Thằng Cười

7. BÃO NGƯỜI NGUY HẠI HƠN BÃO BIỂN



Các cửa lại đóng vào, hoàng môn quan đũa đen lại trở vào; các huân tước khâm sai rời chiếc ghế danh dự đến ngồi ở đầu chiếc ghế công tước, vào chỗ dành cho chức vị của họ, và huân tước tể tướng lên tiếng.
– Thưa quí vị huân tước, tử nhiều ngày nay nghị viện thảo luận về dự án tăng thêm mười vạn livrơ xteclinh khoản dự trữ hàng năm của đức điện hạ nữ hoàng phu quân, việc tranh luận đã xong và đã bế mạc, chúng ta sẽ đi vào biểu quyết. Việc biểu quyết theo tục lệ sẽ bắt đầu từ vị em út trên ghế nam tước. Mỗi vị huân tước khi nghe gọi đến tên, sẽ đứng dậy và trả lời đồng ý hay không đồng ý, và sẽ được tự do trình bày lý do biểu quyết của mình nếu thấy cần thiết. Thư ký, xướng danh biểu quyết.
Viên thư ký nghị viện đứng lên, mở một quyển sổ khổ đôi rộng, để cao trên cái yên sách thếp vàng đấy là quyển sổ Nguyên lão.
Vị em út nghị viện thời kỳ ấy là huân tước Gion Hecvê, được phong nam tước và nguyên lão năm 1703, do đó sinh ra các hầu tước Brixton.
Viên thư ký gọi :
– Huân tước Gion, nam tước Hecvê.
Một ông già đội tóc giả màu vàng hoe đứng lên và nói:
– Đồng ý.
Đoạn ngồi xuống.
Viên phó thư ký ghi vào sổ ý kiến biểu quyết.
Viên thư ký tiếp tục :
– Huân tước Franxix Xêmua, nam tước Conuê Kilutac.
– Đồng ý.
Một người trai trẻ lịch sự có bộ mặt kiềm đồng vừa nói lí nhí vừa hơi nhổm dậy, y không ngờ rằng mình là ông của các hầu tước Ecfor.
– Huân tước Gion Livixon, nam tước Gôvơ. – Viên thư ký lại xướng.
Vị nam tước này, sẽ là tiên tổ các công tước Xinthơlan đứng dậy và vừa nói vừa ngồi xuống lại:
– Đồng ý.
Viên thư ký tiếp tục:
– Huân tước Hinigiơ Fina, nam tước Ghecnơxê.
Ông tổ các bá tước Êlơfo, không kém phần trẻ trung và lịch sự hơn ông tổ các hầu tước Ecfor, chứng minh câu châm ngôn Aperto vivere voto[161] của mình bằng lời tán thành thật to:
– Đồng ý. – Ông hét lên.
Trong lúc ông ta ngồi xuống, viên thư ký gọi vị nam tước thứ năm:
– Huân tước Gion, nam tước Granvm.
– Đồng ý.
Huân tước Cranvin Pothơrit đáp, chưa đứng hẳn lên đã lại ngồi thụp ngay xuống. Tước thế khanh không tương lai của ông này sẽ tắt vào năm 1709.
Viên thư ký chuyển sang vị thứ sáu.
– Huân tước Saclơx Maotêghiu, bá tước Halifăc.
– Đồng ý.huân tước Halifăc nói, ông này mang tước hiệu của cái tên Xavin đã tắt, và sau này cái tên Maotêghiu sẽ phải tắt, Maotêghiu khác hẳn Mongtagu và Maotêcut.
Huân tước Halifăe còn nói thêm:
– Hoàng thân Giorgiơ được hưởng một niên bổng với tư cách là nữ hoàng phu quân; ngài còn một niên bổng khác với tư cách hoàng thân xứ Đan Mạch, một niên bổng khác với tư cách công tước Cơmbơclan, và một niên bổng khác với tư cách huân tước thượng tướng hải quân Anh quốc và xứ Iếclăng, nhưng với tư cách đại nguyên soái ngài lại không có. Đấy là một điều bất công. Vì lợi ích nhân dân Anh, cần phải chấm dứt tình trạng bất hợp lý đó.
Đoạn, huân tước Halifăc ca ngợi đạo Thiên Chúa, chê bài giáo hội La Mã, và biểu quyết về khoản tiền ngự dụng.
Sau khi huân tước Halifăc ngồi xuống, viên thư ký tiếp tục:
– Huân tước Crixtôp, nam tước Bacna.
Huân tước Bacna, thuỷ tổ của công tước Clevơlan, đứng lên khi nghe gọi tên mình.
– Đồng ý.
Và ông ta thong thả ngồi xuống, vì chiếc lá sen đăng ten trước ngực của ông ta đáng được chú ý. Vả lại huân tước Bacna là một vị quý tộc chững chạc, một võ quan dũng cảm.
Trong khi huân tước Bacna ngồi xuống, viên thư ký thường chỉ đọc theo thói quen, bỗng hơi ngập ngừng. Y sửa lại mục kỉnh và cúi xuống quyển sổ, chăm chú hơn, rồi ngẩng đầu lên, y nói.
– Huân tước Fecmên Clăngsacli, nam tước Clăngsacli và Hâncơvm.
Guynplên đứng lên.nói:
– Không đồng ý.
Tất cả bao nhiều cái đầu đều quay phắt lại.
Guynplên đang đứng. Những cây nến đặt hai bên ngai vua chiếu sáng rực bộ mặt Guynplên, làm nó nổi bật lên giữa gian phòng tối, như một cái mặt nạ trên nền khói.
Guynplên đã cố gắng, ta còn nhớ là quá lắm nó vẫn cố gắng được, tập trung ý chí như khi cần để dạy hổ. Trong giây lát nó đã lấy được vẻ nghiêm trang cho cái mồm tai hại trên mặt nó. Lúc này, nó không cười.
Nhưng không thể kéo dài mãi. Những việc làm trái ngược với cái gì đã thành quy tắc, hay định mệnh của ta, đều ngắn ngủi. Đôi khi nước biển chống lại quy luật dẫn lực, phồng lên thành cây nước và tạo nên một ngọn núi, nhưng với điều kiện phải đổ xuống lại. Cuộc phấn đấu ấy là cuộc phấn đấu của Guynplên. Trong giây phút mà nó cảm thấy là trang nghiêm, với một nỗ lực phi thường của ý chí, nhưng không lâu hơn thời gian một tia chớp, nó đã tự phủ lên trán tấm mạng đen tối của tâm hồn nó; nó đã chặn đứng nụ cười nan y của nó; nó đã rút mất nét vui khỏi bộ mặt mà người ta đã khắc tạo cho nó, lúc này chỉ thấy là nó khủng khiếp.
