Tâm lý học căn bản
Chương 11 – Phần 3
II. CÁC KHẢO HƯỚNG NÉT NHÂN CÁCH, TIẾN TRÌNH HỌC TẬP VÀ NHÂN BẢN – THĂM DÒ NHÂN CÁCH HAY CÁ TÍNH
Sue nói: “Hãy kể tôi nghe về Lee đi.”
“Ồ anh ấy thật tuyệt vời. Anh ấy quả thật là anh chàng khả ái nhất mà tôi biết đấy hết sức dễ thương đối với mọi người. Dường như chẳng bao giờ thấy anh ấy nổi khùng cả. Anh ấy vô cùng điềm tỉnh trước mọi việc. Và anh ấy cũng thật khôn ngoan nữa. Chỉ có một điểm tôi không thích là anh ấy cứ luôn luôn vội vàng làm cho xong mọi việc; dường như anh có nguồn năng lực vô tận, hơn tôi rất nhiều.”
Sue đáp: “Anh ấy có vẻ hợp với tôi đấy, đặc biệt khác với Richard. Richard quá vị kỷ và kiêu ngạo đến mức tôi phát điên lên. Đôi khi tôi tự hỏi không biết tại sao mình lại đi chơi với anh ấy.”
Khả ái, Điềm đạm, Khôn khéo, Dồi dào sinh lực, Vị kỷ, Kiêu căng.
Nếu phải phân tích cuộc đối thoại vừa đề cập, thì điểm đầu tiên chúng ta sẽ chú ý đến là nó bao gồm một loạt các đặc điểm nhân cách của hai cá nhân được bình phẩm trong câu chuyện. Thực tế, hầu hết việc tìm hiểu của chúng về nguyên nhân đằng sau hành vi của người khác đều căn cứ vào tiền đề cho rằng mọi người đều có một số nét nhân cách giả định là nhất quán qua các tình huống khác nhau. Một số lý thuyết chính thức về nhân cách hay cá nhân đều vận dụng khảo hướng này tuy có khác nhau chút ít. Bây giờ chúng ta thảo luận các lý thuyết này và các lý thuyết nhân cách khác, tất cả các lý thuyết này đều cống hiến các quan điểm khác với việc nhấn mạnh vào các tiến trình vô thức của lý thuyết phân tâm trong việc quy đinh tác phong cư xử của con người.
1. Các lý thuyết nét nhân cách: Gọi tên nhân cách hay cá tính
Nếu có ai đó yêu cầu bạn nêu ra các đặc điểm của một người khác, có lẽ – giống như hai nhân vật trong cuộc đối thoại vừa đề cập – bạn sẽ đưa một liệt kê bao gồm các phẩm chất cá nhân của người ấy theo quan điểm của bạn. Nhưng làm sao bạn biết được những tính chất nào quan trọng nhất cho việc quy định hành vi ứng xử của người ấy?
Các nhà tâm lý chuyên về nhân cách hay cá tính đã nêu ra các câu hỏi tương tự như thế cho chính họ. Để trả lời, họ đã xây dựng một mô hình tế nhị về nhân cách hay cá tính gọi là lý thuyết nét nhân cách (traist theory). Nét nhân cách (traits) là những chiều kích bền vững gồm các đặc điểm nhân cách hay cá tính nhờ để phân biệt được người này với người khác.
Các lý thuyết gia nét nhân cách không giả định rằng một số người có một vài nét nhân cách trong khi những người khác không có; đúng ra, họ cho rằng tất cả một người đều có chung một số nét, nhưng lại khác nhau về mức độ biểu lộ mà thôi. Thí dụ, bạn có thể khá thân thiện khả ái, còn tôi có thể không được thân thiện mấy. Nhưng cả hai chúng ta đều có chung nét “thân thiện khả ái”, dù bạn sẽ được đánh giá cao hơn tôi. Thách đố chủ yếu đối với các lý thuyết gia theo khảo hướng này là phải nhận diện cho được các nét nhân cách đặc thù chủ yếu nào cần thiết cho việc miêu tả nhân cách hay cá tính. Như chúng ta sẽ thấy, các lý thuyết gia đưa ra các bảng liệt kê khác biệt nhau đến kỳ lạ.
