Tâm lý học căn bản

Chương 15 – Phần 5 (Hết)



b. Phản ứng đối với chiến tranh nguyên tử. Hãy xét tình huống sau:

Bạn tôi mắc phải ung thư. Cô có lý do để tin rằng mình lâm vào tình thế ba sống một chết. Tuy hiểu rõ chẩn đoán này, nhưng cái chết khả dĩ vẫn còn hơi xa theo cảm nghĩ của cô. Cô hình dung cái chết của cô khá mơ hồ, và cô nói đến ý định rời xa thành phố và chỉ đi vài chuyến về các vùng quê. Lạ lùng thay, cô không đề cập nhiều về việc xa rời những người thân quen trong cuộc sống. Cô cũng tin rằng không thể nào làm gì để thay đổi vận mệnh của mình được. Cô không lo âu về chứng ung thư ấy thường xuyên lắm – Cô tiếp tục cuộc sống bình thường của mình. Một số người nói rằng cô là người tuyệt vời, phi thường, yêu đời, dũng cảm, và dễ thích nghi với cuộc sống. Còn những người khác thì nói rằng cô đang trấn áp cơn sợ hãi, phủ nhận thực tế, và trở thành vô cảm đối với cái chết của bản thân.

Người “bạn” đề cập ở đây là một công dân Mỹ bình thường, còn căn bệnh “ung thư” của cô ấy chính là nguy cơ xảy ra cuộc chiến tranh nguyên tử.

Khi nhà tâm lý Susan Fiske viết đoạn văn ẩn dụ trên, bà tìm cách bi kịch hóa lối phản ứng của hầu hết dân Mỹ đối với mối đe dọa xảy ra chiến tranh nguyên tử. Các cuộc điều tra tiến hành trong thập niên 1980 cho thấy số người tin rằng có thể xảy ra một cuộc chiến tranh nguyên tử chiếm tỷ lệ từ 10% đến gần 50%. Ưu tư này cũng biến động đáng kể trong thập niên 1980. Ở Hoa Kỳ, Châu Âu và thậm chí ở Liên Xô, sự lo âu lên đến cực điểm trong nửa thập niên đầu rồi sau đó giảm bớt đi.

Khi được yêu cầu cho biết nhận định rằng tình hình sẽ ra sao khi cuộc chiến tranh nguyên tử nổ ra, nhận định của mọi người rất ảm đạm: Họ cho rằng toàn bộ dân số thế giới sẽ bị hủy diệt, tuy họ có khuynh hướng chú trọng về thiệt hại vật chất đối với các khu cao ốc nhiều hơn tình trạng tử vong của con người cụ thể. Hầu hết mọi người đều không mong còn tồn tại được.

Người ta không suy nghĩ về chiến tranh nguyên tử thường xuyên cho lắm. Sự kiện này dường như đáng ngạc nhiên: Nếu như bạn cho rằng thậm chí mình chỉ có 10% xác suất nhiễm bệnh và chết vì chứng ung thư, có lẽ bạn sẽ lo nghĩ thường xuyên và dùng mọi biện pháp ngăn ngừa. Vậy mà điều này lại không diễn ra với nguy cơ xảy ra thảm họa vũ khí nguyên tử tiêu diệt hàng loạt: hầu hết mọi người đều không có hành động cụ thể nào để chấm dứt mối đe dọa ấy cả.

Một số lý lẽ có thể giải thích được sự khác biệt giữa niềm tin của con người về nguy cơ xảy ra cuộc chiến tranh nguyên tử, phản ứng sợ hãi đối với nó, với tình trạng thiếu hành động cá nhân của họ nhằm chấm dứt nỗi sợ hãi đó. Một lối giải thích cho rằng mối đe dọa nguyên tử hủy diệt hàng loạt khủng khiếp quá mức khiến cho con người không thể chịu đựng nổi về mặt tâm lý, nên họ đành phải trấn áp cơn sợ hãi và xua nó ra khỏi tâm tư của mình. Lối giải thích khác, như các cuộc nghiên cứu đã nêu rõ, cho rằng một công dân đơn độc, hành động một mình, hiếm khi thay đổi được chính sách của nhà cầm quyền; thậm chí trường hợp rất nhiều công dân hành động tập thể cũng chỉ gây được ảnh hưởng rất yếu ớt đến quyết định của các nhà lãnh đạo đương quyền.

