Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện

4 . Thêm điều thiện, bỏ điều ác, làm hạn chế bớt tham nhũng



Sau khi đảm nhiệm chức Thừa tướng, Gia Cát Lượng viết huấn lệnh bảo ban mọi người, động viên mọi người nói thẳng hơn nữa, ông nói: “Nếu tránh những xích mích nhỏ, không trao đổi với nhau thì hại đến triều đình”. Nếu như nhận phê bình mà không vừa lòng hoặc bởi tránh hiềm nghi, sợ đắc tội với người, không thể thảo luận rõ hai mặt trái phải của vấn đề, thì quyết định kế sách sẽ có sai lạc mà tạo thành tổn thất quốc gia. Gia Cát Lượng chủ trương, quyết sách gì cũng phải qua trao đổi mà thống nhất, cũng tức là vận dụng phương pháp tranh luận phản để để đưara kết luận chính xác. Chẳng những yêu cầu thuộc hạ phải làm được, Gia Cát Lượng tự mình thi hành, lấy kinh nghiệm bản thân ngày xưa quan hệ với những người thầy, người bạn tốt như Thôi Châu Bình, Từ Thứ mà thản nhiên nói với mọi người. Đặc biệt với những trợ lý thân cận lâu năm đi theo ông như Đổng Hoà và Hồ Tế, thái độ xử sự của ông là luôn luôn nhắc nhở thẳng thắn, chỉ bảo rõ ràng, để các quan chức cao cấp và thuộc hạ cùng tham khảo.

Tích cực khuyến thiện cố nhiên là quan trọng, song việc xua đuổi cái xấu cũng là trách nhiệm của người làm việc quan.
Trong thiên “Tiện nghi” Gia Cát Lượng nhấn mạnh, làm việc quan phải nghĩ đến “Tăng điều thiện bớt điều xấu” cũng tức là thái độ tiến cử hiền tài, giảm bớt tham nhũng. Trong “Xuất Sư Biểu” ông muốn hậu chủ Lưu Thiện thân hiền thần, xa tiểu nhân, ông cho rằng thiếu vắng hiền tài thì sẽ còn kẻ xu nịnh, là bắt đầu sự bại hoại tất cả, cho nên “phàm nước nguy không sửa sang, dân không an cư, bởi thiếu hiền tài mà không nguy, được hiền tài mà không yêu, chưa từng có vậy”.
Gia Cát Lượng tuy thuộc phái Thanh Lưu, song rất trọng thực tiễn, ông rất biết những phần tử tri thức cuối đời Hán trọng hư danh dựa dẫm với nhau, phong cách kẻ sĩ bại hoại, người thích xa xỉ quá nhiều, là nguyên nhân chủ yếu nguy vong quốc gia, là sự không biết nhục của sĩ đại phu, là mối sỉ nhục cho quốc gia.
Gia Cát Lượng nhấn mạnh nguyên tắc “trị thực mà không trị hư”. Ông ta nói: “Vì người mà chọn quan thì loạn, vì quan mà chọn người thì tốt”. Ông coi trọng thực tiễn, cốt là người hiền, không cứ xuất thân, không kể từng trải, lựa người không nghĩ đến hạn chế của họ. Dương Hồng, Hà Chi được đề bạt đặc biệt là phát huy tinh thần ấy của Gia Cát Lượng.
Gia Cát Lượng đối với người ta tuy có điểm nghiêm túc mà ít thông biến, song ông đối đãi khiêm nhường, tuyệt không áp chế kẻ dưới. Ông rất phản đối hành vi cậy mình lão thần, tranh quyền đoạt lợi, nếu bị phát hiện, thường không xét đến địa vị cao, quan hệ thân thuộc, nhất định nghiêm khắc chỉ trích, đối với những việc hỗn loạn nội bộ nguy hại lớn cho quốc gia quân đội, thì nhất luật trừng trị tuyệt không tha thứ. Đối với những người có cá tính riêng mình cậy tài, đố kỵ nhỏ nhen, tuy không phải là điều xấu lớn, cũng nhẫn nại thuyết phục để có thể sửa đổi được. Trong chính quyền Thục Hán, những người có địa vị cao như Lý Nghiêm, Liêu Lập, Lai Mẫn đều bị bãi chức, phế làm thường dân. Còn Lưu Đàm, Trương Duệ, thì được Gia Cát Lượng khuyên răn không mỏi, có được cơ hội hối lỗi. Lý Nghiêm, Liêu Lập như trên đã nói không được phục chức. Lai Mẫn là người Nam Dương vốn hậu duệ của đại lão thần Lai Hấp đời Quang Vũ đế, là dòng dõi cao sang. Ông vốn là tân khách của Lưu Chương sau khi Lưu Bị chiếm được Ích Châu được bổ nhiệm làm Điển học hiệu uý.