– Anh chàng kia là ai? – Mọi người đều thốt lên.
Một rung động không tả chạy qua tất cả các ghế. Mớ tóc rậm rì kia, những cái hốc đen ngòm dưới cặp lông mày kia, vẻ nhìn sâu sắc của đôi mắt không ai thấy kia, cái đầu dữ tợn pha trộn một cách gớm guốc cả bóng tối và ánh sáng kia, thật là kinh dị. Thật vượt quá mọi điều tưởng tượng. Nói đến Guynplên bao nhiêu cũng không đủ, phải nhìn nó mới thấy phi thường. Những ai dè trước cũng không thể ngờ đến. Ta thử tưởng tượng, trên ngọn núi dành riêng cho thần linh, giữa hội hoa đăng của một đêm trăng thanh gió mát, tất cả các đấng quyền uy đang quy tụ, thình lình bộ mặt của Prômêtê, bị diều hâu mổ nát, xuất hiện ở chân trời như một vầng trăng đẫm máu, Ôlempơ[162], còn hình ảnh nào hơn! Già trẻ, đều há hốc nhìn Guynplên.
Một ông già, được toàn thể nghị viện kính nể, đã từng trông thấy nhiều người, nhiều thứ, và được chỉ định làm công tước Tômax, bá tước Uacton, hoảng hốt đứng dậy.
– Thế là nghĩa thế nào? – Ông ta hét lên – Ai đã đưa anh chàng kia vào nghị viện? Tống cổ nó ra ngoài.
Và ngạo mạn nói thẳng vào mặt Guynplên:
– Anh là ai? Anh từ đâu ra?
Guynplên đáp luôn:
– Từ vực thẳm.
Và khoanh hai tay lại, nó nhìn các vị huân tước.
– Tôi là ai à? Tôi là khốn cùng. Thưa quí vị huân tước, tôi đang có điều muốn nói với các ngài.
Một cơn rùng rợn và một phút im lặng, Guynplên lên tiếp tục.
– Thưa quí vị huân tước, quí vị ở trên cao. Tốt lắm! Phải tin tưởng rằng Chúa có lý của Chúa khi an bài như vậy. Các ngài sống trong quyền thế, giàu sang, vui sướng, các ngài có mặt trời bất di bất dịch trên thiên định của mình, các ngài có quyền hành vô tận, các ngài hưởng lạc không cần chia sẻ, các ngài mặc sức quên hết người khác. Được. Nhưng vẫn có một cái gì đó bên dưới các ngài. Có lẽ bên trên cũng nên. Thưa quí vị huân tước, tôi đến đây để báo cho quí vị một điều: còn có loài người nữa đấy.
Các nghị viện cũng giống như trẻ con; đối với họ các sự việc xảy ra là những hộp đồ chơi giật mình mà họ vừa sợ lại vừa thích. Hình như đôi khi có một chiếc lò xo bật, và một con quỉ bỗng bắn ra khỏi lỗ, ở nước Pháp Miraboo[163] là như thế, bản thân ông cũng dị dạng. Lúc này Guynplên cảm thấy trong mình có một sự lớn mạnh lạ thường. Một nhóm người ngồi nghe ta nói là một thứ đế ba chân. Có thể nói ta đang đứng trên đỉnh các tâm hồn. Dưới gót là cảnh rung động của tâm can con người. Guynplên không còn là con người tối hôm trước, trong một giây lát đã hầu như nhỏ mọn. Nhưng lớp khói trong cuộc đi lên đột ngột ấy đã làm cho nó hoang mang, nay đã loãng nhẹ và trở thành trong suốt; và nơi mà Guynplên đã say sưa vì kiêu hãnh thì giờ đây nó thấy có một trọng trách. Cái thoạt đầu đã làm nó thấp kém, lúc này đang nâng cao nó lên. Nó đang được một trong những tia chớp lớn phát ra từ nghĩa vụ chiếu sáng. Từ bốn phía xung quanh Guynplên, người ta la hét:
– Lắng tai mà nghe! Lắng tai mà nghe!
Trong khi ấy, nhăn nhó, siêu phàm, nó vẫn giữ được trên bộ mặt nét co giật nghiêm nghị và bi đát mà dưới đó cái cười cứ lồng lộn như một con ngựa rừng sắp xổng. Nó nói tiếp:
– Tôi là kẻ từ vực sâu đến. Thưa quí vị huân tước, các ngài là những bậc quyền quý, những kẻ giàu sang. Nguy hiểm đấy. Các ngài lợi dụng đêm tối. Nhưng hãy coi chừng, có một sức mạnh lớn là bình minh. Là bình minh không thể nào bị đánh bại. Nó sẽ đến. Nó đang đến. Trong nó có cái tia sáng không thể nào ngăn chặn nổi. Và ai sẽ ngăn chặn không cho cái súng ấy hất tung vầng dương lên giữa bầu trời? Mặt trời là luật pháp. Còn các ngài, các ngài là đặc quyền. Các ngài hãy run sợ. Người chủ nhà chính thức sẽ gõ cửa. Ai đẻ ra đặc quyền? Tình cờ. Và con nó là ai? Lộng hành. Tình cờ cũng như lộng hành đều không vững chắc đâu. Cả hai đều có một ngày mai chẳng ra gì. Tôi đến đây để báo trước cho quí vị. Tôi đến để tố giác hạnh phúc của các ngài. Nó dựa trên tai hoạ của người khác. Các ngài có tất cả, mà cái tất cả đó lại do cái chẳng-có-gì của những người khác hợp thành.
Thưa quí vị huân tước, tôi là người trạng sư thất vọng, tôi đang biện hộ cho vụ kiện đã thua. Nhưng vụ kiện ấy, rồi Chúa sẽ thắng.
Tôi chẳng là gì cả, tôi chỉ là một tiếng nói. Loài người là một cái miệng, mà tôi là tiếng kêu. Các ngài sẽ nghe tôi nói. Tôi đến mở ra trước mắt các ngài, những nguyên lão Anh quốc, những toà án lớn của nhân dân, vị chúa tể, mà lại là kẻ bị hành hình, người bị xử phạt, mà lại là vị quan toà. Những điều tôi phải nói đang đè nặng trên người tôi. Bắt đầu từ đâu đây? Tôi cũng không biết. Tôi đã thu lượm bài cãi lớn lao tản mạn của tôi trong cái đống đau thương khổng lồ phân tán. Làm gì với nó bây giờ? Nó đè nặng trên người tôi, và tôi cứ hất tung nó ra trước mặt. Điều này tôi có nhìn thấy trước không? Không. Các ngài ngạc nhiên ư?