a. Lý thuyết nét nhân cách của Allpot: Nhận diện các nét căn bản: Khi cẩn thận lật từng trang của một từ điển chưa hoàn toàn đầy đủ, nhà tâm lý chuyên về nhân cách Gordon Allport tính ra có đến 18.000 từ và cụm từ có thể dùng để miêu tả nhân cách hay cá tính. Mặc dù có thể giảm bảng liệt kê ấy xuống chỉ còn 4.500 hình dung từ bằng cách loại bỏ các từ đồng nghĩa đi, nhưng hiển nhiên Allport vẫn còn phải giải quyết một vấn đề có tính quyết định đối với mọi lý thuyết nét nhân cách là: Các từ nào trong số các hình dung từ ấy là từ căn bản nhất?
Allport trả lời câu hỏi này bằng cách cho rằng có ba loại nét nhân cách căn bản: nét chủ yếu, nét trung tâm, và nét thứ yếu. Nét nhân cách chủ yếu (cardinal trait) là đặc điểm duy nhất chi phối hầu hết mọi hành động của một người. Thí dụ, một phụ nữ có đức tính vị tha triệt để sẽ hướng toàn bộ năng lực của mình vào các hoạt động nhân đạo; còn một người khao khát quyền lực mạnh mẽ sẽ bị thúc đẩy tiêu pha hết mọi năng lực của mình để phục vụ cho nhu cầu chỉ huy người khác.
Tuy nhiên, không phải ai cũng phát triển được các nét nhân cách chủ yếu đến mức hoàn thiện, mà hầu hết mọi người đều sở đắc một vài nét nhân cách trung tâm để hình thành cốt lõi nhân cách hay cá tính. Các nét nhân cách trung tâm (central traits), như tính lương thiện và chan hòa chẳng hạn, là các đặc điểm chủ yếu của mỗi người; thông thường bất kỳ cá nhân nào cũng có 5 đến 10 nét nhân cách trung tâm. Sau cùng, các nét nhân cách thứ yếu (secondary traits) là các đặc điểm ảnh hưởng đến hành vi ứng xử trong một số ít tình huống và kém quan trọng hơn so với các nét trung tâm hay chủ yếu. Thí dụ, thích nước đá hơn kem hoặc không thích – nghệ thuật hiện đại được xem là các nét nhân cách thứ yếu.
Hình 11–2: Các thiên hướng nhân cách của các nét nguồn gốc được Cattell xây dựng cho ba nhóm đối tượng: phi công, nghệ sĩ sáng tạo, và nhà văn. Điểm sốt trung bình của dân số tổng quát ở giữa khoảng từ 4,5 điểm đến 6 điểm. (Phỏng theo tác phẩm Handbook for the 16PF, bản quyền 1970 thuộc Viện trắc nghiệm nhân cách và năng lực. Được phép trích dẫn).
b. Các lý thuyết của Cattell và Eysenck: Giảm lược nhân cách hay cá tính.
Những nỗ lực gần đây nhằm khám phá các nét nhân cách chủ yếu đã chú trọng đến một kỹ thuật thống kê gọi là phân tích thừa số. Phân tích thừa số (factor analysis) là một phương pháp đúc kết các mối liên hệ giữa rất nhiều biến cố thành một vài khuôn mẫu tổng quát hơn. Thí dụ, nhà nghiên cứu nhân cách có thể phân phát một bảng câu hỏi cho nhiều đối tượng yêu cầu họ tự miêu tả theo một bảng kê gồm rất nhiều nét nhân cách hay cá tính. Nhờ phối hợp các câu trả lời theo phương pháp thống kê và đánh giá các nét nhân cách nào liên hệ với nhau ở cùng một con người, nhà nghiên cứu có thể nhận diện được các khuôn mẫu hay phối hợp nét nhân cách căn bản nhất – gọi là yếu tố giản lược – của từng đối tượng.
