điều khiến người ta đau lòng là những tai nạn này đang ngày ngày xảy ra trên khắp cả nước. Chỉ cần nói chuyện với các em học sinh cấp bậc phổ thông và phụ huynh của chúng, sẽ phát hiện ra rằng “tai nạn” không những nhiều, mà nguyên nhân để xảy ra tai nạn cũng rất đa dạng, thực sự khiến người ta phải hãi hùng.
Nhiều năm trở lại đây, trẻ em có gặp bài tập bạo lực hay không, hoàn toàn dựa vào sự may mắn, xem trẻ gặp phải những giáo viên như thế nào. Chỉ cần các giáo viên này không thích bài tập bạo lực cũng đã là may mắn lắm rồi.
Hàng năm chính phủ Trung Quốc rót nguồn kinh phí khổng lồ cho các hoạt động nghiên cứu khoa học giáo dục. Các trường sư phạm, viện nghiên cứu khoa học giáo dục không ngừng triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học, hiện giờ các trường tiểu học và trung học cũng “nghiên cứu khoa học”, dường như giới giáo dục đều đang chuyên tâm nghiên cứu các vấn đề. Tại sao lại không có ai quan tâm đến sự việc cụ thể, bức xúc như vậy? Một người bạn thời trung học phổ thông của tôi là giáo viên dạy giỏi ở một trường tiểu học, từng đạt danh hiệu nhà giáo ưu tú cấp quốc gia nói rằng, kinh nghiệm công tác bao năm của tôi cho thấy, con trẻ viết chữ mới, mỗi chữ viết ba lần là hiệu quả nhất. Một kinh nghiệm đơn giản và hữu hiệu biết bao – tôi cho rằng đây mới là “thành quả học thuật” – nếu được phổ biến rộng ra, cả nước sẽ có bao nhiêu học sinh được giảm bớt gánh nặng bài tập về nhà, thậm chí từ đó mà trở nên thích học. Dường như nó đơn giản đến mức không có bất kỳ hàm lượng kỹ thuật nào, nhưng trên thực tế lại bao hàm một hệ thống lý luận giáo dục học, tâm lý học và khoa học nhận thức rất hoàn thiện. So với những “thành quả nghiên cứu khoa học” hoàn toàn không có quan hệ gì với cuộc sống nhà trường được in trong những cuốn sách dày, kinh nghiệm của nhà giáo ưu tú này thật đơn giản, bình dị, nhưng lại giá trị biết bao. Chỉ tiếc rằng, thành quả không được phổ biến rộng rãi, người được hưởng lợi quá ít.
Còn cơ quan hành chính giáo dục luôn dùng “tư tưởng hành chính” để quản lý nhà trường, rất ít khi xem xét đến việc dùng “phương châm khoa học giáo dục” để phục vụ nhà trường. Điều này khiến cho một số biện pháp hành chính giáo dục không những không đạt được kết quả gì, mà còn trở thành gánh nặng mới cho giáo viên và học sinh. Năm 2007 tôi đọc trên báo thấy nói rằng một cơ quan hành chính giáo dục nọ đã cho ra đời phương án “giảm bớt gánh nặng” cho học sinh tiểu học, yêu cầu cặp sách, ba lô đi học của học sinh tiểu học không được vượt quá ba kilôgam. Họ đưa thông báo đến nhà trường, đồng thời cử nhân viên xuống các trường để kiểm tra. Điều này khiến học sinh đành phải nghĩ cách đối phó, trước hết là đeo chiếc cặp nặng hai kilôgam vào lớp rồi đặt xuống, sau đó lại ra cổng trường đón lấy một chiếc ba lô nặng hai phảy năm kilôgam vào nữa. Thực ra “giảm bớt trọng lượng cặp sách cho học sinh” là một cách nói mang tính ví von, “cặp sách” ở đây chỉ là một sự tượng trưng cho học tập. Trọng lượng thực tế của cặp sách và gánh nặng bài tập của học sinh có một số mối liên hệ bề ngoài, nhưng không có nghĩa là tương đương. Cần dùng suy nghĩ và phương châm để thực hiện chương trình “giảm bớt gánh nặng”, làm sao có thể dùng cái cân để thực hiện? “Nếu giáo viên chỉ nghĩ đến việc làm thế nào để bắt ép học sinh dành nhiều thời gian hơn cho việc ngồi gặm sách giáo khoa, làm thế nào để có thể kéo học sinh từ bỏ các hoạt động khác và chúi mũi vào việc học, thì không thể tránh khỏi hiện tượng gánh nặng quá nặng”(1). Câu nói này của Vasyl Olexandrovych Sukhomlynsky đã cho chúng ta thấy nguồn gốc và phương án giải quyết vấn đề gánh nặng của học sinh quá nặng, tại sao không suy nghĩ vấn đề từ đây.
_________________
(1) Vasyl Olexandrovych Sukhomlynsky, Lời kiến nghị với các nhà giáo, Đỗ Điện Khôn dịch, NXB Khoa học giáo dục, tái bản lần thứ nhất tháng 6-1984, tr.37.
Ngăn ngừa và chấm dứt hiện tượng bài tập bạo lực ở các mức độ khác nhau mới là hành động giảm bớt gánh nặng quan trọng nhất. Coi bài tập bạo lực là “tai nạn”, có thể khiến cho người ta nhìn thấy sức phá hoại của nó, để mọi người đề cao cảnh giác.
Để ngăn chặn và chấm dứt tình trạng tai nạn lao động xảy ra ở các ngành nghề khác nhau, chính phủ Trung Quốc đã không ngừng xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn quản lý và thực thi những biện pháp tương ứng như không được phép khai man tai nạn hầm mỏ, đồng thời sẽ truy cứu trách nhiệm của những người có liên quan. Nhưng hàng ngày cả nước xảy ra bao nhiêu vụ tai nạn bài tập bạo lực, lại vẫn được tồn tại một cách hợp lý, bình thường.
Ai sẽ là người vạch trần ra sự việc này, có bao nhiêu người nghe thấy tiếng rên rỉ của hàng triệu trẻ em? Nói nhẹ đi một chút, là nó sẽ phá hoại vĩnh viễn lòng nhiệt tình và niềm hứng thú đối với học tập của rất nhiều học sinh; nếu nói nặng hơn, là nó đang ăn mòn và bóp méo tương lai của dân tộc và quốc gia. Bao giờ mới có thể ban hành một bộ “biện pháp” khoa học như thế này, để các em không phải chịu sự bức hại của bài tập bạo lực?
Lưu ý đặc biệt
Dùng một khối lượng bài tập nặng để cố định cơ thể trẻ vào bàn ghế. Hậu quả của việc làm này là trong lòng trẻ sẽ xảy ra một phản ứng hóa học, sẽ sinh ra một chất gọi là “chán học”.
Điều mà người phụ huynh tốt và người giáo viên tốt cần chú ý nhất là tránh không để trẻ gặp kẻ thù “chán ghét” này, chính vì thế điều họ dốc toàn bộ công sức để làm là bảo vệ niềm hứng thú học tập cho con trẻ.
Điều quan trọng nhất là bản thân phụ huynh phải có nhận thức đúng đắn về bài tập bạo lực, nếu bạn thường xuyên có ý thức, dày công bảo vệ niềm say mê học tập của con trẻ, thì đương nhiên sẽ có biện pháp đối phó với loại bài tập này.
Ngăn ngừa và chấm dứt hiện tượng bài tập bạo lực ở các mức độ khác nhau mới là hành động giảm bớt gánh nặng quan trọng nhất.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.