Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện

8. Chiến trường Xích Bích bầy ra thiên la địa võng:



Năm Kiến An thứ 13, cuối tháng 9, Lưu Bị nghe theo đề nghị của Lỗ Túc, đưa quân đội từ Hạ Khẩu thuận giòng mà xuống hơn 200 dặm nữa, đóng đồn ở Phàn Khẩu ở phía nam Trường Giang, để gần với quân Đông Ngô tiện phối hợp, chuẩn bị việc quyết chiến nay mai.

Căn cứ vào tin tình báo, đại quân của Tào Tháo đã chuẩn bị xong xuất kích ở Giang Lăng, đợi thời cơ sẽ theo giòng mà xuống, song Gia Cát Lượng và Lỗ Túc lại như không nắm được. Lưu Bị lòng như lửa đốt, hằng ngày đều phái người đến hạ du Trường Giang, thăm dò tình hình điều động của quân Đông Ngô. Không lâu tiêu binh đưa tin đội tiên phong Đông Ngô đang ngược giòng mà lên, sắp đến Phàn Khẩu. Lưu Bị lập tức phái Tôn Càn đến uý lạo, không ngờ Chu Du cũng ở trong thuyền.

Chu Du lấy cớ đang bận tâm việc quân chẳng thể tùy tiện rời sở chỉ huy, bèn mời Lưu Bị đến thuyền cùng hội kiến. Lưu Bị giao phó việc quân cho Quan Vũ và Trương Phi một mình ngồi thuyền nhỏ đến gặp Chu Du. Hai người cùng hàn huyên vui vẻ, Lưu Bị quay sang Chu Du hỏi quân Đông Ngô về số lượng có bao nhiêu.
Chu Du thản nhiên nói rằng, chỉ có hơn 3 vạn binh mã. Lưu Bị rất thất vọng, lo lắng bầy tỏ rằng, số người như thế phải chăng là rất ít.
Chu Du tin tưởng 10 phần trả lời rằng: “Lưu Dự Châu hãy xem tôi đánh bại Tào A Man nhé!”.
Lưu Bị lại hỏi tin tức Gia Cát Lượng và Lỗ Túc, Chu Du nói hai người đang ở trên thuyền phía sau, ước độ 3 ngày nữa sẽ đến. Lưu Bị sau khi về trại càng nghĩ càng lo lắng thêm, bèn ngầm đem một bộ phận nhân mã giao cho Quan Vũ đi bố trí ở bờ bắc Hán Thủy, đề phòng khi Chu Du bại trận, có thể phải chạy về đấy.
Tào Tháo lúc này đang ở Giang Lăng làm công việc sắp xếp tổ chức, chuẩn bị theo giòng mà xuống đánh Giang Đông. Ông ta sắp xếp quân Trương Liêu, Từ Hoảng, Trình Dục thành các đội thuyền, thêm bảy vạn thủy quân của Sái Mạo và Trương Doãn, đội thuyền từ đầu đến đuôi kéo dài vài trăm dặm, đội thuyền dóng hàng mà tiến, chiều ngang có 24 chiếc thuyền, nhìn như một bức thành trên mặt nước, khí thế rất mạnh, lại còn vài trăm chiếc thuyền nhỏ tuần tra xung quanh, đề phòng kẻ địch đánh lén. Bởi quy mô to lớn như vậy, việc sắp xếp nhân mã đã phải mất hơn một tháng, mãi đến cuốitháng 10 mới khởi binh đông chinh chuẩn bị một trận thủy chiến quy mô to lớn chưa từng thấy.

Cuối tháng 10, Chu Du đặt đội thuyền chỉ huy của mình ở Tam Giang Khẩu (mé dưới Hán Khẩu), một mặt tung một số lớn gián điệp đi nắm tình hình quân Tào, một mặt khác chọn đoạn sông Xích Bích, nơi quân Tào sẽ đi qua, làm điểm quyết chiến nay mai.