Tôi cũng thế. Hôm qua tôi là một thằng múa rối, hôm nay tôi là một huân tước. Trò chơi thật sâu sắc. Của ai? Của vô định. Tất cả chúng ta hãy nên run sợ. Thưa quí vị huân tước, tất cả trời xanh đứng về phía các ngài. Từ vũ trụ bao la ấy, các ngài chỉ thấy toàn hội hè. Các ngài nên biết rằng còn có bóng tối. Đứng giữa các ngài, tôi tên là huân tước Fecmên Clăngsaeli, nhưng tên thật của tôi là Guynplên, một cái tên của kẻ nghèo. Tôi là một kẻ khốn cùng do một nhà vua cắt ra trên tấm vải của các bậc quyền quí, theo ý thích của nhà vua.
Đấy, câu chuyện của tôi là như thế. Nhiều người trong quí vị được biết bố tôi, vậy mà tôi vẫn không biết. Bố tôi gần gũi với các ngài về mặt giai cấp phong kiến, còn tôi lại dính líu với bố tôi về mặt bị ngược đãi. Việc Chúa đã làm rất tốt. Tôi đã bị quẳng xuống vực thẳm. Nhằm mục đích gì? Để tôi được nhìn thấy đáy vực. Tôi là một tên thợ lặn, và tôi mò lên được ngọc trai chân lý. Tôi nói, vì tôi biết. Thưa quí vị huân tước các ngài sẽ nghe tôi nói.
Tôi đã được trải qua. Tôi đã từng nhìn thấy. Không, thưa các ngài sung sướng, đau khổ không phải là một danh từ suông đâu. Tôi đã lớn lên trong nghèo nàn; tôi đã run rẩy với mùa đông; đói khát, tôi đã nếm mùi; khinh miệt, tôi đã chịu đựng; dịch hạch, tôi đã từng mắc phải; tủi nhục, tôi đã từng uống cạn. Tôi sẽ mửa nó ra trước mặt các ngài, cái bãi nôn gồm mọi thứ cùng khổ ấy sẽ bắn vào chân các ngài và sẽ bốc cháy. Tôi đã do dự trước khi để người ta lôi kéo đến cái chỗ tôi đang đứng đây vì tôi còn nhiều nhiệm vụ ở nơi khác. Và trái tim của tôi không phải ở chốn này. Những gì diễn biến trong lòng tôi không liên quan đến các ngài; khi con người mà các ngài gọi là hoàng môn quan đũa đen đến tìm tôi theo lệnh người đàn bà mà các ngài gọi là nữ hoàng, có lúc tôi đã định từ chối. Nhưng hình như bàn tay tối tăm của Chúa cứ đẩy tôi đến đây và tôi đã nghe theo. Tôi cảm thấy phải đến với các ngài. Vì đâu? Vì những quần manh áo rách của tôi hôm qua. Chính để cất tiếng nói giữa những kẻ no nê phè phỡn mà Chúa đã đặt tôi lẫn với những người đói khát. Ôi! Các ngài hãy biết xót thương?
Ôi! Cái thế giới bất hạnh này mà các ngài vẫn tưởng là chính mình, các ngài không biết nó đâu; vì quá cao nên các ngài chỉ đứng ở ngoài; tôi, tôi sẽ nói để các ngài rõ nó thế nào, kinh nghiệm tôi có đủ. Tôi từ dưới sức ép đến đây. Tôi có thể nói là các ngài nặng như thế nào.
Hỡi các vị chủ nhân, các ngài là gì, các ngài có biết không? Các ngài làm gì, các ngài có thấy không? Không.
Ôi! Tất cả đều hãi hùng. Một đêm, một đêm bão táp phong ba, còn bé tí, bị bỏ rơi, côi cút, một mình giữa trời đất bao la, tôi đã bước chân vào cái chốn tối tăm mà các ngài gọi là xã hội. Điều thứ nhất tôi thấy là luật pháp, dưới hình thức một cái giá treo cổ, điều thứ nhì là cảnh giàu sang, cảnh giàu sang của các ngài, dưới hình dạng một người đàn bà chết rét và chết đói; điều thứ ba là tương lai, dưới hình dạng một em bé hấp hối; điều thứ tư là cái thiện, cái chân, và cái công bằng, dưới bộ mặt một người lang thang chỉ có mỗi một con sói làm bạn đường và tri kỷ.
Đến đây Guynplên, đau đớn xúc động, cảm thấy thổn thức trào lên cuống họng, nên bỗng dưng, ôi khủng khiếp, nó bật ra tiếng cười. Tức thì tiếng cười lan đi. Một đám mây lướt qua toàn thể hội nghị; nó có thể nổ tung thành hãi hùng, nhưng nó lại nổ ra thành vui nhộn. Tiếng cười, thác loạn bùng nổ đó, chiếm hết cả phòng. Cảnh đế vương không đòi hỏi gì hơn là được pha trò. Đấy là cách họ trả thù cái trang nghiêm của họ.
Tiếng cười của vua chúa cũng giống tiếng cười của thần linh; nó luôn luôn mang chút ít tàn bạo. Các huân tước bắt đầu vui nhộn. Nhạo báng càng mài sắc thêm tiếng cười. Họ vỗ tay xung quanh người nói, họ nhục mạ nó. Một loạt thán từ khoái trá tới tấp tấn công nó, một trận mưa đá vui cười mà làm thương tổn.
– Hoan hô, Guynplên!
– Hoan hô Thằng Cười!
– Hoan hô cái mõm thú của Hộp Xanh!
– Hoan hô cái thủ lợn rừng của cánh đồng Tarinhxô!
– Mày đến làm trò cho chúng tao xem. Hay lắm! Cứ ba hoa liến thoắng nữa đi!
– Đúng là tên pha trò cự phách!
– Nhưng cái tên súc sinh kia, nó có cười không thế!
– Chào anh múa rối!
– Chào huân tước Hề! Cứ hô hào khoẻ vào!
– Một nguyên lão Anh quốc đấy!
– Tiếp tục nữa đi!
– Không, không!
– Cứ! Cứ!
Huân tước tể tướng cảm thấy khá khó chịu.
Một vị huân tước điếc đặc, Giêm Bơtlơ, công tước Ormoong, đưa bàn tay lên tai làm ống nghe, hỏi Saclox Bôcle, công tước Xanh Anbăng:
– Nó biểu quyết thế nào?
Xanh Anbăng đáp :
– Không đồng ý.