Vận dụng phân tích thừa số, nhà tâm lý nhân cách Raymond Catell (1967) cho rằng các đặc điểm có thể quan sát được trong một tình huống nhất định gồm có 46 nét nhân cách bề ngoài (surface traits), hay 46 nhóm hành vi có liên hệ với nhau. Thí dụ, bạn có thể gặp được một viên thủ thư thân thiện, cởi mở, ông này hết lòng giúp đỡ bạn; và từ các tương tác giữa bạn với ông ta, bạn xác định rằng ông ta có tính chan hòa, dễ thân thiện – theo cách gọi của Cattell, là một nét nhân cách bề ngoài.
Nhưng các nét nhân cách bề ngoài ấy căn cứ vào nhận định của người ngoài và các đặc trưng nhân cách của đối tượng; chúng không nhất thiết cống hiến một miêu tả sáng tỏ nhất về các chiều kích nhân cách ấn bản làm nguồn gốc cho mọi hành vi cư xử của con người. Tiến hành phân tích thừa số sâu rộng hơn, Cattell khám phá được 10 nét nhân cách nguồn gốc (source traits) biểu trưng cho các chiều kích nhân cách căn bản. Vận dụng các nét nhân cách nguồn gốc này, ông xây dựng được bảng vấn đáp gồm 16 yếu tố nhân cách (sixteen personality factor questionaire, viết tắt là 16 PF), là một biện pháp đánh giá từng nét nhân cách nguồn gốc. Hình 11–2 trình bày một mẫu tính điểm số trung bình cho từng nét nhân cách nguồn gốc đối với ba nhóm đối tượng – phi công, nghệ sĩ sáng tạo, và nhà văn.
Một lý thuyết gia nét nhân cách khác là nhà tâm lý Hans Eysenck (1975; Eysenek & Eysenck, 1985) cũng sử dụng phân tích thừa số để nhận diện các mẫu người về mặt nét nhân cách, nhưng ông lại đi đến một kết luận hoàn toàn khác biệt về bản chất nhân cách. Ông khám phá rằng nhân cách hay cá nhân có thể được miêu tả sáng tỏ nhất theo hai chiều kích quan trọng duy nhất là: chiều hướng nội và hướng ngoại (introversion–extroversion), và chiều dao động và ổn định (neurotidsm–stability). Ở một thái cực của chiều kích hướng nội – hướng ngoại là những người thầm lặng, thận trọng, suy tư, và ức chế (những người hướng nội); và ở thái cực kia là những người cởi mở, chan hòa, và năng động (những người hướng ngoại). Độc lập với chiều kích trên, người ta có thể được đánh giá là dễ dao động tính khí thất thường, dễ nổi giận, nhạy cảm) ngược lại với tính khí ôn định quân bình (điềm tĩnh, đáng tin cậy, tính khí ôn hòa). Nhờ đánh giá con người theo hai chiều ích này. Eysenck có thể tiên đoán chính xác hành vi ứng xử của họ trong rất nhiều tình huống khác nhau (xem hình 11–3).
Các nghiên cứu mới đây nhất về nét nhân cách cho rằng cốt lõi của nhân cách hay cá tính bao gồm 5 yếu tố nét nhân cách phổ quát. Năm yếu tố này là: Khoáng đạt (surgency – hướng ngoại và dễ dãi), dễ xúc động (neuroticism – tính bất ổn định về mặt xúc cảm). khôn khéo (intellect), hòa thuận (agreableness), và tận tâm (conscientiousness). Mặc dù các lý thuyết gia nét nhân cách ngày càng nhất trí với nhau về tầm quan trọng của năm yếu tố này, song các chứng cứ cũng còn lâu mới dứt khoát. Do đó, con số và cách phân loại cụ thể về nét nhân cách vẫn còn là nguyên nhân gây tranh cãi (và là đề tài nghiên cứu) giữa các lý thuyết gia về nét nhân cách.
b. Đánh giá các lý thuyết nét nhân cách: Các lý thuyết nét nhân cách có một số ưu điểm. Chúng đưa ra một lối giải thích đơn giản và sáng tỏ về tính nhất quán trong hành vi cư xử của con người. Ngoài ra, các nét nhân cách còn giúp chúng ta dễ dàng so sánh người nay với người khác. Nhờ các ưu điểm này, các quan điểm về nét nhân cách có ảnh hưởng quan trọng về mặt thực tiễn đối với việc xây dựng một số biện pháp đánh giá nhân cách hay cá tính mà chúng ta sẽ đề cập sau trong chương này.