Cuối cùng là câu hỏi liệu chiến lược nào hoàn hảo nhất nhằm làm giảm bớt đe dọa xảy ra chiến tranh nguyên tử. Một số chiến lược khác biệt (và mâu thuẫn) nhau đã được đề nghị – từ ngăn cấm toàn bộ các loại vũ khí hạt nhân cho đến gia tăng số lượng vũ khí lớn lao đến mức khiến cho việc sử dụng chúng chắc chắn sẽ hủy diệt toàn bộ thế giới, do đó trên lý thuyết (và quả là nghịch lý) sẽ giảm bớt cơ hội dùng chúng. Như vậy không lấy gì làm ngạc nhiên rằng người ta khó lòng tìm được đường lối hành động thích hợp nhất – một vấn đề mà các nhà tâm lý vừa mới khởi sự đề cập đến.

c. Khủng bố và con tin. Một trong những mối đe dọa lớn lao nhất cho nền hòa bình trong thập niên qua là hiện tượng khủng bố và bắt giữ con tin vô tội. Bọn khủng bố với ý đồ chính trị biết rằng thủ đoạn bắt con tin sẽ làm chấn động dư luận về động cơ hành động của bọn chúng, như quyết tâm tuẫn nạn và tính cách anh hùng cá nhân, sự tuân phục của bọn đàn em, và quyền lực chẳng hạn, qua việc nâng cao tư thế đàm phán của chúng.

Việc tìm hiểu biện pháp tối ưu nhằm đối phó với bọn khủng bố bắt con tin đã tỏ ra là một công tác khó khăn làm nảy sinh một số vấn đề quan trọng về mặt tâm lý – cũng như luân lý. Bản thân các nhà tâm lý chính trị cũng khác biệt quan điểm với nhau về đường lối hành động tối ưu.

Biện pháp trực tiếp nhất đối với thủ đoạn bắt con tin là dùng vũ lực để giải thoát các nạn nhân bị bắt giữ. Dĩ nhiên, nhược điểm là nguy hiểm đến tính mệnh của con tin, hoặc do hành động cố tình của bọn khủng bố hoặc do hành động sơ suất của lực lượng cứu nạn. Tuy vũ lực đôi khi được dùng đến – như trường hợp biệt kích Israel cứu hành khách bị bắt giữ trên chuyến phi cơ ở sân bay Entebbe thuộc xứ Uganda trong thập niên 1970 – nhưng hầu hết các trường hợp con tin đều bị canh giữ nghiêm ngặt cho nên khả năng tổn thất sinh mệnh rất cao.

Biện pháp thứ nhì là chấp nhận cứu tính mệnh con tin với bất cứ giá nào. Trong trường hợp này, yêu sách của bọn khủng bố được đáp ứng trong một số chừng mực, và bọn chúng có thể được chấp nhận công khai hoạt động, giải thoát đồng bọn đang bị cầm tù, tiền chuộc, hoặc cơ hội tẩu thoát. Tuy biện pháp này thường cứu được con tin, nhưng cũng có nhược điểm: tạo tiền lệ cho bọn khủng bố khác, chứng minh sự thành công của thủ đoạn khủng bố. Như chúng ta đã biết qua công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý chuyên về tiến trình học tập theo quan sát, con người học tập được nhiều điều nhờ quan sát lối cư xử mẫu mực được biểu dương. Như vậy, nhiều lần đáp ứng yêu sách sẽ khiến cho bọn khủng bố này cũng như bọn khác càng có thủ đoạn khủng bố táo tợn hơn nữa.