– Trời ơi. – Ormông nói – Tôi biết mà. Với cái mặt ấy!
Quần chúng mà sổ lồng, hội nghị là quần chúng – thì phải bắt giữ ngay nó lại. Hùng biện là một cái hàm thiếc! Hàm thiếc mà gãy thì thính giả nổi xung và đá hậu cho đến khi quật ngã được diễn giả. Thính giả vốn ghét diễn giả. Điều ấy ít khi người ta biết rõ. Dường như bám chặt vào dây cương vừa là một phương sách, vừa không phải. Bất cứ diễn giả nào cũng thử nó. Đấy là bản năng, Guynplên cũng thử.
Nó quan sát hồi lâu những người đang cười kia, và hét to:
– Như vậy là các ngài lăng mạ cùng khổ đấy. Quí vị nguyên lão Anh quốc, xin im lặng cho, các ngài thẩm phán, xin hãy nghe lời tôi biện hộ. Ôi! tôi van xin các ngài, các ngài hãy biết xót thương? Thương ai? Thương bản thân các ngài. Ai đang lâm nguy? Chính các ngài.
Các ngài không thấy mình đang ở trên một cái cân, bên này là quyền uy, bên kia là trách nhiệm của các ngài sao? Chúa đang cân các ngài đấy. Ôi! các ngài chớ cười.
Hãy ngẫm nghĩ cho kỹ. Chiếc cân đang dập dình, đấy là sự run sợ của lương tâm. Các ngài không phải độc ác. Các ngài là những con người như mọi người khác, không tốt lành hơn, cũng không xấu xa hơn. Các ngài tưởng mình là thần thánh, các ngài cứ thử ốm xem, rồi hãy nhìn cái tính thần linh của các ngài run rẩy trong cơn sốt. Chúng ta đều như nhau cả thôi. Tôi đang nói với những đầu óc lương thiện, ở đây có những đầu óc như thế, tôi đang nói với những trí tuệ cao cả, có những trí tuệ như thế đấy; tôi đang nói với những tâm hồn cao thượng, có những tâm hồn như thế đấy. Các ngài là bố, là con và là anh em, vậy thì các ngài đã từng cảm động. Trong các ngài, ai sáng nay đã đứng nhìn cháu mình tỉnh dậy, đó là người tốt. Trái tim con người đều giống nhau. Nhân loại chỉ là một trái tim chứ chẳng phải gì khác. Giữa kẻ đè nén và người bị đè nén, chỉ có sự khác biệt về chỗ đứng. Chân các ngài dẫm lên đầu người khác, đấy không phải lỗi của các ngài. Đấy là lỗi ở cái tháp Baben của xã hội. Một công trình xây dựng hỏng, hoàn toàn xiêu vẹo. Tầng nọ chồng chéo tầng kia.
Hãy lắng tai mà nghe, tôi sẽ nói các ngài rõ. Ôi! Các ngài có thế lực thì các ngài nên bác ái; các ngài quyền cao chức trọng thì các ngài nên hiền lành. Giá các ngài biết tôi đã thấy những gì! Than ôi ! Ở dưới, đau khổ biết chừng nào! Loài người đang sống trong ngục tối. Biết bao kiếp doạ đầy, biết bao người vô tội! Ánh sáng thiếu, không khí thiếu, đạo đức thiếu, người ta không hy vọng; và, điều khủng khiếp, người ta vẫn chờ đợi. Các ngài hãy tìm hiểu những nỗi thống khổ đó. Có những người sống trong cái chết. Có những cháu gái bắt đầu bán mình lúc lên tám và kết thúc ở tuổi hai mươi bằng cảnh già. Còn những cảnh khắc nghiệt của tra tấn thì thật khủng khiếp. Tôi nói hơi hỗn độn một tí, và không lựa chọn. Tôi cứ nói những gì chợt đến trong đầu óc tôi. Mới hôm qua thôi, tôi, kẻ hiện đứng đây, tôi được thấy một người bị trói trần truồng, với những tảng đá nặng đè trên bụng, đang thở hắt ra, giữa lúc tra tấn.
Điều ấy các ngài có biết không? Không. Nếu các ngài biết những gì đang xảy ra, không một ai trong các ngài dám sung sướng cả. Ai đã từng đến Niucatxơnon Tainơ? Trong các hầm mỏ có những người nhá than để cho đầy dạ dày và để đánh lừa cái đói. Đây này, trong lãnh địa Lancaxtrơ, vì đói nghèo mà Ripbonsextơ từ một thành phố đã trở thành làng quê. Tôi không thấy hoàng thân Ginrgiơ nước Đan Mạch cần phải có thêm mười vạn ghinê. Tôi thấy tốt hơn nên nhập vào bệnh viện người ốm bần cùng, mà không bắt anh ta phải trả trước tiền mai táng. Ở Cacnavơn, tại Tơretmo cũng như tại Torethisan, cảnh dân nghèo kiệt quệ thật khủng khiếp.
Ở Xtratro vì thiếu tiền người ta không thể làm cạn các đầm lầy. Toàn vùng Lancasai, các xí nghiệp dạ đều đóng cửa. Khắp nơi thất nghiệp. Các ngài có biết rằng dân đánh cá mòi ở Haclêc phải ăn cỏ những khi không đánh được cá không? Các ngài có biết ở Bocton Lêzơ còn có những người hủi bị săn lùng không? Và nếu họ ra khỏi chòi là bị chết không? Ở Emhiury, thành phố mà một trong các ngài làm huân tước, thường xuyên có nạn đói. Tại Penkritglơ ở Côventơry, nơi các ngài vừa cấp cho nhà thờ lớn và làm giàu cho ngài giám mục, trong các lều lán người ta không có giường nằm, phải đào lỗ trong đất để đặt trẻ con, thành thử lẽ ra bắt đầu nằm trong nôi, thì chúng lại bắt đầu nằm trong mộ. Những chuyện ấy tôi đã trông thấy cả. Thưa quí vị huân tước, những khoản thuế các ngài đang biểu quyết, các ngài có biết ai trả không? Những người đang thở hắt ra. Than ôi! các ngài lầm đấy. Các ngài đi sai đường. Các ngài tăng cảnh nghèo đói của người đói nghèo để thêm cảnh sang giàu cho kẻ giầu sang. Lẽ ra phải làm ngược lại.
Sao, lẽ nào lại lấy của người lao động để cho kẻ ăn không ngồi rồi, lấy của người rách rưới để cho kẻ no say thừa mứa, lấy của người bần cùng để cho vua chúa!