Ngược lại, các lý thuyết này cũng vấp phải một số nhược điểm. Chẳng hạn, chúng ta đã thấy nhiều lý thuyết nét nhân cách khi miêu tả nhân cách hay cá tính đã đi đến các kết luận hoàn toàn khác biệt nhau về những nét nhân cách nào căn bản và nổi bật nhất. Tình trạng khó mà xác định được lý thuyết nào chính xác nhất đã khiến cho một số nhà tâm lý chuyên về nhân cách nói chung nghi ngờ giá trị của các khái niệm nét nhân cách.
Thực ra, các lý thuyết này đã vấp phải một nhược điểm còn căn bản hơn nữa. Ngay trong trường hợp có thể nhận diện được một nhóm nét nhân cách chủ yếu đi nữa, chúng ta cũng chỉ mới gọi được tên hay miêu tả nhân cách – chứ không giải thích được hành vi ứng xử của con người. Nêu nói rằng ai đó đã hiến tặng tiền của cho cơ quan từ thiện bởi vì người ấy có tính hào phóng, thì trước hết chúng ta vẫn chưa biết được nguyên nhân khiến cho người ấy trở thành hào phóng, hoặc các lý do khiến cho người ấy biểu lộ tính hào phóng trong một tình huống nhất định. Như vậy theo quan điểm của một số người chỉ trích, các lý thuyết nét nhân cách không đưa ra được cách lý giải cho hành vi ứng xử, mà chỉ đơn thuần miêu tả nó mà thôi.
c. Phải chăng nhân cách hay cá tính chỉ là hư cấu? Nhân cách ngược lại hoàn cảnh.
Các bài bác đối với các lý thuyết nét nhân cách đã khiến cho một số nhà tâm lý nảy sinh nghi vấn căn bản đối với toàn bộ lãnh vực nhân cách: Phải chăng trên thực tế hành vi ứng xứ có tính nhất quán qua các tình huống khác nhau, như các quan điểm nét nhân cách chủ trương? Chẳng hạn, lý thuyết gia nét nhân cách làm sao giải thích được hành vi ứng xử của John Gotti miêu tả ở đầu chương này? Nỗ lực trả lời câu hỏi này là một trong những vấn đề khuấy động và gây tranh cãi nhiều nhất trong số những nhà tâm lý chuyên về nhân cách.
Hình 11–3: Theo Eysenck, nhân cách có thể được nhận xét theo hai chiều kích: chiều kích hướng nội – hướng ngoại và chiều kích dao động – ổn định. Còn các đặc điểm nhân cách hay cá tính khác có thể xếp loại theo một vòng tròn như phác họa ở đây.
Vào cuối thập niên 1960, khi duyệt lại các tác phẩm bàn về tính vững chắc của mối quan hệ giữa các nét nhân cách hay cá tính với hành vi ứng xử của con người, nhà tâm lý chuyên về nhân cách Walter Mischel khám phá được một tình huống kỳ lạ; các nét nhân cách phổ biến chỉ có thể vận dụng để giải thích được một phần ít, không quan trọng thuộc hành vi ứng xử của con người. Ngược lại, dường như theo Mischel hầu hết các hành vi ứng xử đều có thể giải thích phần lớn bởi bản chất của tình huống mà con người đang lâm vào – chứ không bằng nhân cách hay cá tính của họ.