Chỉ phải Lai Mẫn vẫn tự cho mình là danh sĩ nước Sở, thích phê bình chính sự, xem thường các đại thần trong triều, làm căng thẳng quan hệ với mọi người, thường có xung đột với xung quanh.
Gia Cát Lượng thường cảm thán rằng: “Lai Mẫn làm rối loạn quần thần, chẳng khác Khổng Văn Cử” (Khổng Văn Cử là cháu Khổng Tử tự coi mình là danh sĩ, thường va chạm với Tào Tháo, sau bị Tào Tháo giết đi). Lưu Bị xưng đế, lúc đó Thượng thư lệnh Lưu Ba tiến cử Lai Mẫn làm Thái tử gia lệnh.

Lưu Bị tuy không vừa ý, song ngại mặt Lưu Ba miễn cưỡng bổ nhiệm.
Sau khi Lưu Thiện lên ngôi, bổ nhiệm Lai Mẫn làm Hổ bôn trung lang tướng, nắm quân túc vệ, có quyền lớn trong triều đình.
Gia Cát Lượngkhi chuẩn bị bắc phạt, đối với Lai Mẫn rất không yên tâm, bèn đề bạt Đổng Doãn là người biết lo công việc, kiêm chức Hổ bôn trung lang tướng thay cho Lai Mẫn. Còn Lai Mẫn thì được thăng làm Tế tửu, phục quốc tướng quân đi theo ở trong quân để dễ khống chế. Song lại dẫn đến sự bất mãn của Lai Mẫn, chẳng những phê bình Gia Cát Lượng dùng người không đích đáng, lại công khai phỉ báng Đổng Doãn, tạo nên không khí căng thẳng trong triều đình. Gia Cát Lượng đành phải phạt tội bồng bột của Lai Mẫn, bãi cả quan chức, lại lệnh cho đóng cửa suy nghĩ, đối với việc này Gia Cát Lượng còn viết ra một thiên giáo lệnh, nhắc nhở các quan chức trong triều đình chẳng thể tái diễn hiện tượng như Lai Mẫn, nếu không sẽ xử tội nặng.
Trương Duệ tên chữ là Quân Tự, là danh sĩ ở Ích Trung, rất ham nghiên cứu lịch sử. Thời Lưu Chương làm Trướng hạ tư mã, từng dẫn quân kháng cự lại Lưu Bị, sau thua trận phải đầu hàng. Lưu Bị có được Thục Trung, lại bổ nhiệm Trương Duệ làm Thái thú Ba Quận, kiêm Trung lang tướng. Khi Ung Khải phản loạn ỏ phía nam, được bổ nhiệm làm Thái thú Ích Trung, song Trương Duệ không bình loạn được mà còn bị giặc bắt, đưa đến Đông Ngô thành tù binh.
Gia Cát Lượng thấy Trương Duệ có học vấn, làm việc tích cực, đã lệnh cho Đặng Chi trao đổi với Tôn Quyền, xin tha cho Trương Duệ. Trương Duệ sau khi về nước Thục, Gia Cát Lượng rất quý trọng ông ta, hai người có quan hệ khá sâu đậm. Năm Kiến Hưng thứ năm, khi Gia Cát Lượngđóng ở Hán Trung chuẩn bị bắc phạt, đặc biệt bổ nhiệm ông ta làm Trưởng sử, cùng với Tưởng Uyển phụ trách việc chỉ huy phủ Thừa tướng.
Song Trương Duệ có quan chức cao, lại chỉ nghĩ đến tư riêng, với các đại thần trong triều thường xảy ra xung đột. Hơn nữa với Thái thú Dương Hồng và Hiệu uý Sầm Thuật lại xảy ra va chạm nghiêm trọng. Dương Hồng với Trương Duệ vốn không có thù hằn, song con trai Trương Duệ là Trương Úc, là thuộc hạ của Dương Hồng, bởi phạm lỗi mà bị xử phạt, Trương Duệ bèn nhân việc ấy, cãi cọ với Dương Hồng, hai người đổi bạn thành thù. Sầm Thuật bởi công tác lâu năm giỏi giang, được Gia Cát Lượng xem trọng. Trương Duệ uy hiếp địa vị của Sầm Thuật, sẵn lòng ghen ghét, thường kiếm cớ làm phiền ông ta tạo thành sự bất hoà nghiêm trọng.
Việc này khiến Gia Cát Lượng khá bực mình, song Tưởng Uyển bởi nể nang không tiện khuyên can, nên tình hình càng ngày xấu đi. Gia Cát Lượng nghĩ đến tình cảm cũ, đặc biệt viết thư khuyên răn:
Từ cổ đến nay, bạn hữu có quan hệ sâu nặng, càng phải cử người hiền mà không nghĩ đến thù riêng, xử tội mà không nghĩ đến thân tình, mọi việc đều lấy phép công làm đầu, huống chi ta trọng dụng Sầm Thuật cũng là bồi dưỡng nhân tài quốc gia, ông sao chẳng hiểu ra nhỉ?
Bởi thái độ Gia Cát Lượng cương quyết mà thành khẩn, Trương Duệ rất cảm động, bèn chủ động giao hoà với Dương Hồng, Sầm Thuật lại cùng với Tưởng Uyển hợp tác mật thiết, cùng trông coi việc triều đình. Trương Duệ sau này khen Gia Cát Lượng “Thưởng không kể xa, phạt không kể gần”, nghĩ rằng cũng là kinh nghiệm thân thiết, lời nói chân thực vậy.
Lưu Đàm tên chữ là Uy Thạc, người nước Lỗ, thời Lưu Bị làm Dự Châu mục, có cho ông ta làm tòng sự. Bởi cùng họ với Lưu Bị cho nên rất thân thiết. Tam quốc chí có chép: Lưu Đàm phụng chỉ cung kính, giỏi việc đàm luận, Lưu Bị rất cảm mến ông ta thường dẫn theo ở bên mình.
Danh vị ở triều đình gần với Lý Nghiêm, kể ra trong nội các của Gia Cát Lượng là một quan chức trọng yếu. Song Lưu Đàm lại sinh tính xa xỉ, sinh hoạt bừa bãi, thị tỳ thường có vài chục người, trong nội các thanh liêm của Gia Cát Lượng kể ra đó là người đặc biệt. Gia Cát Lượng đối với hành vi của ông ta rất đau đầu, bất đắc dĩ đành phải biên chế ông ta vào đạo quân bắc phạt, nếm trải những ngày gian khổ ở doanh trại. Song Lưu Đàm cậy mình có công lớn, với chính quyền họ Lưu có quan hệ mật thiết, thường vẫn uống rượu ở trong quân, nói năng bừa bãi, đến như mãnh tướng Ngụy Diên đứng đầu trong quân, cũng không vừa lòng với ông ta, khiến cho Gia Cát Lượng chẳng thể nhường nhịn, cho gọi đến doanh tướng, nghiêm khắc trách cứ cùng cảnh cáo nặng nề. Lưu Đàm bị nạt nộ như vậy, ông ta chẳng ngờ Gia Cát Lượng rất bực tức với mình. Song kiểm thảo lại tự mình có việc làm thái quá, lại nhận ra sự bực tức của Gia Cát Lượng không có ác ý, tất cả vẫn là tại mình, vì thế viết một bài tự kiểm điểm, công khai nói rõ:

Lưu Đàm tôi bản tính trống rỗng, thao lược nông cạn, lại có bệnh rượu chè, từ thời tiên đế đến nay, thường gây phiền phức, thậm trí còn động đến sự an nguy của triều đình.
Nay Minh Công (chỉ Gia Cát Lượng) một lòng vì nước, không khinh bỉ sự uế tạp của tôi, vẫn tận lực giúp đỡ khiến tôi có được địa vị hôm nay. Song tôi thường vẫn u mê nói năng có sai phạm, gây ra không ít phiền phức, may mà Minh Công nhân từ nhường nhịn, không quá bắt bẻ trách cứ, khiến tôi dưới trăm sự sai lầm, còn miễn cưỡng giữ được tước lộc và tính mạng. Từ này về sau, tôi sẽ nghiêm khắc với mình, sửa lỗi đến chết, thể với thần linh không tái phạm nữa, nếu không sẽ chẳng có mặt mũi nào mà thấy người ta.
Lời văn kiểm thảo này khá sâu sắc, chân thành, xét thân phận của Lưu Đàm cũng khó phù hợp với thực tế quân đội, bởi thế Gia Cát Lượng tha thứ cho ông ta, cho ông ta trở về Thành Đô vẫn làm chức vụ Quân kỵ tướng quân. Từ đấy về sau, Lưu Đàm tự sửa lỗi lầm, giữ mình trong sạch. Chỉ tiếc sau khi Gia Cát Lượng mất, ông ta lại trở về bệnh cũ, không lâu sau bởi có lỗi với LưuThiện, bị tự xử mà chết.
Sự việc này cho thấy Gia Cát Lượng là một chính trị gia có tài, có thành tích điều hành nước Thục, các quan chức của Thục Hán, đại đa số đều từ bỏ lối sống xa hoa, lo lắng trung thành với chức vụ, cố gắng từ bỏ sự giả dối phù hoa, khiến cho Thục Hán thành ra một quốc gia chính trị trong lành, quan lại đoan chính nổi trội trong ba nước.
Trần Thọ khen ông ta có thể làm cho quan lại Thục Hán tự cố gắng không giả dối, chủ yếu là ông ta đối nhân xử thế, có thể triệt để làm được việc, tha cho kẻ biết hối lỗi, trừng phạt nặng kẻ giả dối. Công bằng nghiêm minh, tất cả vì việc công, cho người ta có cơ hội vươn lên, thành tích điều hành của Gia Cát Lượng đích xác là nghìn năm khó thấy.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.