Phải, trong huyết quản tôi có dòng máu cộng hoà cũ. Tôi ghê tởm cái đó. Những ông vua ấy, tôi ghét cay ghét đắng họ! Còn đàn bà thì trơ tráo! Người ta có kể cho tôi nghe một câu chuyện thật buồn thảm. Ôi! Tôi căm thù tên Saclơ đệ Nhị! Một người đàn bà từng được bố tôi yêu dấu đã hiến thân cho tên vua ấy, trong khi bố tôi bỏ xác tại chốn lưu đày, ôi con đĩ rạc! Saclơ đệ Nhị, Giắc đệ Nhị; sau một tên vô dụng, lại một thằng gian ác! Có gì trong kẻ làm vua một con người, một kẻ ốm yếu, gầy còm chỉ biết đại tiện, tiểu tiện, và tàn tật. Vua thì làm được trò gì? Cái vương quyền ăn hại đấy, các ngài cứ lo tọng vỗ cho nó béo. Con giun đất ấy, các ngài nuôi dưỡng nó thành trăn to. Con sán ấy, các ngài biến nó thành con rồng. Hãy tha thứ cho người nghèo! Các ngài bày ra sưu cao thuế nặng để lợi cho nhà vua, Hãy để ý đến những luật pháp mà các ngài ban bố. Hãy chú ý đến bầy kiến đau khổ mà các ngài đang giày xéo. Hãy trông xuống. Hãy nhìn xuống chân các ngài. Hỡi các ngài quyền cao chức cả, còn có những người nhỏ bé đấy! Các ngài hãy biết xót thương! Đúng! Thương lấy các ngài vì quần chúng đang hấp hối, và khi chết thì lớp dưới làm chết lớp trên. Chết là một chuyện ngừng tắt không trừ một ai hết. Khi đêm tối ập xuống thì chẳng ai giữ được góc sáng của mình. Các ngài có ích kỷ không? Các ngài hãy cứu vớt người khác. Chiếc tàu đắm không chừa một hành khách nào cả. Không làm gì có chuyện đắm tàu đối với người này mà lại không nhận chìm kẻ khác. Ôi các ngài phải biết rằng vực sâu dành cho tất cả.
Tiếng cười càng to, không sao giữ nổi. Vả lại để làm vui cho một cuộc hội nghị, chỉ cần những lời nói kia có đôi điểm cuồng ngông. Khôi hài trên mặt, bi đát trong tâm, còn đau khổ nào nhục nhã hơn, còn phẫn nộ nào sâu sắc bằng. Trong lòng Guynplên đang như vậy đấy. Lời nói của nó muốn tác động phía này, bộ mặt nó lại tác động phía khác; hoàn cảnh thật ghê rợn. Giọng nói của nó bỗng rít lên the thé:
– Những con người kia, họ vui cười thích thú! Tốt lắm. Châm biếm đối diện với lâm chung. Tiếng cười nhạo báng lăng mạ tiếng kêu rên. Họ quyền uy vô hạn mà! Rất có thể lắm. Được. Rồi xem. Ôi! Ta là một kẻ cùng hàng ngũ với họ. Hỡi những ai nghèo khổ ta cũng cùng tầng lớp với các người. Một tên vua đã bán ta, một dân nghèo đã đón nhận ta. Ai đã cắt xẻo ta. Một tên vua. Ai chữa chạy và nuôi nấng ta. Một người chết đói.
Ta là huân tước Clăngsacli nhưng ta vẫn là Guynplên.
Ta nguồn gốc quyền quý, nhưng ta thuộc tầng lớp hèn mọn. Ta sống giữa những kẻ hưởng thụ và cùng với những người đau khổ. Ôi! Xã hội này giả dối. Rồi một ngày kia xã hội thật sẽ đến. Lúc ấy sẽ không còn quí tộc, mà sẽ có những con người tự do. Sẽ không còn ai là chủ nữa, mà chỉ có những người cha. Đấy là tương lai.
Không còn quì lạy, không còn thấp hèn, không còn dốt nát, không còn người ngựa, không còn nịnh thần, không còn đầy tớ, không còn vua chúa, đấy là ánh sáng! Trong khi chờ đợi, có ta đây. Ta có một quyền hạn, ta phải sử dụng nó. Có phải là quyền hạn không. Không, nếu ta sử dụng nó cho riêng ta. Phải, nếu ta sử dụng nó vì tất cả mọi người. Ta sẽ nói với các huân tước, vì ta là một huân tước. Hỡi các người anh em ở tầng lớp dưới, ta sẽ nói với họ về cảnh trần trụi xơ xác của anh em. Ta sẽ đứng thẳng người với nắm áo quần rách mướp của nhân dân trong tay, ta sẽ vung cái cùng khổ của nô lệ vào mặt những ông chủ; là kẻ được ưu đãi và kiêu căng, họ sẽ không thể trút bỏ được hình ảnh những người bất hạnh, là những ông hoàng bà chúa, họ sẽ không thể thoát được cảnh đau xót nhức nhối của người nghèo và mặc xác nếu có chấy có rận, và càng hay nếu chấy rận rơi xuống đầu sư tử!
Nói đến đây, Guynplên ngoảnh lại phía các viên phó thư ký đang quì gối viết, trên bao len thứ tư.
– Những người đang quì kia là thế nào? Các người làm gì đấy? Đứng lên, các anh là những con người.
Tiếng gọi đột ngột ấy, đối với những kẻ dưới mà một huân tước không được cả phép nhìn, làm mọi người vui nhộn đến tột độ. Chỗ này hoan hô, chỗ kia reo hò! Từ vỗ tay chuyển sang dậm chân. Tưởng như đang ngồi trong nhà hát Hộp Xanh. Chỉ khác là ở Hộp Xanh tiếng cười hoan nghênh Guynplên, còn ở đây tiếng cười lại tiêu diệt nó. Giết chết, đó là cố gắng lố bịch. Tiếng cười của con người đôi khi làm hết sức mình để sát hại.
Tiếng cười đã trở thành một hành vi bạo ngược. Những lời nhạo báng trút xuống như mưa. Trong các cuộc hội nghị, ngu xuẩn thường làm ra vẻ tài trí. Tiếng cười nhạo báng khôn khéo và ngu si của họ gạt bỏ sự việc chứ không nghiên cứu, và đáng lý phải giải quyết thì lại bài xích các vấn đề. Một sự kiện xảy ra là một dấu hỏi. Cười nó là cười điều bí ẩn. Con nhân sư, không cười, đứng sau lưng.
Có nhiều tiếng gào thét mâu thuẫn nhau:
– Thôi! Thôi!
– Nữa đi! Nữa đi!