Quan điểm của Mischel đã thổi bùng ngọn lửa tranh cãi đến nay vẫn còn tiếp diễn vốn là một trong những vấn đề quan trọng gây chia rẽ giữa các lý thuyết gia chuyên về nhân cách hay cá tính, tức là vấn đề liệu hành vi ứng xử của con người bị tác động đến mức độ nào bởi nhân cách hay cá tính so với các nhân tố hoàn cảnh. Về một phe trong cuộc tranh luận là các lý thuyết gia theo quan điểm nhân cách truyền thống. Các vị này lập luận rằng nếu được đánh giá đúng đắn, các nét nhân cách sẽ cống hiến một lý giải giá trị về hành vi ứng xử qua nhiều tình huống khác nhau. Chẳng hạn, Seymour Epstein cho rằng cần phải tìm hiểu hành vi ứng xử lặp đi lặp lại qua nhiều bối cảnh và thời gian để có được một bức tranh thực sự về mức độ biểu lộ nhất quán. Khi thực hiện việc này – một nhóm đối tượng được đánh giá nhiều lần qua một thời kỳ kéo dài nhiều tháng – người ta khám phá được các dấu hiệu vững chắc về tính nhất quán, ngược lại chủ trương của Mischel.
Đáp lại Mischel cho rằng dù những người phê phán ông có thể chứng minh được tính nhất quán qua thời gian nhưng họ vẫn chưa chứng minh được tính nhất quán qua các bối cảnh. Chẳng hạn, một trưởng phòng có thể ngày nào cũng quen thói mắng chửi nhân viên, do đó tỏ ra nhất quán qua thời gian, nhưng lại không dám xúc phạm thượng cấp – chứng tỏ tính bất nhất qua các tình huống. Chính tình trạng bất nhất qua các tình huống này khiến cho Mischel nghi ngờ giá trị của các khảo hướng nét nhân cách.
Mặc dù cuộc tranh luận ít có dấu hiệu lắng dịu, nhưng dù sao cũng nảy sinh một vài sự kiện quan trọng. Các đánh giá nét nhân cách chính xác nhất khi chúng được thực hiện bởi những người rất quen thuộc với đối tượng được đánh giá; khi nhiều cuộc đánh giá được thực hiện bởi nhiều người đánh giá khác nhau; và khi hành vi ứng xử quan sát trực tiếp phù hợp với nét nhân cách theo dõi. Ngược lại, tình trạng kém chính xác nhất định phải xảy ra trong các tình huống chỉ có một mẫu hành vi duy nhất được quan sát hoặc trong các tình huống có áp lực mạnh mẽ buộc cá nhân phải có một hành vi nhất định. Như vậy, khi một viên trung sĩ ra lệnh cho anh binh nhì gọt khoai tây thì hành vi chấp hành mệnh lệnh của anh ta không thể được xem là thích công việc bếp núc.
Cuộc tranh luận ấy cũng khiến cho các lý thuyết gia chuyên về nhân cách hay cá tính chú trọng trực tiếp hơn đến bản chất của các tương tác giữa con người và hoàn cảnh – tức đến vấn đề liệu các đặc điểm của một tình huống sẽ ảnh hưởng ra sao đến hành vi ứng xử của một cá nhân vốn có một thứ nhân cách hay cá tính đặc biệt. Nhờ tìm hiểu các tương tác ấy, các nhà tâm lý chuyên về nhân cách mới phác họa được một bức chân dung chính xác hơn về vai trò của nhân cách hay cá tính trong các tình huống và hoàn cảnh đặc biệt nào chiếm một phần lớn trong cuộc sống thường ngày của con người.
Cuối cùng, cuộc bút chiến về vấn đề con người và hoàn cảnh đã thuyết phục các nhà nghiên cứu phải chú trọng trước tiên đến các nhân tố làm phát sinh các nét nhân cách hay cá tính của con người. Đặc biệt, một số nhà nghiên cứu đang tìm hiểu các đóng góp tương đối của yếu tố di truyền và yếu tố hoàn cảnh vào việc hình thành các nét nhân cách.