Biện pháp thứ ba là khước từ thương lượng với bọn khủng bố trong bất kỳ tình huống nào, dù cho bao nhiêu con tin bị bắt giữ cũng mặc – lập trường này là chính sách công khai của Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1980 (tuy không đạt được hiệu quả hoàn toàn như ý trong thực tế). Theo biện pháp này, bọn khủng bố bị các cơ quan chính phủ xem thường, nhờ đó giảm bớt tiền lệ và sau cùng giảm được tệ nạn khủng bố trong tương lai. Dĩ nhiên, nhược điểm của biện pháp này là con tin ít hy vọng sống sốt và không làm nguôi cơn sợ hãi của gia đình họ trong thời gian giam cầm con tin, đồng thời cũng có thể gia tăng khả năng tổn thương hoặc tử vong trong tay bọn khủng bố ngày càng điên rồ hơn.

Tuy nhiên, vẫn còn có một biện pháp trung dung trong đó các cuộc thương lượng giữa bọn khủng bố và nhà cầm quyền sẽ diễn ra hoàn toàn bí mật, không được báo chí biết đến. Như vậy, bọn khủng bố không còn lợi dụng được dư luận báo chí nên không thể làm gương cho bọn khủng bố khác nữa. Ngoài ra, nhân viên đàm phán kiên quyết đòi phóng thích con tin và bọn khủng bố bị dồn trách nhiệm để sau cùng bị lên án trước tòa vì hành vi phạm tội của chúng. Sau đó, nhà chức trách phải tiếp tục truy lùng, bắt giữ, đưa ra tòa xét xử, rồi tống giam bọn chúng.

Nhược điểm của biện pháp này là bỏ qua nhiều khía cạnh thực tế về mặt chính trị của tệ nạn khủng bố. Chẳng hạn, các nhà lãnh đạo chính trị có thể gặp phải áp lực hầu như không thế cưỡng lại được nên phải chấp nhận làm mọi việc trong phạm vi thẩm quyền để được phóng thích con tin, nhất là khi bản thân các con tin ngoan ngoãn cầu xin cứu mạng với vẻ đáng thương trước phương tiện truyền thông. Ngoài ra, điều tốt nhất trong dài hạn có thể không tối hảo trong ngắn hạn. Hiển nhiên, thương lượng với bọn khủng bố là thử thách cam go đối với người có trách nhiệm đàm phán – đó là chưa nói đến thử thách gian khổ mà bản thân con tin đã gặp phải.

d. Các triển trọng tâm lý đối với nỗ lực giảm bớt mối đe dọa xảy ra chiến tranh nguyên tử. Một trong các vấn đề chính trị chủ yếu của thế giới là nỗ lực kiểm soát vũ khí hạt nhân. Đâu là biện pháp tối ưu để công dân ủng hộ đường lối hành động của chính quyền họ?

Các nhà tâm lý đã nhận diện được hai biện pháp chọn lựa: hạn chế và ngăn chặn vũ trang hạt nhân. Một số chuyên gia đề nghị thực hiện biện pháp hạn chế vũ trang hạt nhân (nuclear arms freeze), trong đó các cường quốc nguyên tử trên thế giới cam kết không chế tạo thêm vũ khí hạt nhân nữa (bởi vì số lượng vũ khí hạt nhân hiện nay đã đủ sức tiêu diệt thế giới gấp nhiều lần rồi). Sau khi biện pháp hạn chế đã đạt được và có cơ sở vững chắc rồi, các cường quốc nguyên tử có thể tổ chức các cuộc đàm phán tài giảm binh bị nhằm giảm bớt quy mô các kho vũ khí hạt nhân hiện hữu.

Quan điểm hạn chế vũ trang đi ngược lại chiến lược ngăn chặn mà các siêu cường sử dụng xưa nay. Ngăn chặn/ gián chỉ (deterrence) là quan điểm cho rằng đe dọa trả đũa trên quy mô lớn chống lại đòn tấn công của kẻ thù từ lâu là biện pháp hiệu nghiệm nhất nhằm ngăn ngừa bị tấn công. Theo quan điểm này, biện pháp phòng vệ thích hợp nhất là tăng cường vũ trang. Biện pháp này bảo đảm rằng hành động trả đũa sẽ hủy diệt toàn bộ nước tấn công, nên quan điểm ấy được mệnh danh là MAD – tức là lưỡng bại câu thương (mutually assured destruction).