Uynliam Facmơ, nam tước Lemxte, hắt vào mặt Guynplên lời nhục mạ của Rix-Quinê đối với Sêcxpia:
– Histrio! Mama![164]
Huân tước Vôgan, con người ưa lên giọng kẻ cả, ngồi thứ hai mươi chín trên ghế nam tước, gào to:
– Thế là chúng ta lại trở về cái thời đại súc vật ba hoa lải nhải rồi, Một cái hàm thú cất tiếng giữa bao nhiêu miệng người.
– Chúng ta hãy lắng nghe con lừa Balaam nói – huân tước Yacmao thêm luôn.
Huân tước Yacmao có vẻ sắc sảo linh lợi với cái mũi tròn và cái mồm méo xệch.Tên phản loạn Linơx đã bị trừng trị trong mồ, thằng con là hình phạt của thằng bố. Gion Hóp, giám mục Lisfin và Côvơntơry, mà Guynplên đã đả động đến khoản thánh lộc, lên tiếng. Nó nói dối, huân tước Sonlây, luật gia lập pháp khẳng định. Cái mà nó gọi là tra tấn, chính là hình phạt mạnh và cứng, một hình phạt rất tốt, ở nước Anh không hề có tra tấn.
Tômax Venvor, nam tước Rêby, gọi ngài tể tướng:
– Huân tước tể tướng, bế mạc phiên họp đi thôi?
Lớp huân tước trẻ hét:
– Không ? Không ! Không ! Cứ để nó nói tiếp ! Nó làm vui cho chúng ta mà ? Hura ! ếp! ếp ! ếp ‘
Vui thích của họ trở thành điên cuồng. Đặc biệt có bốn người, vừa cười ngặt nghẽo vừa tức tối cực độ. Đấy là Lorenx Halđơ, bá tước Rôsextơ, Tômax Tơptơn, bá tước Tanê, tử tước Hattơn và công tước Môđgtagu.
– Vào cũi ngay, Guynplên?- Rôsextơ nói.
– Đả đảo! Đả đảo! Đả đảo! – Tanê hét.
Tử tước Hattơn móc ở túi ra một penny vút cho Guynplên.
Còn Gion Căngben, bá tước Grinuych, Xavagiơ, bá tước Rivơ, Tomxơn, nam tước Hêvơsam, Oarinhtơn, Excric, Ronlextơn, Rokingam, Cactơrê, Lăngđên, Banextơ Mênh, Hânxđơn, Caeancvơn, Cavendls, Bơchnhtơn, Rôbơc Đacxy, bá tước Honđơnex, Ong Uynxơ, bá tước Plalmao, thì vỗ tay hoan nghênh.
Đây là cảnh huyên náo của thủ đô âm phủ hoặc của đền thờ vĩ nhân, trong đó tiếng nói của Guynplên đã bị át mất. Người ta chỉ nhận được hai tiếng: Coi chừng!
Ranph, công tước Môngtagu, vừa ở Ocxfoc ra và hãy còn lún phún lớp ria măng, từ hàng ghế công tước bước xuống khỏi chỗ y ngồi, chỗ thứ mưới chín, và đến đứng khoanh tay trước mặt Guynplên. Lưỡi dao có chỗ sắc nhất thì trong giọng nói cũng có âm sắc cay độc nhất.
Môngtagu chọn âm sắc đó và, cười khẩy vào mũi Guynplên, hắn hỏi to:
– Mày nói cái gì?
– Ta tiên đoán. – Guynplên đáp.
Tiếng cười lại bùng lên. Và dưới tiếng cười đó là sự tức giận trầm lắng kéo dài. Một trong số các nguyên lão vị thành niên, Lalonen Granxin, bá tước Đorxê và Mitđơnxêc, đứng hẳn lên trên ghế, không cười, trang nghiêm đáng mặt một nhà lập pháp tương lai và, chẳng nói chẳng rằng, nhún vai nhìn Guynplên với bộ mặt non choẹt mười hai tuổi. Thấy vậy giám mục Xên-asap liền cúi sát vào tai giám mục xên Đêvit ngồi cạnh, rồi vừa nói vừa chỉ Guynplên:
– Đấy là thằng điên? – và vừa chỉ thằng bé – Kia là quân tử!
Từ cái mớ hổ lốn cười nói nhạo báng ấy nổi lên những tiếng hét rất hỗn tạp:
– Đồ mật tổ ong bầu!
– Chuyện gì mà lạ kỳ thế. Một sự thoá mạ Nghị viện. Một con người thế kia quả là một biệt lệ kỳ quan. Nhục nhã! Nhục nhã!
– Bế mạc phiên họp thôi.
– Không, cứ để nó nói hết!
– Nói đi, thằng hề!
Huân tước Lêvix đơ Đuyrax, hai tay chống nạnh, hét to:
– Ôi, không còn gì khoái trá bằng cười! Sướng cho cái lá lách của tôi quá! Tôi đề nghị lấy biểu quyết lời cảm tạ sau đây: Nguyên lão nghị viện có lời cảm ơn Hộp Xanh.
Guynplên, ta còn nhớ, đã ước mơ một cảnh đón tiếp khác thế.
Ai đã từng trèo một cái dốc cát dựng đứng dễ sụt, trên một vực sâu thăm thẳm, ai đã từng cảm thấy dưới bàn tay mình, dưới ngón tay mình, dưới khuỷu tay mình, dưới đầu gối mình, dưới bàn chân mình, cứ tuồn tuột biến mất cái điểm tựa, ai là người đáng lý tiến dần trên cái dốc cheo leo ương ngạnh nhưng lại tụt xuống, nơm nớp lo bị trôi tuột, đáng lẽ trèo lên lại lún xuống, đáng lẽ đi lên lại tụt xuống, càng cố hướng tới đỉnh lại càng tăng thêm khả năng chìm ngập, và cứ mỗi bước định thoát khỏi tai hoạ lại càng thấy nguy khốn thêm một ít nữa, ai đã thấy vực sâu khủng khiếp đến gần, và đã có trong xương tủy cảm giác ớn lạnh rùng rợn khi rơi xuống, phía dưới là cái mõm rộng hoác, người ấy đã gặp phải những điều Guynplên đang gặp.
Nó cảm thấy con đường đi lên của nó đang sụt lở dưới chân, và thính giả của nó là một vực thẳm.
Bao giờ cũng có một người nói lên được cái từ bao hàm đủ mọi ý. Huân tước Xcacđơn diễn đạt thành một tiếng thét cảm nghĩ của toàn thể hội nghị.
– Con quái vật kia nó đến đây làm gì?
Guynplên thẳng ngươi lên, luống cuống, giận sôi lên, toàn thân run bần tật, Nó nhìn hằm hằm vào toàn thể mọi người.
