Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện
5. Cải tổ kết câu xã hội, tiêu trừ gốc rễ rối ren
Giao thông không thuận tiện, địa thế hiểm trở, lại thêm tổ chức kiểu bộ lạc, đối với bên ngoài cơ hồ toàn do thủ lĩnh và trưởng lão khống chế, đấy là nguyên nhân rất chủ yếu để vùng Nam Trung xảy ra phản loạn không ngừng, các bộ lạc tự ý cát cứ xưng vương.
Sau khi bình định Nam Trung, Gia Cát Lượng dựa vào những nhân vật nòng cốt gọi là “chiến quân” của bộ lạc ấy, có kế hoạch sát nhập vào hệ hành chính quan lại, đấy chính là xây dựng cái gọi là “chế độ bộ khúc”.
“Bộ khúc” nguyên là một chế độ quân sự của vương triều nhà Hán, sau thời kỳ Đông Hán, lại trở thành đội quân bán công của giới hào tộc địa phương, khi bình thường thì cày cấy khi có chiến sự thì phục dịch trong quân đội.
Gia Cát Lượng đầu tiên lấy những người kiên dũng nhấtcủa Nam Trung sắp xếp thành quân đội, được gọi là“phi quân”. Lại đưa hơn một vạn hộ gia nhân liên quan rời về Thục Trung, phân biệt đóng trại ở các nơi. Những đội quân được sắp xếp từ Di tộc vào, sau này trở thành một quân đoàn tinh nhuệ của Thục Hán.
Như trên đã nêu, những người yếu đuối còn lại, được phân chia kết hợp với các họ lớn như Tiên, Ưng, Lâu, Thoán, Mạnh, Lượng, Lý thành các “bộ khúc”, thời bình sản xuất, thời chiến làm lính. Lại động viên các họ này dùng tiền thu mua các chiến binh bộ lạc thiểu số, để tổ hợp vào cơ sở mình, quân lính hỗn hợp với người Hán được gọi là bộ khúc Hán Di.
Chế độ này đã thoả mãn mong muốn chính trị và lợi ích kinh tế của những họ lớn ở Nam Trung, khiến quan hệ giữa họ và triều đình Thục Hán duy trì khá tốt, thành ra trụ cột của việc ổn định Nam Trung. Nếu như lại có bộ lạc nảy sinh phán loạn, Trù hàng đô đốc và Thái thú các quận sẽ tổ chức lực lượng vũ trang của những họ lớn và bộ khúc Hán Di, để tiến hành công việc bình định phản loạn.
Trong một ngôi mộ cổ thời Đông Tấn ở Vân Nam, thấy có một bức họa trên vách. Hình vẽ thứ nhất có 13 chiến sĩ, đều ăn mặc kiểu người Hán, tay cầm dao sắc, nhóm chiến sĩ thứ hai, thứ ba đều búi tóc trên đầu, đấy là “kiểu tóc như bồ tát nhà trời” trên người khoác da thú, ăn mặc kiểu người Di gồm có 27 người, đó là hình thức tổ chức bộ khúc Hán Di. Tuy là bức vẽ thời Đông Tấn song tin rằng vẫn có liên quan với “Bộ khúc Hán Di” của Gia Cát Lượng.
Bộ khúc Hán Di chẳng những phù hợp với người Hán và người Di, cải thiện tình cảm giữa các dân tộc, đồng thời về tăng cường tổ chức với chế độ xã hội ở Nam Trung cũng có quan hệ trực tiếp. Chính sách vỗ yên ở Nam Trung của Gia Cát Lượng, đích xác khiến quan hệ giữa người Di và người Hán được cải thiện rất nhiều. Ví như gần đây những chuyện về Gia Cát Lượng vẫn được lưu truyền rộng rãi ở đấy. Ngoài việc lợp nhà, đan rổ rá, trồng rau Khổng Minh và cấy lúa đã nêu ở trên, dân tộc Thái cũng có truyền thuyết kể rằng, đỉnh nóc của đại điện phật tự Thái tộc của họ là mô phỏng cái mũ của Gia Cát Lượng mà làm ra. Những người ở Nam Trung cũng thường gọi trống đồng là trống “Gia Cát”, thể hiện tổ tiên họ rất tôn kính và tưởng nhớ Gia Cát Lượng.
Nghe nói năm đầu Dân Quốc người ở bộ tộc Lật Túc đã từng lưu truyền như thế này: Người truyền giáo phương tây để tuyên truyền cho đạo Cơ Đốc, cố ý muốn mọi người quên đi sự sùng bái Gia Cát Lượng, thế rồi đưa ra một thần thoại như sau: “Thượng đế có hai người con, con cả là Khổng Minh, con thứ là Gia Tô, quá khứ con cả cai quản, hiện nay thời đại đã biến đổi, tất cả phải do Gia Tô tiếp quản”.
Câu chuyện lưu truyền này, cũng cho thấy địa vị của Gia Cát Lượng trong lòng các dân tộc thiểu số. Song bình tâm suy nghĩ, thành quả thực sự trong chính sách Nam Trung của Gia Cát Lượng, lại vĩ đại không như ông ta đã nghĩ suy.