Thí dụ, nhà tâm lý chuyên về nhân cách Auke Tellegen và các đồng sự ở Viện đại học Minnesota đã và đang tìm hiểu các nét nhân cách của khoảng 350 cặp song sinh. Trong đó, 44 cặp là song sinh đơn hợp tử nhưng được nuôi dưỡng khác biệt nhau, trình bày cơ hội xác định ảnh hưởng của các yếu tố di truyền đối với nhân cách. Mỗi cá nhân trong các cặp song sinh nhận được một tập trắc nghiệm nhân cách hay cá tính, bao gồm mót trắc nghiệm đánh giá 11 nét nhân cách chủ yếu. Kết quả trắc nghiệm cho thấy rằng các khía cạnh chủ yếu thuộc nhân cách hay cá tính của các cá nhân song sinh hoàn toàn giống nhau. Hơn nữa, một số nét nhân cách còn bị ảnh hưởng bởi di truyền nhiều hơn các nhân tố khác. Thí dụ, năng lực tương tác xã hội (mức độ khôn khéo và óc lãnh đạo trong các hoàn cảnh xã hội) và tính tôn trọng truyền thống (sự tuân phục uy quyền xã hội) chịu ảnh hưởng đặc biệt mạnh mẽ bởi yếu tố di truyền; trong khi lòng khao khát thành đạt và tính thích ràng buộc tình cảm tương đối ít bị ảnh hưởng bởi yếu tố di truyền (xem hình 11–4).
Các cuộc khảo cứu khác hậu thuẫn cho các khám phá của Tellegen cho rằng biểu hiện của lòng vị tha cũng như tính gây hấn đều bị ảnh hưởng bởi yếu tố di truyền. Cả đến đỉnh hướng tình dục, thái độ chính trị (ít ra về khuynh hướng bảo thủ và độc tài) tín ngưỡng tôn giáo và thang giá trị xã hội cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi yếu tố di truyền.
Như vậy, dường như yếu tố di truyền đóng vai trò quan trọng trong việc quy định nhân cách hay cá tính của một người. Phải chăng nói như thế có nghĩa là ảnh hưởng của công cha nghĩa mẹ và các yếu tố hoàn cảnh khác kém quan trọng hơn nhiều? Câu trả lời hiến nhiên là không, bởi vì cha mẹ và những người khác trong hoàn cảnh của đứa trẻ sẽ định hình mức độ tự khẳng định của các nét nhân cách quy định bởi yếu tố di truyền. Thí dụ, người ta cố giảm bớt mức độ biểu hiện tính say mê bản thân của trẻ bằng cách tạo nhiều cơ hội cho chúng sinh hoạt chung với các trẻ khác. Tương tự, trẻ có tính độc đoán quá mức có thể được giúp đỡ để dịu bớt tính xấu này bằng các kinh nghiệm khiến chúng cảm thông hơn với người khác.
Điều quan trọng phải ghi nhớ là kết luận sau cùng của các cuộc tranh luận về tầm quan trọng của nét nhân cách và tính nhất quán của hành vi ứng xử qua các tình huống khác nhau vốn chưa ngã ngũ. Ngoài ra, một số nhà tâm lý chuyên về nhân cách, như các lý thuyết gia chuyên về tiến trình học tập mà công trình nghiên cứu của họ chúng ta sẽ tìm hiểu tiếp sau đây, nhận thấy cuộc tranh luận này nói chung là vô bổ. Bác bỏ cả đến ý kiến cho rằng khái niệm về nét nhân cách là cần thiết, họ vận dụng các nguyên tắc căn bản trong tiến trình học tập để giải thích nhân cách.
Hình 11–4: Căn nguyên của nhân cách. Các tỷ lệ bách phân phản ánh mức độ ảnh hưởng của yếu tố di truyền đối với 11 đặc điểm nhân cách chủ yếu (Tellegen et al, 1988):
Thích có quyền thế trong xã hội 61%
Người có đậm nét nhân cách này thích ra oai với kẻ khác, nếu là vị lãnh đạo đầy quyền lực ông ta thích được mọi người chú ý đến
Tôn trọng truyền thống 60%
Tuân thủ quy tắc và quyền hành xã hội, tán thành các tiêu chuẩn cao về luân lý và kỷ luật nghiêm ngặt
Phản ứng đối với stress 55%
Dễ tổn thương tình cảm, nhạy cảm, dễ lo âu và buồn rầu.
Đam mê 55%
Có khả năng tưởng tượng sinh động và phong phú, suy nghĩ xa rời thực tế.
Cách biệt 55%
Có cảm tưởng bị ngược đãi, bị lợi dụng, rằng “người ta chỉ muốn hại tôi”.