Chiến lược ngăn chặn có hiệu nghiệm không? Câu hỏi này khó lòng giải đáp được bởi vì tình trạng bất khả thực hiện các cuộc nghiên cứu thực nghiệm có kiểm soát trong một thế giới cực kỳ phức tạp như hiện nay. Ngoài ra, trọng tâm của các cuộc nghiên cứu như thế lại là cách cư xử của các thực thể trừu tượng – tức là các quốc gia – trên thực tế hình thành bởi cách cư xử của nhiều cá nhân. Cuối cùng, sau khi biến cố đã xảy ra người ta thường không tài nào biết được các nhà lãnh đạo có sẵn trong tay loại thông tin nào để quyết định các vấn đề chiến tranh và hòa bình.

Mặc dù các khó khăn về mặt lý thuyết như thế, nỗ lực tìm hiểu cặn kẽ các biến cố lịch sử liên quan đến chiến lược ngăn chặn cho thấy nó không hiệu nghiệm lắm trong việc ngăn chặn các cuộc xung đột vũ trang. Chẳng hạn, một phân tích sách lược quân sự trên 2000 năm lịch sử đã khám phá rằng các quốc gia đã chấp nhận quan điểm tăng cường vũ trang là biện pháp ngăn ngừa chiến tranh sau đó dễ bị lôi cuốn vào các cuộc xung đột hơn các quốc gia không chủ trương tăng cường vũ trang. Ngoài ra, dường như tình trạng sẵn có vũ khí trong tay do cuộc chạy đua vũ trang có thể thúc đẩy các nhà làm sách lược dễ dàng chấp nhận hành động quân sự trong các biện pháp chọn lựa của họ so với trường hợp không có sẵn nhiều vũ khí đến thế.

Như vậy, việc tăng cường vũ trang có thể tác động như một lời tiên đoán để tự an ủi: Một quốc gia cần vũ trang để tự vệ, và để đáp ứng nhu cầu kỳ vọng này, sẽ sản xuất và tàng trữ số lượng vũ khí khổng lồ. Sau đó, hậu quả của sự hiện diện các kho vũ khí này làm nảy sinh nhận định rằng sứ dụng vũ khí là một giải pháp thích hợp để giải quyết các cuộc khủng hoang và các tranh chấp về chính sách đối ngoại. Sau cùng, nhận định này làm tăng thêm nguy cơ sử dụng vũ lực, cho đến một thời điểm chín muồi nào đó thảm họa sẽ nổ ra. Như vậy, kỳ vọng ban đầu tăng vũ trang là cần thiết để tự vệ sẽ đưa đến hậu quả sử dụng vũ lực – quả là đi ngược lại kết quả mong muốn vậy. 3. Tâm lý học và nỗ lực cổ vũ hòa bình

“… Bởi vì chiến tranh khởi phát từ tâm tư con người, nên chính trong lương tri nhân loại việc bảo vệ hòa bình phải được xây dựng.”

Bất kể tuyên ngôn như thế (của UNESCO ngay sau Thế Chiến II kết thúc), việc nghiên cứu vấn đề hòa bình nói chung vẫn còn ngoài lãnh vực tâm lý học, mà chủ yếu dành cho các nhà khoa học chính trị và các sử gia. Tuy vậy, vẫn có một số lĩnh vực trong đó ngày càng có nhiều nhà tâm lý đang nỗ lực đóng góp vào việc ngăn chặn chiến tranh và cổ vũ hòa bình. Các lĩnh vực nghiên cứu quan trọng nhất là:

– Thái độ đôi với các nước khác. Các nhà tâm lý xã hội đã tìm hiểu cách thức nảy sinh thái độ của chúng ta đối với các nước khác và các thái độ ấy ảnh hưởng ra sao đến cách nhận định của chúng ta về họ. Thí dụ, tại sao thái độ hoàn toàn thù nghịch của người Mỹ đối với Liên Xô trước đây nay lại trở nên thân thiện hơn rất nhiều?

– Các quyết định liên quan đến quốc phòng. Các nhà tâm lý chuyên về lãnh vực trí tuệ đã tìm hiểu cách thức hình thành quyết định. Thiên kiến trong các tiến trình trí tuệ có thể khiến cho người ta tính toán sai lạc và quyết định không thích hợp, như cuộc đổ bộ thất bại lên vịnh Con Heo ở Cu Ba vào thập niên 1960 chẳng hạn.