Tình hình giòng chảy của Trường Giang ở chỗ này có sai lệch rất lớn, có mười dặm nước chảy từ từ, có tám dặm nước chảy xiết, thường xuất hiện những xoáy nước lớn, ỏ đó thuyền bè bị chao đảo rất dữ, đối với quân phía bắc không chuyên thủy chiến là rất đỗi bất lợi.
Bờ sông Xích Bích cơ hồ toàn do nham thạch màu đỏ tạo thành, sóng nước ở đó cuộn chảy ghê gớm, không dễ lên được bờ, cách bờ bắc 20 dặm có một khu rừng rậm gọi là Ô Lâm. Chu Du đã tự mình quan sát kỹ lưỡng mặt nước và bờ sông, sau đó đã dày công bày ra ở đấy thiên la địa võng chỉ đợi quân Tào kéo đến.
Thực ra Chu Du chỉ có một số quân dùng vào việc không nhiều, bởi đề cao tinh thần binh sĩ, ông tự mình đi ở hàng đầu. Hai lão tướng Hoàng Cái và Hàn Lương có kinh nghiệm phong phú lại quen thuộc thời tiết và địa hình lưu vực Trường Giang, đảm nhận chỉ huy đội tiên phong trụ ở bờ đông nam cách Xích Bích nửa ngày đường; một mặt giám sát hành động của đội thuyền Tào Tháo, một mặt cũng chuẩn bị xuất binh lập công ở đấy, giao tranh trực tiếp với quân Tào.
Ở mé sau hai vị lão tướng quân là đội tiên phong của đội thuyền chủ lực thủy quân do Cam Ninh, Chu Thái, Đổng Tập chỉ huy, Chu Du và Trình Phổ cùng ngồi ở trung quân chỉ huy, đội thuyền của Lã Phạm làm dự bị, tùy thời mà chuẩn bị việc tăng viện.
Trên mặt đất, đội quân đóng ở tuyến đầu do Lã Mông, Lăng Thống và Thái Sử Từ chỉ huy, bố trí ở vùng Hán Dương, phía bắc sông Trường Giang. Đội quân của Lưu Bị ở cách đó 100 dặm tại vùng Hán Khẩu, tạo thành hai lớp trận tuyến, chuẩn bị đối phó với quân Tào tiến quân bằng đường bộ. Quân Hạ Khẩu của Lưu Kỳ thì dời về bố phòng ở Vũ Xương thuộc bờ nam Trường Giang. Nếu quân Đông Ngô bị thua trong trận thủy chiến, quân Tào có vượt sông bờ nam, ít ra có thể tạm cầm cự để Tôn Quyền đang chỉ huy ở Sài Tang có đủ thời gian tập kết quân Đông Ngô, để quyết chiến sống mái một trận sau cùng. Đối với trận thủy chiến có quy mô lớn chưa từng có này, Tào Tháo cũng đã rất cẩn thận; ông ta bỏ ra hơn một tháng để sắp xếp tổ chức, chuẩn bị sau khi tuyên thệ sẽ dẫn toàn quân xuôi dòng mà tiến. Lúc đó bộ tham mưu tiền tuyến của Tào Tháo, vẫn chưa biết tin tức gì về việc Sái Mạo và Trương Doãn tổng chỉ huy quân thủy Kinh Châu chuẩn bị dẫn quân làm phản.

Giả Hủ làm tổng tham mưu trưởng quân nam chinh của Tào Tháo do bất đồng với Tào Tháo về chiến lược, bị đổi đi trấn thủ Giang Lăng trông coi việc hậu cần đầy đủ. Việc tham mưu tiền tuyến do Điền Trù và Lâu Khuê đảm nhận. Điền, Lâu hai người là nhân tài về công việc hành chính song chang phải giỏi về kế hoạch chiến đấu, hiệu suấtcông tác tuy cao, song đôi với việc sưu tập, tìm tòi, phán đoán tin tức tình báo lại không làm tròn cho nên vấn đề này thực ra rất mắc mớ. Sái Mạo và Trương Doãn có danh tiếng lớn ở Kinh Châu; hai người đều theo phái thân Tào lâu ngày. Lưu Tông đầu hàng vô điều kiện, có công đóng góp lớn của hai người ấy, bởi thế rất được Tào Tháo ưa dùng. Song ở vào thời kỳ then chốt này, khi quay mũi giáo về phía Lưu Bị và Tôn Quyền, thực tế mà nói cũng có vấn đề.