Hạnh phúc yêu đời 54%
Tính tình vui vẻ, tin cậy và lạc quan.
Tránh tổn thương 51%
Tránh xa nơi náo nhiệt đầy rủi ro và nguy hiểm, thích con đường an toàn dù có tẻ nhạt.
Gây hấn, hiếu chiến 48%
Thích gây hấn và hận thù, thích bạo lực và “thích hại người khác”.
Khao khát thành đạt 46%
Làm việc chuyên cần, khao khát quyền lực, đặt công việc và sự nghiệp lên trên mọi thứ.
Có óc chỉ huy 43%
Thận trọng và nhẫn nại, duy lý và nhạy bén, thích các việc làm có kế hoạch tỉ mỉ.
Thích ràng buộc có tính xã hội 33%
Ưa thích thân mật và ràng buộc chặt chẽ về tình cảm.
2. Các lý thuyết dùng tiến trình học tập để giải thích nhân cách hay cá tính
Trong khi các lý thuyết phân tâm và nét nhân cách tập trung vào con người nội tâm – cơn cuồng nộ vũ bão của bản năng nguyên thủy tuy vô hình nhưng rất mãnh liệt hoặc một nhóm nét nhân cách tuy giả định nhưng có tính quyết định – thì các lý thuyết tiến trình học tập chú trọng đến con người ngoại diện. Thực ra, đối với một lý thuyết gia nghiêm thủ tiến trình học tập thì nhân cách hay cá tính chẳng qua chỉ là tổng cộng các phản ứng tiêm nhiễm được khi tương tác với môi trường sang bên ngoài. Các biến cố bên trong như ý tưởng, tinh thần, và các động lực thúc đẩy chẳng hạn đều bị lờ đi. Dù vậy, sự hiện hữu của chúng cũng không bị phủ nhận, các lý thuyết gia này cho rằng nhân cách hay cá tính được tìm hiểu thuận lợi nhất nhờ quan sát các đặc điểm hoàn cảnh sinh sống của con người.
Theo nhân vật uy tín nhất trong số các lý thuyết gia theo tiến trình học tập là B.F. Skinner (mà chúng ta đã đề cập lần đầu khi thảo luận về tiến trình tạo điều kiện tác động ở chương 5), nhân cách hay cá tính là một tập hợp bao gồm các khuôn mẫu hành vi do học tập mà có được. Các điểm tương đồng trong các phản ứng qua các tình huống khác biệt nhau sở dĩ phát sinh đều do các khuôn mẫu khích lệ tương đồng với khích lệ mà con người đã tiếp nhận trong các tình huống tương tự như thế trong quá khứ. Nếu tôi là người dễ chan hòa cả ở các buổi tiệc tùng lẫn ở các cuộc hội họp, đó là vì tôi đã được khích lệ trước đây khi biểu hiện các hành vi xã hội này chứ không vì tôi đang thỏa mãn một mơ ước vô thức nào đó xuất phát từ các kinh nghiệm trong thời thơ ấu của tôi hoặc không vì nội tâm tôi có nét nhân cách dễ chan hòa với mọi người.
Tuy vậy, các lý thuyết gia nghiêm thủ tiến trình học tập như Skinner chẳng hạn đều ít quan tâm đến các khía cạnh nhất quán của hành vi ứng xử qua các tình huống khác biệt nhau. Họ nỗ lực chú trọng đến các phương thức cải biến hành vi ứng xứ, bởi vì quan niệm rằng con người thay đổi vô cùng. Nếu như con người có khả năng chi phối và cải sửa các khuôn mẫu tác nhân khích lệ trong một tình huống nhất định, thì hành vi ứng xử mà các lý thuyết gia khác xem là ổn định và bất khuất vẫn có thể cải biến được và sau cùng sẽ tiến bộ hơn. Các lý thuyết gia này có thái độ lạc quan về tiềm năng giải quyết các vấn đề cá nhân và xã hội thông qua các biện pháp chữa trị căn cứ vào lý thuyết tiến trình học tập – các phương pháp mà chúng ta sẽ thảo luận sâu rộng hơn ở chương 13.