– Cách cư xử trong các thời điểm khủng hoảng. Cách cư xử của các nhà lãnh đạo quốc gia trong các cuộc khủng hoảng là trọng tâm nghiên cứu của nhiều cuộc khảo cứu. Nhờ tìm hiểu cặn kẽ hơn phản ứng của các vị lãnh đạo ấy đối với các biến cố khác thường, các nhà tâm lý có thể trình bày các khuyến cáo đối với các cuộc khủng hoảng trong tương lai.

– Chiến tranh ngẫu nhiên nổ ra. Các nhà tâm lý phục vụ trong quân đội đã xây dựng chương trình tin cậy nhân sự (Personnel Reliability Program) để đảm bảo rằng những cá nhân phụ trách các loại vũ khí hạt nhân đã được huấn luyện thích hợp và sẽ không có ý đồ sử dụng chúng khi không được lệnh của giới chức có thẩm quyền. Ngoài ra, các nhà tâm lý này cũng đã tìm hiểu một số vấn đề như xác suất xảy ra rủi ro trong các hệ thống điều hành vũ khí trong một số tình huống nhất định.

– Đàm phán và ngăn ngừa chiến tranh. Các nhà tâm lý đã chú trọng đến các kỹ năng đàm phán, và về một số khía cạnh còn quan trọng hơn nữa đến việc ngăn ngừa các xung đột quốc tế. Chẳng hạn, các nhà tâm lý đã phác họa các tình huống giả tạo trong đó những người tham dự đóng vai trò các vị lãnh đạo quốc gia đối phó với một cuộc khủng hoảng để nhận diện ra cách sách lược hiệu nghiệm khả dĩ vận dụng được nhằm kết thúc các cuộc xung đột trên thực tế.

– Giáo dục: lợi dụng học đường để cổ vũ hòa bình. Nhà tâm lý xã hội Morton Deutsch lập luận rằng giáo dục nhằm kiến tạo một thế giới hòa bình phải là một bộ phận cốt yếu trong mọi sinh hoạt học đường của thiếu nhi. Ông đề nghị ngay từ các năm tiểu học, các trường học có thể giảng dạy một số chủ đề nhằm mục tiêu cổ vũ hòa bình. Các chủ đề này bao gồm hướng dẫn rèn luyện tinh thần cộng tác, trong đó các học viên cũng làm việc với nhau để am tường một số thông tin; huấn luyện học sinh giải quyết xung đột; hướng dẫn các biện pháp có tính xây dựng nhằm giải quyết các đề tài gây tranh cãi; và truyền dạy cho học sinh các kỹ thuật đều đình.

Mặc dù các biện pháp tâm lý nhằm ngăn ngừa chiến tranh và cổ vũ hòa bình đang trên đà phát triển, nhưng chúng ít khi được thực thi. Tuy vậy, tương lai đầy hứa hẹn, và nhiều nhà tâm lý đang tiếp tục nghiên cứu để phát minh các biện pháp thay thế cho các biện pháp truyền thống nhằm giải quyết các cuộc xung đột dường như không thể tránh được giữa các quốc gia và giữa các nhóm chủng tộc, tôn giáo, và sắc tộc thiểu số.

4. Tóm tắt và học ôn III

A. TÓM TẮT

– Tâm lý học giao lưu văn hóa (cross–cultural psychology) là một chuyên ngành tâm lý nhằm tìm hiệu các đặc điểm tương đồng và dị biệt về chức năng tâm lý giữa các nền văn hóa và các nhóm chủng tộc khác biệt nhau.

– Các nền văn hóa khác biệt nhau về mức độ ưu thắng của các định hướng giá trị theo chủ nghĩa tập thể (collectivism) và cá nhân chủ nghĩa (individualism).

– Nhận định của con người về kẻ thù thường bị sai lạc về một số mặt.

