Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện
1. Vùng đất không cây, quê hương dịch bệnh.
Mùa xuân năm Kiến Hưng thứ 3, đột nhiên truyền đi tin tức Ngụy Văn đế cử đại quân đánh Đông Ngô.
Đấy hiển nhiên là hiệu quả của chiến lược đông hoà Tôn Quyền của Gia Cát Lượng.
Hai nước Ngụy Ngô mắc vào việc quân sự rối ren, phía bắc và phía đông của Thục Hán áp lực quân sự tự nhiên giảm đi không ít. Gia Cát Lượng cho rằng đây là thời cơ tốt nhất để triệt để giải quyết vấn đề Nam Trung. Bởi thế ông ta bắt đầu sắp xếp quân đội, chuẩn bị tự mình dẫn quân nam chinh.
Trưởng sử Vương Liên liền can rằng: “Nam Man là vùng đất không cây cối, quê hương của dịch bệnh, không nên lấy thân phận tể tướng trong nước mà đến đó, chẳng may có sai sót gì, há chẳng phải là rất mạo hiểm ư!”
Vương Liên tên chữ là Văn Nghi người Nam Dương, khi Lưu Chương nắm quyền thì mới vào Thục, được bổ nhiệm làm chức quan ở Tử Đồng. Lưu Bị vào Thục, Vương Liên đóng cửa thành cố thủ, Lưu Bị thấy ông ta có trách nhiệm và khí tiết nên rất ưa thích. Sau khi bình định Thục Trung, vẫn được trọng dụng, việc điều hành ở quận có thành tích tốt. Vương Liên ngoài sở trường về hành chính, lại giỏi về việc tài chính, bởi thế được Gia Cát Lượng đề bạt, việc trông nom mỏ muối ở Tứ Xuyên đạt nhiều thành tựu. Suốt một đời tuy thay đổi không ít chức quan, song tựa hồ đều liên quan đến tài chính. Gia Cát Lượng trọng dụng ông ta làm bí thư cơ yếu ở Phủ thừa tướng, vẫn phụ trách kế hoạch tài chính.
Đề nghị của một người dưới trướng được tín nhiệm như vậy, tin rằng Gia Cát Lượng chẳng thể xem thường.
Huống chi trong lời can của Vương Liên, ắt có vấn đê quân lương và tài chính mà Gia Cát Lượng vẫn xem trọng.
Tam quốc chí có chép, Gia Cát Lượng đối với đề nghị của Vương Liên, đích xác đã khá thận trọng suy nghĩ, ông ta cũng đã cân nhắc là phái một viên đại tướng thay ông ta viễn chinh, song ông ta cho rằng ở chiến trường này chủ yếu nhất là chính trị, mà chẳng phải quân sự. Thục Hán có không ít mãnh tướng thiện chiến, song khí chất chính trị thì không đủ, nếu cần triệt để giải quyết vấn đề, chẳng phải tự mình xuất chinh không được.Song Vương Liên chẳng phải tùy tiện nói ra lời can gián của ông có lý do đầy đủ, lại rất khẩn thiết, bởi thế Gia Cát Lượng rất cảm động lại phải suy nghĩ kỹ. Sử sách có chép, do lời can của Vương Liên, đích xác khiến Gia Cát Lượng ngẫm nghĩ trong suốt một thời gian khá dài. Đến tháng 3, Gia Cát Lượng mới quyết tâm từ biệt hậu chủ Lưu Thiện, tự mình chuẩn bị nam chinh. Ông ta đầu tiên hạ lệnh cho Thái thú Ngụy Diên tăng cường phòng thủ phía bắc, để đối phó sự manh độnẹ của Tào Ngụy. Lại điều động Lý Nghiêm phụ trách phòng vệ phía đông, chú ý đến tiến triển xung đột giữa Ngụy – Ngô, thường xuyên nắm tình hình quân sự chặt chẽ. Trưởng sử Hướng Lăng giữ Thành Đô, điều động quân lương để chi viện cho tiền tuyến. Quân đoàn nam chinh được sắp xếp như sau:
– Tổng tư lệnh: Thừa tướng Gia Cát Lượng
– Tham mưu trưởng: Trưởng sử Dương Nghi
– Tư lệnh đạo quân phía đông: Môn hạ Mã Trung