Chẳng qua trong sự sắp xếp lần này, đội quân phương bắc trực thuộc Tào Tháo bởi không thông thạo thủy chiến, khi chỉnh biên quân đội có xảy ra nhiều sai sót, tạo nên những xung đột thường xuyên giữa ban tham mưu và thủy quân Ích Châu, về kế hoạch tác chiến của Tào Tháo lại lấy quân thủy Ích Châu làm tiên phong, sẽ đụng chạm lớn với quân Giang Đông, còn quân Tào thì đặt ở tuyến sau. Điều này rất mau chóng truyền khắp trong thủy quân Kinh Châu, thậm chí dẫn đến bạo động nghiêm trọng, khiến cho Sái Mạo và Trương Doãn đều chịu áp lực.
Tuy như thế, song trong thời kỳ bố trí đội ngũ, Sái Mạo, Trương Doãn không đề đạt gì với Tào Tháo, mà trực tiếp có hành động phản kháng thực ra là điều không thể không xảy ra. Nhìn chung quân thủy Kinh Châu binh biến tập thể, có khả năng bắt đầu từ sự kích động của những gián điệp do Chu Du phái đến, đã cố ý tung tin đồn nhảm, kích động hai bên nghi ngờ lẫn nhau. Sách Tam quốc chí và Ngụy thư ghi chép không rõ ràng về việc này, còn “Tam quốc diễn nghĩa” thì miêu tả Tào Tháo phái Tưởng Cán đến trại Chu Du để do thám quân tình, lại bị Chu Du lừa dối, dẫn đến chỗ Tào Tháo hoài nghi Sái Mạo và Trương Doãn có bụng làm phản.

Chẳng qua Tưởng Cán bị lôi cuốn vào câu chuyện gián điệp Tam Giang Khẩu, hiển nhiên là chuyện mà La Quán Trung hư cấu ra. Tưởng Cán thực ra có đến Giang Đông, song lúc ấy trận Xích Bích đã xảy ra được mấy năm, sứ mệnh của Tưởng Cán chẳng phải do thám quân tình mà là hoà đàm, hơn nữa ông ta còn là nhà ngoại giao ưu tú hoàn thành được nhiệm vụ của mình.
Tào Tháo vẫn là người khéo dùng binh, chẳng thể dễ dàng trúng kế như thế. Hành động binh biến của Sái Mạo và Trương Doãn, có thể có nguyên nhân nhất định nào đó; bởi tình huống chuyển biến bất ngờ nghiêm trọng, Tào Tháo không thể không lập tức ngăn chặn, phải điều động quân sĩ của Từ Hoảng và Trình Dục đánh dẹp quân thủy Kinh Châu; Sái Mạo và Trương Doãn chết trong đám loạn quân, cũng khiến sự việc này trở nên khó lý giải được. Vô luận như thế nào, cuộc chiến ở Xích Bích của Tào Tháo còn chưa bắt đầu đã tổn thất hai viên tướng chỉ huy thủy chiến rất ưu tú và cũng rất quan trọng. Bởi tình huống khẩn cấp, việc biên chế lại tổ chức cũng không có khả năng, huống chi việc bồi dưõng tướng lĩnh chỉ huy không phải là việc của một hai ngày. Tào Tháo đành phải giải tán đại bộ phận thủy quân Kinh Châu, phân tán họ vào trong đội thuyền của Trình Dục, Từ Hoảng và Trương Liêu, cải tạo ba đoàn thuyền này làm đội quân chủ lực, trực tiếp đảm đương tuyến mũi nhọn. Ngoài ra, Tào Thuần và Nhạc Tiến phối hợp quân kỵ binh và bộ binh, bố phòng ở vùng Di Lăng, tùy thời chuẩn bị vượt qua Trường Giang đánh vào lãnh thổ Đông Ngô. Nguyên trước đây Mãn Sủng phụ trách hậu cần, phối hợp vái Giả Hủ, phòng thủ Giang Lăng. Bởi trong quân đoàn tiền tuyến đội quân trực thuộc của Tào Tháo chiếm tỷ lệ rất ít bởi đề phòng chuyện bất ngờ, Tào Tháo khẩn cấp hạ lệnh, điều động Tào Nhân đang đóng ở thành Tương Dương, dẫn quân của mình về đóng ở Giang Lăng, để tăng viện. Nhìn bao quát chung, Chu Du duy trì thế thủ, song thấy rõ là có tự tin khá lớn, chuẩn bị đợi thời cơ sẽ phản công tích cực. Trái lại quân Tào bộc lộ thanh thế rất lớn, lại cũng lộ rõ thiêu tin tưởng, bởi quân sĩ trực thuộc rất ít, việc bố trí và điều động đều đã xuất hiện nguy cơ nan giải.