– Biện pháp đối phó với bọn khủng bố bắt giữ con tin có thể bao gồm sử dụng vũ lực thương lượng để cứu tính mệnh con tin bằng mọi giá, khước từ thương lượng với bọn khủng bố, hoặc chấp nhận giải pháp trung dung.

– Tuy tin rằng cuộc chiến tranh nguyên tử rất có thể nổ ra, nhưng con người ít có hành động cụ thể để ngăn ngừa.

B. HỌC ÔN

1/… là quan điểm tho rằng hạnh phúc của tập thể quan trọng hơn phúc lạc cá nhân. Ngược lại,… cho rằng sự khẳng định bản thân, tính độc đáo, ý chí tự do, và giá trị của cá nhân là điều kiện chủ yếu.

2/ Con người sống trong các xã hội theo chủ nghĩa tập thể thường quy trách nhiệm thành tích học tập của họ cho các nhân tố hoàn cảnh có tính nhất thời, như mức độ nỗ lực học tập chẳng hạn. Đúng hay sai?…

3/ Một trong các quan tâm quan trọng nhất của bọn khủng bố là:

a) Nhận tiền chuộc để đổi lấy điều kiện phóng thích con tin.

b) Đi phi cơ khỏi tốn tiền.

c) Thuyết phục thêm nhiều người gia nhập nhóm khủng bố

d) Sự chú ý của giới truyền thông.

4/ Ralph White đã lập luận rằng ngộ nhận kẻ thù có thể ảnh hưởng đến các quyết định trong các thời điểm xảy ra xung đột. Hãy nêu ra ba ngộ nhận khả dĩ.

5/ Quan điểm cho rằng đòn tấn công của kẻ thù có thêm ngăn chặn bởi đe dọa trả đũa gọi là…

C. CÂU HỎI TỰ VẤN

Bạn nghĩ sao về quan điểm cho rằng nhân định của dân Mỹ về nhân dân Liên Xô cũ đã thay đổi kể từ khi nước này tan rã và không còn bị xem là kẻ thù nữa?

(Giải đáp câu hỏi học ôn ở cuối chương)

IV. NHỮNG ĐIỂM CẦN GHI NHỚ

– Stress là gì, nó tác động đến chúng ta ra sao, và chúng ta làm cách nào để khắc phục nó hiệu quả nhất?

1. Stress là một phản ứng đối với các điều kiện đe dọa và thách thức trong môi trường sống. Cuộc sống con người đầy dẫy các tác nhân gây stress (stressor) – Các tình huống gây căng thẳng – có bản chất gồm cả tích cực lẫn tiêu cực

2. Stress gây ra các phản ứng sinh lý tức thời, bao gồm gia tăng số lượng hoirmone tiết ra, nhịp tim và áp huyết tăng vọt lên, và thay đổi mức dẫn điện ở da. Trong ngắn hạn, cơ thể con người có thể thích nghi với các phản ứng này, nhưng trong dài hạn chúng có thể gây ra các hậu quả xấu, bao gồm sự phát triển các dạng rối loạn cơ thể – tâm thần (psychosomatic disorders). Các hậu quả do stress gây ra có thể được giải thích phần nào bởi Hội chứng Thích ứng Tổng quát của Selye (Selye’s gerenal adapta–non syndrome). Mô hình này cho rằng các phản ứng căng thẳng gồm có ba giai đoạn: báo động và động viên năng lực, đề kháng, và kiệt sức

3. Các nhân tố gây căng thẳng không có tính phố quát – cách giải thích một tình huống môi trường liệu ảnh hưởng của nó có được xem là căng thẳng hay không khác biệt nhau giữa mọi người. Dù vậy, cũng có ba loại biến cố tổng quát thường gây ra stress: các biến cố gây thảm họa chung cho nhiều người (cataclysmic events), các tác nhân gây stress riêng tư (personnal stressors), và các tác nhân gây stress trong cuộc sống thường ngày (background stressors – các rắc rối thường nhật, dai y hassles). Tình trạng căng thẳng được giảm bớt nhờ sự hiện diện của các khích lệ tinh thần (uplifts), tức là các sự việc tuy không đáng kể nhưng khiến cho người ta cảm thấy hài lòng – dù chỉ trong tạm thời.