– Tôi đến đây làm gì à? Tôi đến để gieo rắc hãi hùng. Các ngài bảo tôi là con quái vật ư? Không, tôi là quần chúng nhân dân. Tôi mà là biệt lệ à? Không, tôi là toàn thể mọi người. Chính các ngài mới là biệt lệ. Các ngài là hão huyền, còn tôi là thực tế. Tôi là Con Người. Tôi là Thằng Cười khủng khiếp. Cười cái gì? Cười các ngài. Cười bản thân. Cười tất cả. Cái cười của nó là gì? Là tội ác của các ngài, là cực hình của nó. Tội ác ấy, nó quẳng vào mặt các ngài; cực hình ấy nó nhổ vào mặt các ngài. Tôi cười, có nghĩa là: Tôi khóc.
Guynplên dừng lại. Mọi người im lặng. Tiếng cười vẫn tiếp tục nhưng khẽ thôi. Guynplên có thể cho đấy là một thái độ chăm chú mới. Nó lấy lại hơi và nói tiếp:
– Cái cười trên trán tôi đây, chính một nhà vua đã đặt nó lên đấy. Cái cười ấy biểu thị nỗi đau khổ của toàn dân. Cái cười ấy có nghĩa là căm thù, là im lặng bắt buộc, là phẫn nộ, là thất vọng. Cái cười ấy là một sản phẩm của tra tấn. Cái cười đó là một cái cười của vũ lực. Nếu Sa-tăng có cái cười ấy thì cái cười ấy sẽ kết tội Chúa. Nhưng vĩnh cửu có bao giờ giống những gì có thể bị diệt vong; vì nó tuyệt đối, nên có công minh; và Chúa trời rất ghét những việc làm của vua chúa. Hừ! Các người bảo tôi là một biệt lệ! Tôi là một biểu tượng. Hỡi những kẻ ngu ngốc quyền uy rất mực là các ngài, hãy mở to mắt ra. Tôi là hiện thân của tất cả. Tôi tượng trưng cho nhân loại đúng như Chúa đã sáng tạo nên. Con người là một kẻ bị tùng xẻo. Điều người ta đã làm đối với tôi, người ta cũng đã làm đối với nhân loại. Người ta đã bóp méo luật pháp, công lý, sự thật, lẽ phải, trí tuệ của nhân loại, cũng như đã làm biến dạng đôi mắt, cánh mũi và hai tai của tôi. Cũng như đối với tôi, họ đã đổ vào lòng nhân loại một đống bùn phẫn nộ, đau thương và đeo lên mặt nhân loại một cái mặt nạ thỏa mãn. Nơi nào ngón tay của Chúa đặt lên, nơi ấy móng vuốt của nhà vua đều cắm xuống. Một sự chồng xếp thật kỳ quặc. Các ngài giám mục, các vị nguyên lão và các bậc hoàng thân, nhân dân là người đau khổ sâu sắc luôn cười vui trên mặt. Các ngài huân tước, tôi nói để các ngài rõ, nhân dân chính là tôi. Hôm nay các ngài áp bức họ, hôm nay các ngài la ó tôi. Nhưng tương lai là cảnh băng tan núi lở buồn thảm. Cái bề ngoài rắn chắc sẽ bị chìm ngập. Một tiếng răng rắc, thế là xong hết. Sẽ đến giờ phút mà một biến động phá tan sự đè nén của các ngài, một tiếng gầm sẽ đáp lại những tiếng hò hét của các ngài. Giờ phút ấy đã đến rồi – cha ơi, cha đã sống trong giờ phút ấy – giờ phút ấy của Chúa đã đến, và mang tên là Chế độ Cộng hòa. Người ta đã trục xuất nó, nhưng rồi nó sẽ trở lại. Trong khi chờ đợi, các ngài hãy nhớ rằng cái xâu vua chúa vũ trang bằng kiếm đã bị Cromoen vũ trang bằng rìu làm cho gián đoạn. Các ngài hãy run sợ đi. Những giải pháp cứng rắn đang đến gần, những móng tay bị cắt cụt đang mọc lại, những cái lưỡi bị cắt đang vút bổng, trở thành những ngọn lửa tung bay đến những vùng u minh tối tăm, và gào thét trong chốn vô biên; những người đói khát đang nhe những hàm răng thất nghiệp, những thiên đường xây dựng trên địa ngục đang ngả nghiêng, người ta đang đau khổ, người ta đang đau khổ, người ta đang đau khổ, và cái ở trên đang nghiêng ngả, cái ở dưới đang hé mở, bóng tối đòi hỏi trở thành ánh sáng, người bị đoạ đầy tranh giành với kẻ được ân phúc, chính nhân dân đang đến. Tôi bảo với các ngài như thế, chính con người đang đi lên, chính giờ phút cuối cùng đang bắt đầu, chính đấy là bình minh đỏ rực của tai hoạ, và đấy là những gì chứa đựng trong cái cười này, cái cười mà các ngài đang chế giễu. Luân Đôn là một nơi hội hè lên miên không dứt. Được. Nước Anh luôn luôn là cảnh tung hô. Phải.
Nhưng các ngài hãy nghe tôi nói đây: Tất cả những gì các ngài trông thấy đều là tôi. Các ngài có hội hè, đấy là tiếng cười của tôi. Các ngài có những cuộc vui công cộng, đấy là tiếng cười của tôi. Các ngài có những đám cưới, những lễ thụ chức, những dịp đăng quang, đấy là tiếng cười của tôi. Các ngài có những ngày sinh hoàng tử, đấy là tiếng cười của tôi. Dưới chân, các ngài có sấm sét, đấy là tiếng cười của tôi.
Làm sao chịu đựng nổi những lời như vậy! Tiếng cười lại bắt đầu, lần này dữ dội hơn. Trong tất cả các loại nham thạch mà mồm con người, cái miệng núi lửa ấy phun ra, thứ nóng rát nhất là vui nhộn, gây đau khổ một cách vui vẻ, không đám đông nào tránh khỏi cái bệnh lây lan ấy. Không phải thứ hành quyết nào cũng đều diễn ra trên đoạn đầu đài, con người khi tụ tập lại, dù là đám đông quần chúng hay hội nghị, đều có một tên đao phủ đứng giữa, luôn luôn trong tư thế sẵn sàng, đấy là lối nói châm chọc. Không cực hình nào có thể so sánh với cực hình của kẻ khốn khổ đáng buồn cười. Cực hình ấy, Guynplên đang chịu đựng. Trò vui nhộn, trên người nó, như đá ném, như đạn xuyên tới tấp. Nó là đồ chơi, là hình nhân, là cái đầu Thổ Nhĩ Kỳ, là bia bắn.