Có thể Gia Cát Lượng và một số quan lại quan trọng có ý tốt điều hành Hán Trung, mà những quan lại hành chính thực sự chấp hành ở đấy, lại không thể có thể tiêu hoá được quan niệm điều hành của Gia Cát Lượng. Đi kèm với sự phát triển kinh tế, triều đình Thục Hán cũng bóc lột các dân tộc thiểu số Nam Trung nhiều hơn.
“Nam Dương quốc chí” có chép, những đặc sản Nam Trung như vàng, bạc, sơn đỏ, trâu cày, ngựa chiến không ngừng được chuyển về Thục Trung để đáp ứng nhu cầu trong nước. Bởi thế những dân tộc thiểu số bị trực tiếp bóc lột không thể không đứng dậy phản kháng, sự kiện Cung Lộc làm Thái thú ở quận Việt Huề bị giết chính là bởi thế mà ra.
Thực ra, những quan lại Thục Hán đối với Di tộc ở Nam Trung, vẫn chưa có ấn tượng tốt. Đại học sĩ Tiến Chu từng công khai chỉ rõ:
Đất Di tộc phương nam xa xôi, bình thường đã không thuận theo, bởi nhiều lần phản loạn, Thừa tướng Gia Cát Lượng phải tự mình dẫn quân nam chinh, đem binh lực đến, may mắn thành công, thế rồi lại cho họ làm quan, lại cấp cho binh lính, gây ra oán thù chồng chất, thực là người gây ra tai họa vậy. Khá thấy các quan lại Thục Hán sau khi Gia Cát Lượng đã bình phục được Nam Trung, ra sức tiến hành chính sách vỗ yên, vẫn có sự xem thường và bất mãn rất lớn.
Chính bởi như thế sự ưu ái của Gia Cát Lượng đối với Di tộc phía nam, chẳng thể hoàn toàn phát huy hiệu quả, toàn tâm qui phục. Gia Cát Lượng trở về Thành Đô không lâu, người Nam lại làm phản giết cả quan tướng ở đấy. Lý Khôi phải thân chinh thảo phạt, dẫn dụ lợi hại mới khiến được sự bạo động tạm lắng xuống.
Quận Tam Ca, Hưng Cổ cũng có phản loạn. Trù hàng Đô đốc Mã Trung phải tự mình thảo phạt. Phản loạn ở quận Việt Huề lại càng nghiêm trọng. Tam quốc chí nói: “Gia Cát Lượng còn sống thì phương nam không dám lại làm phản” thực ra chỉ không có phản loạn lớn phát sinh mà thôi.
Song Gia Cát Lượng đích xác đã triệt để cải cách sách lược biên cương truyền thống người Hán uy hiếp người Di, thừa nhận quyền sống của Di tộc phương nam, tôn trọng văn hoá và tập tục của họ. Hàng nghìn năm lại đây, vẫn giành được sự tôn kính và tưởng niệm vĩnh viễn không ngừng của ngươi Di, Gia Cát Lượng đáng được xem là vĩ nhân nghìn năm chỉ có một vậy.
Lời bình của Trần Văn
Trong binh pháp Ngô Tử chỉ ra rằng, chiến tranh là thủ đoạn chính trị, sự sáng suốt chính trị mới là phương pháp duy nhất tránh khỏi chiến tranh:
“Đạo là các căn bản của nguyên tắc, khởi điểm đều trở về với tự nhiên. Nghĩa là hành vi chính đáng, lấy nghĩa làm khí chất, mới có thể thành được đại sự. Lễ là tiết chế dục vụng, tiến thoái đều có phân tấc, mới không thoái quá hoặc bất cập mới có thể trừ hại được lợi. Nhân tức là nhân ái, chỉ có thực sự yêu người, mới có thể giữ được thành tựu và phồn vinh đã có. Nếu như làm việc không hợp với đạo nghĩa, tự lấy làm cao ngạo, hoạ hại sẽ giáng vào mình.
Cho nên bậc vua chúa sáng suốt, ắt phải lấy đạo khiến thiên hạ yên định, lấy nghĩa để quản lý nhân dân, dùng lễ để bó buộc hành vi của quan lại, dùng nhân để phủ dụ thiên hạ, có được 4 đức ấy quốc gia ắt sẽ hưng thịnh, nếu không ắt sẽ nguy hiểm suy vong”.
Gia Cát Lượng khi tiến hành viễn chinh Nam Trung, xem trọng chính trị hơn quân sự, cho nên binh lực động dụng tuy không nhiều, lại tự mình dẫn quân, đã lấy lực lượng chính trị để bình định phương nam, tránh xung đột quân sự liên miên không thôi. Sau khi Nam Trung bình định, cách tân và chấn chỉnh cùng lúc xã hội chính trị, mặt bằng kinh tế mới là mục đích lớn nhất của việc ngự giá thân chinh lần này.
Sách lược “công tâm là đầu” của Mã Tắc rất được Gia Cát Lượng, khen ngợi. Chiến tranh là hành vi chính trị, chiến tranh chỉ là thủ đoạn của chính trị, Gia Cát Lượng tựa hồ sớm đã hiểu thấu được tinh thần cơ bản mà cuốn “chiến tranh luận” ở trên đã nêu ra.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.