4. Tình trạng căng thẳng có thể được giảm bớt nhờ sự xây dựng ý thức kiểm soát các tình huống gặp phải. Nỗ lực khắc phục stress có thể được thực hiện dưới một số hình thức, bao gồm vận dụng vô thức các cơ chế phòng vệ (defense mechanisms) và sử dụng các biện pháp khắc phục nhắm vào xúc cảm hoặc nhắm vào rắc rối.

– Các nguyên nhân nào gây ra thành kiến và kỳ thị

5. Thành kiến (stereotypes) là các niềm tin và kỳ vọng hình thành đối với các thành viên của một tập thể chỉ vì tư cách thành viên của họ trong tập thể ấy. Tuy thường hay nhắm vào các nhóm chủng tộc và sắc tộc thiểu số nhất, thành kiến cũng hình thành đối với các nhóm giới tính và tuổi tác. Các thành kiến không chỉ gây ra tệ nạn kỳ thị (discrimination) mà còn dẫn đến các tiên đoán để tự an ủi (self–fullilling prophecy), tức là các kỳ vọng diễn ra các biến cố hay hành vi tương lai tác động nhằm gia tăng xác suất thực sự xảy ra các biến cố hay hành vi ấy.

– Giữa các vai trò giới tính của nam giới và nữ giới có các điểm khác biệt chủ yếu nào?

6. Các nhận định về bản thân chúng ta được quyết định phần lớn bởi ý thức về giới tính của mình, tức là ý thức rằng mình là nam giới hay nữ giới. Vai trò giới tinh (gender roles) là các kỳ vọng do xã hội áp đặt nhằm nêu rõ lối cư xử nào thích hợp cho nam giới và lối nào cho nữ giới. Khi vai trò giới tính phản ảnh thái độ thuận lợi đối với một giới tính đặc biệt, chúng dẫn đến thành kiến và gây ra tệ nạn kỳ thị giới tính (sexism), tức là thái độ và lối cư xử bất lợi cho một cá nhân vì giới tính của người ấy.

7. Thành kiến về vai trò giỏi tính đối với nam giới cho rằng họ được thiên phú các nét nhân cách liên quan đến năng lực (competence – related traits), trong khi nữ giới bị xem là có năng khiếu về nhiệt tình và biểu hiện nhân ái. Các dị biệt giới tính trên thực tế không rõ rệt lắm, và mức độ khác biệt cũng thấp hơn nhiều so với thành kiến. Có các dị biệt về mức độ gây hấn, lòng tự ái, kiểu thông đạt, và có lẽ về năng lực trí tuệ, nhưng mức độ khác biệt của chúng cũng không đáng kể. Các dị biệt này phát sinh do một phối hợp gồm các nhân tố sinh học và hoàn cảnh gây ra.

8. Các nguyên nhân sinh học gây ra các dị biệt giới tính được phản ảnh qua các chứng cứ cho rằng có thể có khác biệt về cấu tạo và chức năng não bộ giữa nam giới và nữ giới; và các khác biệt này có thể liên quan đến các loại hormone đặc biệt sản sinh ngay từ khi còn trong bào thai mẹ. Riêng về các nguyên nhân hoàn cảnh, các kinh nghiệm xã hội hóa hình thành các lược đồ giới tính (gender schemas) trong tâm trí con người; đó là các cơ cấu trí tuệ nhằm sắp xếp có hệ thống và hướng dẫn đứa trẻ tìm hiểu các thông tin phù hợp với giới tính của nó.

– Nền văn hóa gây ảnh hưởng gì đối với cách cư xử của con người?

9. Tâm lý học giao lưu văn hóa (cross–cultural psycholosy) là chuyên ngành tâm lý tìm hiểu các điểm tương đồng và dị biệt về chức năng tâm lý trong các nền văn hóa và các nhóm chủng tộc khác nhau. Một chiều kích khiến cho các nền văn hóa khác biệt nhau là sự phân biệt giữa chủ nghĩa tập thể và cá nhân chủ nghĩa. Chủ nghĩa tập thể (collectivism) là quan điểm cho rằng hạnh phúc của tập thể quan trọng hơn hạnh phúc cá nhân, trong khi cá nhân chủ nghĩa (individualism) là quan điểm cho rằng sự khẳng định bản thân, tính độc đáo, ý chí tự do, và giá trị của cá nhân là điều kiện chủ yếu.