Người ta nhảy cẫng lên, người ta la hét bix, bix[165] người ta xô đẩy nhau. Người ta dậm chân. Người ta túm lấy lá sen của nhau. Tính chất trang nghiêm của địa điểm, màu đỏ áo thụng, vẻ trong trắng của những giải lông chồn, những bộ tóc giả đồ sộ, đều không làm gì nổi.
Huân tước cười, giám mục cười, thẩm phán cười. Hàng ghế ông già hết nhăn nhó, hàng ghế trẻ con ôm bụng. Tổng giám mục Cantơbiury hích tổng giám mục York, Henry Côngtơn, hai tay ôm chặt mạng mỡ. Huân tước tể tướng nhìn xuống, có lẽ để che dấu nụ cười. Và ở chỗ rào chắn, bức tượng tôn nghiêm, hoàng môn quan đũa đen, cười.
Guynplên, tái mét, đã khoanh tay lại; đứng giữa tất cả những bộ mặt kia, trẻ có, già có, toe toét nét vui nhộn của Hôme, trong cơn lốc vỗ tay dậm chân và reo hò ấy, bên cạnh cuồng điên hài hước mà nó là trung tâm kia, giữa sự bộc lộ hoan hỉ cùng cực ấy, giữa không khí hớn hở rộng khắp ấy, nó cảm thấy lòng nó giá lạnh như mồ ma. Thế là hết. Nó không còn đủ sức để làm chủ bộ mặt đang phản bội nó, cũng như đám thính giả đang sỉ nhục nó. Chưa bao giờ định luật muôn đời không tránh khỏi, tính hài hước gắn chặt với tính bi hùng, tiếng cười vang theo tiếng rống, sự nhại đùa cười trên lưng thất vọng, cái nghịch nghĩa giữa bề ngoài và sự thực, lại nổ ra khủng khiếp hơn thế. Chưa bao giờ một ánh sáng le lói soi rọi vào chỗ tối tăm sâu thẳm của con người lại thê thảm rùng rợn hơn.
Guynplên tham gia vào cảnh tan vỡ hoàn toàn của số phận nó bằng một tràng cười ha hả. Điểm không phương cứu chữa là đấy. Ngã xuống còn đứng dậy nổi, nhưng bị dẫm nát thì không tài nào đứng dậy được. Lối nhạo báng phi lý và tột cùng đang bóp nát nó thành cát bụi. Từ nay không thể làm gì nữa. Mọi việc đều tuỳ thuộc môi trường. Cái làm nên chiến thắng ở Hộp Xanh lại là thất bại và tai ương ở nghị viện nguyên lão. Ở kia là hò reo, ở đây lại là chửi rủa. Nó cảm thấy một cái gì như bề trái chiếc mặt nạ của nó. Bên này, chiếc mặt nạ có cảm tình của dân chúng tiếp nhận Guynplên, bên kia, sự căm hờn của lớp người cao quý gạt bỏ huân tước Fecmên Clăngsacli. Một bên là lực hút, một bên là sức đẩy cả hai đều kéo nó vào bóng tối. Nó tự cảm thấy như bị đánh trộm. Số kiếp thường gặp những miếng đòn phản bội. Sau này tất cả sẽ sáng tỏ, nhưng trong lúc chờ đợi thì vận mệnh là cạm bẫy và con người luôn luôn rơi vào những cái bẫy mới. Nó những tưởng đi hết, tiếng cười kia lại đón tiếp nó; việc hiển thánh thường có những kết quả thật rùng rợn. Có một từ ngữ buồn thảm là giã rượu. Bi đát thay điều khôn ngoan rút ra được sau khi giã rượu. Bị vây bọc giữa cơn bão táp vui nhộn và độc ác ấy. Guynplên ngẫm nghĩ.
Cái cười điên loạn bao giờ cũng được buông lỏng. Một cuộc hội nghị vui nhộn là chiếc la bàn hỏng. Người ta không còn biết đi dâu, cũng không biết đang làm gì nữa. Đành phải bế mạc phiên họp.
Huân tước tể tướng” biết trước sự việc”, liền hoãn việc biểu quyết tiếp sang hôm sau. Nghị viện chia tay nhau. Các huân tước cúi chào chiếc vương kỷ rồi đi ra. Tiếng cười vẫn kéo dài rồi tắt dần trong các hàng lang. Các cuộc họp, ngoài những cửa chính thức, qua các thảm thêu, góc tường, ngách cột, vẫn có đủ loại cửa kín đáo để giải tán, y như một cái vại rút hết nước qua các kẽ nứt. Trong chốc lát căn phòng đã vắng ngắt. Rất nhanh và gần như không có chuyển tiếp. Nhưng nơi ồn ào nhộn nhịp ấy lập tức trở lại yên tĩnh.
Trạng thái chìm đắm trong mơ màng thường dẫn đi xa, và do nghĩ ngợi quá, cuối cùng người ta như lạc đến một hành tinh khác. Guynplên thình lình như tỉnh giấc.
Nó đứng một mình. Căn phòng trống rỗng. Từ nãy nó không thấy cả việc phiên họp đã bế mạc. Tất cả các nguyên lão đã biến mất, cả hai vị đỡ đầu của nó. Chỉ lác đác đây đó vài ba quan chức thấp kém của nghị viện, chờ “ngài lãnh chúa” ra về, để trải bọc ghế và tắt đèn.
Như một cái máy, nó đội mũ lên đầu, rời khỏi ghế, và đi về phía cái cửa lớn mở ra du lang. Đúng lúc nó bước qua chỗ rào chắn, một tên gác cửa cởi bỏ cho nó chiếc áo nguyên lão. Việc ấy nó hầu như không cảm thấy. Lát sau nó đã ở trong du lang.
Những người phục vụ có mặt ở đấy ngạc nhiên nhận thấy vị huân tước đi ra mà không chào ngai vua.
Chú thích:
[161] Một loại áo dài mặc ngoài của người Ukrain
[162] Ngọn Thần Sơn ở Hy Lạp nhìn thấy đỉnh Côcaz
[163] Mirabô (Mirabeau 1749-1791): nhà đại hùng biện thời cách mạng Pháp. có tài hùng biện đặc biệt và trí sáng suốt về chính trị, nhưng không thành công trong sự điều giải quân quyền và cách mạng.
[164] Tên hát rong! Thằng hề!
[165] Bix (bis): tiếng hò reo thường dùng yêu cầu diễn viên diễn lại một tiết mục

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.