– Tư lệnh đạo quân tuyến giữa: Trù hàng đô đốc Lý Khôi
– Tư lệnh đạo quân phía tây: Gia Cát Lượng tự kiêm Kế hoạch tác chiến chủ yếu như sau:
Đạo quân Mã Trung theo đường mòn Tứ Xuyến đến thẳng Tang Ca, tiến đánh quân phản loạn Chu Bao, quân Lý Khôi tiến đánh quân Ích Châu, trực tiếp đánh vào đại bản doanh của Ưng Khải và Mạnh Hoạch. Lại phái Thái thú Kiện Vi trước đây là Vương Sĩ, nhận nhiệm vụ mới làm Thái thú Ích Châu, cùng hiệp trợ về quân sự với Lý Khôi, Gia Cát Lượng tự mình dẫn quân chủ lực, từ Thành Đô đến sát An Thượng, cùng hợp quân với Thái thú Việt Huề là Cung Lộc ở An Thượng, từ An Thượng theo đường thủy tiến vào Việt Huề. Cuối cùng ba đường binh mã cùng hợp ở Điền Trì thuộc quận Ích Châu. Hành động quân sự lần này, tuy do Gia Cát Lượng tự mình cầm quân, song các tướng lĩnh và binh lực được huy động đều không lớn. Bởi thế kẻ địch chủ yếu vẫn là ở phía bắc và phía đông, tướng lĩnh có tài đảm đương một vùng ắt phải được bố trí ở đấy. Lại nữa công việc giữ gìn Thành đô cũng rất quan trọng, bởi thế những người thân tín quan trọng như Tưởng Uyển, Đổng Doãn, Phí Vỹ, đều cần phải ở lại Thành Đô đề phòng biến động. Cũng tức là nói qui mô cuộc chiến tranh lần này, từ lúc bắt đầu lập kế hoạch đã tựa hồ không ở mức độ lớn.
Đúng như lời can của Vương Liên, chỉ cần phái một viên đại tướng, thì có thể xử lý tốt việc chiến sự ở đấy, hà tất một tể tướng tôn quí của quốc gia phải mạo hiểm tới đó. Về mặt quân sự mà nói, luận điểm này hoàn toàn chính xác, Gia Cát Lượng tự mình trong lòng cũng đã thấu tỏ, đích xác cũng có chỗ e ngại “giết gà bằng dao mổ trâu”. Song tầm mắt của Gia Cát Lượng phóng đến độ cao chính trị, muốn giải quyết vấn đề Nam Trung không phải ở chỗ có đủ năng lực vũ trang để trấn áp, quân sự có thể sửa chữa được ngọn, muốn sửa được gốc phải dựa vào lực lượng chính trị.
Song vấn đề Nam Trung khá phức tạp, ví như băng đóng 3 thước chẳng phải rét một ngày, không triệt để giải quyết ắt thành mối lo vĩnh viễn sau này, về căn bản chẳng thế dốc toàn lực đối ngoại được. Huống chi nếu chẳng có sự trợ giúp của vùng Nam Trung, Thục Hán cũng chẳng có thực lực để đối kháng lâu dài với Tào Ngụy và Đông Ngô, nói cách khác, sự thành bại về xử lý sự kiện Nam Trung phản loạn, có quan hệ lâu dài đến việc sửa sang Thục Hán.
Xử lý về chính trị dựa vào khí chất và quyền lực, nếu mọi việc đều phải thỉnh thị, sẽ rất khó cơ động đưa ra sách lược ứng biến, khí chất không đủ, thì chẳng thể thấu thị được vấn đề, hoặc thiếu tầm mắt qui hoạch lâu dài. Vấn đề Nam Trung ắt sẽ chẳng thể giải quyết một lần, chỉ là lãng phí thời gian mà thôi.
Khi ba chân đỉnh đã lập ra, cục diện ngoại bang thoắt đã vô cùng biến hoá, chẳng thế có nhiều thời gian và cơ hội tốt. Xử lý vấn đề Nam Trung chẳng những phải nhanh mà cần triệt để, ngoài Gia Cát Lượng tự mình đứng ở tuyến thứ nhất, chẳng ai có thể gánh vác được trách nhiệm ấy. Bởi lý do như vậy, Gia Cát Lượng không thể không tự mình xuất quân.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.