– Làm cách nào ngăn chặn chiến tranh và nuôi dưỡng hòa bình

10. Các nhà tâm lý đã đề ra một số biện pháp đối phó với thủ đoạn bắt giữ con tin. Các biện pháp ấy bao gồm dùng vũ lực để giải thoát con tin, nỗ lực cứu tính mệnh con tin bằng mọi giá (kể cả việc đáp ứng yêu sách của bọn khủng bố), khước từ thương lượng với bọn khủng bố trong mọi tình huống và chọn một biện pháp trung dung trong đó các cuộc thương lượng diễn ra trong bối cảnh hoàn toàn không có sự chứng kiến của giới báo chí.

11. Một lý thuyết cho rằng ngộ nhận về kẻ thù của con người tác động phá vỡ nền hòa bình. Các nhận định sai lạc ấy bao gồm hình dung kẻ thù độc ác ghê tởm, bản thân anh hùng, cả tin vào một quân đội quá tự hào, thiếu cảm thông với kẻ thù, cố tình làm ngơ trước sự kiện thực tế, và tự cho mình hành động hợp luân lý.

12. Niềm tin cho rằng cuộc chiến tranh nguyên tử sẽ nổ ra chưa hề giảm đi trong suốt hơn 40 năm qua. Hầu hết mọi người đều cho rằng cuộc chiến tranh ấy có thể xảy ra theo xác suất từ 1/3 đến 1/2. Tuy không có hy vọng sống sốt, nhưng hầu hết mọi người đều không chịu hành động cụ thể nhằm kết thúc mối đe dọa ấy.

13. Một số chủ đề tâm lý có liên quan đến nỗ lực giảm bớt đe dọa nổ ra cuộc chiến tranh nguyên tử. Quan điểm hạn chế vũ khí hạt nhân (nudear freeze), theo đó các quốc gia cam kết không chế tạo thêm vũ khí hạt nhân đi ngược lại quan điểm ngăn chặn (deterrence), cho rằng đe dọa trả đũa chống lại đòn tấn công của kẻ thù là biện pháp ngăn ngừa chiến tranh hiệu nghiệm nhất xưa nay. Tuy vậy, các cuộc nghiên cứu cho rằng chiến lược ngăn chặn ấy tương đối kém hiệu quả.

14. Các nhà tâm lý đã đóng góp vào nỗ lực ngăn ngừa chiến tranh và cổ vũ hòa bình qua việc tìm hiểu các chủ đề như thái độ đối với các nước khác, các quyết định liên quan đến quốc phòng, cách cư xử trong các thời kỳ khủng hoảng, tránh để ngẫu nhiên nổ ra chiến tranh, kỹ năng đàm phán, và lợi dụng giáo dục để cổ vũ cho nền hòa bình thế giới.

V. GIẢI ĐÁP CÂU HỎI ÔN TẬP

I.

1/ Stress

2/ a–2; b–1; c–3

3/ Rối loạn stress hậu chấn thương

4/ a

5/ Khích lệ tinh thần

6/ Biện pháp khắc phục

7/ a

8/ Sắt đá

9/ Sai; chúng đã tỏ ra rất hữu ích trong nhiều tình huống.

II.

1/ Đúng

2/ b

3/ tự an ủi

4/ Vai trò giới tính

5/ Sai; chúng vẫn còn khá thịnh hành

6/ c

7/ lưỡng tính

8/ Lược đồ giới tính

III.

1/ Chủ nghĩa tập thể; cá nhân chủ nghĩa

2/ Đúng

3/ d

4/ các ngộ nhận này bao gồm hình dung kẻ thù xấu xa và độc ác; hình dung bản thân oai hùng; quân đội quá tự hào; thiếu cảm thông kẻ thù; cố tình làm ngơ trước sự thật; hình dung bản thân hành động hợp luân lý.

5/ Ngăn ngừa.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.