a. Các lý thuyết dùng tiến trình học tập xã hội tính để giải thích nhân cách hay cá tính. Không phải tất cả các lý thuyết tiến trình học tập về nhân cách đều có quan điểm nghiêm ngặt khi bác bỏ tầm quan trọng của những thứ “bên trong” để chỉ chú trọng đến các đặc điểm “bên ngoài” con người mà thôi. Không giống các lý thuyết tiến trình học tập khác, lý thuyết tiến trình học tập xã hội tính (social learning theory) nhấn mạnh đến các sinh hoạt trí tuệ của con người – như ý tưởng, tình cảm, kỳ vọng, và thang giá trị của con người chẳng hạn – trong việc quy định nhân cách hay cá tính. Theo Albert Bandura, người đề xướng chủ yếu của quan điểm này, con người có khả năng lường trước hậu quả của một số hành vi trong một bối cảnh nhất định mà không cần phải thực hiện các hành vi ấy. Khả năng này có được nhờ cơ chế học tập theo điều kiện quan sát (mechanism of obseivational learning) – xem xét hành động của kẻ khác rồi quan sát hậu quả của các hành động ấy.
Như chúng ta đề cập lần đầu ở chương 5, chẳng hạn trẻ chứng kiến một thái độ cư xử mẫu mực, thí dụ một cử chỉ hiếu chiến, sẽ có khuynh hướng bắt chước hành vi ấy nếu như hậu quả của hành vi mẫu mực tỏ ra mỹ mãn. Ngược lại, nếu hành vi gây hấn mẫu mực ấy không đem lại kết quả nào hay chỉ đem lại kết quả xấu, trẻ thường ít khi bắt chước hành vi hiếu chiến. Do đó, theo lý thuyết này nhân cách hay cá tính hình thành thông qua quan sát nhiều lần hành vi của người khác.
Bandura đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của lòng tự ổn (self–efficacy), tức là kỳ vọng do học tập mà có về sự thành công, trong việc quy định hành vi mà chúng ta sẽ biểu lộ. Lòng tự tin này làm nền tảng cho sự tín nhiệm của con người đối với khả năng thực hiện một hành vi, bất kể họ đã thành công đến mức nào trong quá khứ hoặc các chướng ngại gì hiện đang cản trở bước tiến của họ. Lòng tự tin càng lớn thì càng dễ thành công. Thí dụ, những người có lòng tự tin cao độ về khả năng học vấn thường sẽ đỗ đạt cao.
So với các lôi giải thích nhân cách khác căn cứ vào tiến trình học tập. Lý thuyết tiến trình học tập xã hội tính nổi bật ở chỗ họ đặt trọng tâm vào tính hỗ tương tác động giữa con người với hoàn cảnh sống. Không phải chỉ có hoàn cảnh mới được xem là tác động đến nhân cách hay cá tính, mà hành vi ứng xứ và nhân cách của con người còn được xem là “phản hồi” và cải tạo hoàn cảnh nữa – và hoàn cảnh này quay lại ảnh hưởng đến hành vi ứng xử theo một lưới nhện tương tác.
Thực ra, Bandura cho rằng quan điểm quy trình hỗ tương là chìa khóa để tìm hiểu hành vi ứng xử của con người. Theo quan điểm quy định hỗ tương (reciprocal deteơninism), chính sự tương tác giữa ba yếu tố hoàn cảnh, hành vi ứng xử, và bản thân con người khiến cho con người cư xử theo cách thức tối hậu mà họ thể hiện ra. Thí dụ, một người đàn ông có tính gây hấn đã gây sự đánh nhau ở một trận đấu khúc côn cầu. Sau này anh ta sẽ đạt đến các trận đấu khúc côn cầu để thỏa mãn sở thích đánh nhau của y. Đồng thời, sức thúc đẩy gây hấn có thể tăng lên do hành vi đánh nhau của y. Tóm lái, bối cảnh trận đấu khúc côn cầu, hành vi đánh nhau, và các đặc điểm của cá nhân ấy tương tác lẫn nhau theo cung cách hỗ tương.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.