Lời bình của Trần Văn

Kinh, nghiệm chỉ bảo cho chúng ta, vấn đề quan trọng hàng đầu luôn xảy ra là phải nắm bắt tốt thời khắc cơ hội chuyển biến trong “Tôn Tử binh pháp”, lấy “biết người mà người không biết” và“người lộ rõ mà ta không lộ rõ” làm hai nguyên tắc lớn để thảo ra sách lượcchuyển thế yếu thành thế mạnh.

Tôn Tử cũng biết rằng: “Phàm là đầu tiên bày sẵn trận địa, lấy nhàn mà đợi địch đến; khi lâm trận phải ra sức tranh giành thắng lợi. Kẻ khéo điều khiển việc quân phải biết người mà người không biết đến”. – Nói cách khác, trước tiên phải dụ địch vào vị trí chiến đấu, trước lúc kẻ địch kéo đến, đã có thời gian nghỉ ngơi ấy là “dĩ dật đãi lao”. Khi kẻ địch đã kéo đến trận địa của mình, trước lúc giao chiến, thì đã bị mỏi mệt bởi phải hành quân. Bởi thế kẻ làm tướng giỏi tác chiến đại đa số biết chủ động lựa chọn chiến trường, hấp dẫn kẻ địch kéo lại, mà không để kẻ địch tạo ra chiến trường để hấp dẫn mình.
Thắng bại ở nơi chiến trường, thường quyết định ở cho tranh giành quyền chủ đạo. Để mất quyền chủ động dễ bị đối phương câu thúc, lôi kéo vào thế bị động, dễ dẫn đến thất bại. Thông thường kẻ phòng thủ là tác chiến tại chỗ, không dễ nắm quyền chủ đạo; kẻ tiến đánh là tác chiến ở ngoài dễ nắm chủ động hơn cho nên nhìn chung mà nói, tinh thần của kẻ tiến đánh thường mạnh mẽ hơn song đối với chiến trường có hoàn cảnh địa lợi quen thuộc, thi lại khác, kẻ phòng thủ quen thuộc địa hình dễ nắm quyền chủ đạo về địa lợi, kẻ tiến đánh thường không hiểu biết mà bị rơi vào cạm bẫy bầy sẵn của đối phương.

Bởi thế kẻ làm tướng tài giỏi trừ khi đã bị bao vây hoàn toàn, nếu không thì đại đa số cũng không chịu giữ phòng thủ tiêu cực, chỉ biết núp phía sau giữ thành khiến mình hoàn toàn rơi vào thế bị động. Trái lại họ thường chủ động xuất kích, tại vùng đất của mình tìm một nơi thích hợp tác chiến, sau khi làm tốt công việc phòng ngự, lại quyết đánh lại kẻ địch kéo đến bằng một trận sinh tử. Chiến thuật này, chẳng những có thể chủ động tác chiến, hơn nữa có thể nắm được hoàn cảnh chiến trường, là thủ đoạn rất hay để chuyển thế yếu thành thế mạnh.
Danh tướng nước Nga là Côtudôp, lấy không gian đổi lấy thời gian, khéo lựa chọn Oatéclo làm chiến trường khiến danh tướng bậc nhất Napôlêông phải gánh chịu thất bại nặng nề. Khi tác chiến ở Quan Độ, Tào Tháo củng sử dụng chiến thuật này đánh bại binh lực của Viên Thiệu gấp mình 10 lần. Trong trận đánh then chốt xảy ra ở bờ Xích Bích, lại chính Chu Du vận dụng nguyên tắc này để đối phó với Tào Tháo.
Chủ động nắm chiến trường, tranh thủ quyền chủ đạo, có thể tập trung binh lực, làm cho kẻ địch phân tán. Thái độ của kẻ địch bị chúng ta cố định, lại chẳng thể biến hoá, mất đi năng lực ứng biến trên chiến trường như thế ắt sẽ dẫn đến cái chết chẳng thể tránh khỏi. Tôn Tử nói: “Người lộ mà ta không lộ thì ta chuyên nhất mà địch phân tán, ta chuyên làm một địch phân tán làm người, là lấy mười chọi một vậy”. Đây cũng là phép chuyển cơ rất quan trọng giúp kẻ yếu đuối giành được thắng lợi.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.